LỊCH SỬ VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
(1957-1975)
Theo Niên Giám 2004 của HÐGMVN trang 777, Viện Ðại Học Công Giáo được thành lập vào tháng 8 năm 1957 tại Ðà Lạt, thuộc quyền sở hữu của Hội Ðại Học Ðà Lạt, mà hội viên là toàn thể các giám mục trong Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Viện có mục đích phát huy văn hóa dân tộc, bảo lưu các giá trị văn hóa cổ truyền tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, kết hợp hài hòa với luồng văn hóa quốc tế, phù hợp với tinh thần Tin Mừng Công giáo và góp phần vào giáo dục các thế hệ để phát triển đất nước và dân tộc trong bối cảnh xã hội tại Việt Nam.
Về pháp lý dân sự, Hội Đại Học Đà Lạt được giấy phép hoạt động chính thức theo Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 của Bội Nội Vụ ký ngày 8/8/1957 và bắt đầu từ niên khóa 1957-58. Nhưng trong thực tế chính nhiều người có trách nhiệm của Viện Đại Học Đà Lạt lại nói Viện này được thành lập vào những thời điểm khác nhau. Như vậy thực sự căn bản pháp lý của Hội Đại Học Dà Lạt đã có từ ngày 8 tháng 8 năm 1957.
Và để tạo điểu kiện cho Hội ĐHĐL hoạt động thì nhà nước gửi sinh viên của chính phủ lên thụ huấn bởi chính những giáo sư từ Sàigòn đến Viện Đại Học Đà Lạt giai đoạn ban đầu, ít nhất là ba năm từ các niên khóa 1958-1959 đến 1961. Đây là năm có khóa tốt nghiệp đầu tiên của ba năm thụ huấn tại Đà Lạt của sinh viên ban Triết Học và Pháp Văn, do nhà nước gửi tới.
Văn kiện thứ hai là Sắc Lệnh số 232/NV do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ký ngày 9/9/1959 công nhận Hội Đại Học Đà Lạt là một hội công ích và công nhận Hội Đồng Quản Trị của Hội này là một tổ chức pháp nhân. Căn bản đó giúp Hội Đại Học có đầy đủ tư cách pháp nhân để tạo mãi tài sản hợp pháp, được hưởng nhiều thứ quyền lợi về kinh doanh, nhất là xuất nhập cảng, với nhiều ưu tiên khác, như không phải đóng thuế vì hoạt động công ích.
Từ ngày thành lập cho đến trước 30 tháng 4 năm 1975, Viện Đại Học Đà lạt lần lượt có năm phân khoa: Viện có thể khai giảng thực tế từ năm 1958 với các khoa Văn Học, Triết lý và địa lý học và khoa học, về sau đến khoa Sư Phạm và Chính Trị Kinh Doanh. Khoa Thần học thì có ở Giáo Hoàng Học Viện.
Về pháp lý dân sự, Hội Đại Học Đà Lạt được giấy phép hoạt động chính thức theo Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 của Bội Nội Vụ ký ngày 8/8/1957 và bắt đầu từ niên khóa 1957-58. Nhưng trong thực tế chính nhiều người có trách nhiệm của Viện Đại Học Đà Lạt lại nói Viện này được thành lập vào những thời điểm khác nhau. Như vậy thực sự căn bản pháp lý của Hội Đại Học Dà Lạt đã có từ ngày 8 tháng 8 năm 1957.
Và để tạo điểu kiện cho Hội ĐHĐL hoạt động thì nhà nước gửi sinh viên của chính phủ lên thụ huấn bởi chính những giáo sư từ Sàigòn đến Viện Đại Học Đà Lạt giai đoạn ban đầu, ít nhất là ba năm từ các niên khóa 1958-1959 đến 1961. Đây là năm có khóa tốt nghiệp đầu tiên của ba năm thụ huấn tại Đà Lạt của sinh viên ban Triết Học và Pháp Văn, do nhà nước gửi tới.
Văn kiện thứ hai là Sắc Lệnh số 232/NV do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ký ngày 9/9/1959 công nhận Hội Đại Học Đà Lạt là một hội công ích và công nhận Hội Đồng Quản Trị của Hội này là một tổ chức pháp nhân. Căn bản đó giúp Hội Đại Học có đầy đủ tư cách pháp nhân để tạo mãi tài sản hợp pháp, được hưởng nhiều thứ quyền lợi về kinh doanh, nhất là xuất nhập cảng, với nhiều ưu tiên khác, như không phải đóng thuế vì hoạt động công ích.
Từ ngày thành lập cho đến trước 30 tháng 4 năm 1975, Viện Đại Học Đà lạt lần lượt có năm phân khoa: Viện có thể khai giảng thực tế từ năm 1958 với các khoa Văn Học, Triết lý và địa lý học và khoa học, về sau đến khoa Sư Phạm và Chính Trị Kinh Doanh. Khoa Thần học thì có ở Giáo Hoàng Học Viện.
HỒI KÝ
Giáo Sư Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương
“Le moi est haïssable” (Cái tôi đáng ghét). Câu ấy của Pascal đã làm cho tôi nhiều lần có ý định kể chuyện về đời mình rồi lại thôi. Kể làm gì? Có ích lợi gì cho ai không? Không khéo chỉ là dịp cho mình quay về với mình, đi tìm chính mình trong sự duy kỷ trung tâm (égocentrique) nếu không là vị kỷ (égoïste), tự ngắm mình, chết chìm trong ‘cái tôi’, tự phô trương, tự mãn! Nhưng rất nhiều bạn bè thuộc nhiều xu hướng bảo tôi nên ghi lại những quãng đường đời có lắm khúc quanh co của tôi. Vì tuy là một người tầm thường, nhưng tôi được cái may mắn (hay không may?) trải qua khá nhiều biến đổi từ sinh hoạt bên ngoài, cũng như trong đời sống tâm tư: xuất thân từ một gia đình khoa bảng Nho học, cho đến nay 61 tuổi đầu. Tôi đã từng mặc áo rộng xanh lễ Thành Hoàng ở đình làng; đã từng trú ngụ tại một ngôi chùa, chiều chiều đến thỉnh 108 tiếng chuông thu không; đã chịu phép Thánh Tẩy, tu dòng Phanxicô, tu dòng Biển Đức; đã từng tham gia Đội Tuyên Truyền Xung Phong tỉnh Hà Tĩnh năm 1946; bị động viên học trường sĩ quan Thủ Đức, du học tại Pháp, làm quyền khoa trưởng Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt; học tập cải tạo tại Sông Mao, làm cán bộ tại Ủy Ban Khoa Học và Kỹ Thuật, cán bộ tại Ủy Ban Mặt Trận tỉnh Lâm Đồng và sau cùng “Về vườn” trồng cây ăn quả, thả cá, chờ ngày được Thiên Chúa gọi từ giã cõi đời này ra đi.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |
|
Ban Giảng Huấn
Niên Khóa 1973-1974
Tưởng Niệm
TRƯỜNG XƯA NGÀY ẤY... BÂY GIỜ
Võ Duy Thặng, ctkd-8, sưu tập hình ảnh và thực hiện. |
|
|
World ThuNhan Congregation is a worldwide assembly of former Professors and Students who were at the University of Dalat, Vietnam, in the years prior to 1975. The occurrence is planned for every two years wherever there are the associated members and when possible.
First created: March 2010
First created: March 2010