Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
15. ĐI TÌM MỘT NẾP TU
Thế là từ năm 1957 đến 1960 – là năm tôi tốt nghiệp “Cử nhân Triết học”, tôi muốn sống cuộc đời của một du học sinh tại Pháp. Về mặt tài chính phí tổn ăn học một phần do thân hữu của Lm. Nguyễn Bình An, một phần do chính phủ Pháp trợ cấp cho sinh viên nghèo, một phần do tôi làm việc, chủ yếu là dạy phụ đạo cho một số học sinh trung học cấp II. Tôi cũng dạy môn La tinh và Anh văn cho một em học sinh lớp đệ ngũ (Cinquième). Cũng do một phần là trú ngụ tại ký túc xá – do một linh mục hội Thừa sai Paris chủ trương, tiền trọ cũng tương đối nhẹ, ăn uống thì tại các quán ăn sinh viên, giá rất rẻ. Đời sống kể ra khá vất vả, nhưng nói chung không thiếu thốn. Việc học cho đến hết cấp cử nhân tương đối nhẹ nhàng đối với tôi: vốn có một năng khiếu tạm đủ về môn Triết, lại được học hết chương trình 2 năm triết ở học viện dòng Phanxicô, nên tôi không phải cố gắng nhiều lắm cũng có thể thi đậu các chứng chỉ triết học ở cấp cử nhân. Tôi đã không cố gắng nhiều trong việc học. Bây giờ sự việc đã qua, xét mình lại, tôi có ý nghĩ có lẽ tôi đã không làm tròn bổn phận như Lm. An chỉ dẫn, mà chỉ vâng lời nửa vời. Lúc bấy giờ và suốt 9 năm ở Pháp, nỗ lực chính của tôi là tìm kiếm một dòng tu, chứ việc học triết, việc thâu nhập cái gì thuộc “văn minh” Tây phương tôi không lấy gì làm thiết tha cho lắm.
Hình như cuối cùng tôi chỉ thâu nhận những gì là Kitô-tính trong cái tổng hợp được gọi là văn minh Âu Tây; còn những cái khác như duy lý của Hy lạp, duy luật của Rôma, duy khoa học kỹ thuật của văn hoá Phục Hưng, tức là cái văn hoá ngoài Kitô giáo của Tây phương, tôi đều dị ứng và không chấp nhận. Trong tôi dường như vẫn còn cái “hạt nhân Đồ Nho” không gì phá vỡ được, chống lại mọi xâm nhập của nền văn hoá Tây phương ngoài Kitô giáo, trước hết là triết học. Khi theo dõi các giáo trình thuộc chứng chỉ “Luận lý và Siêu hình”, nhiều túc tôi muốn bỏ lớp học mà ra, vì nó quá khô khan trừu tượng, quá tư biện, chẻ sợi tóc làm mười. Ví dụ rõ ràng nhất là hệ thống của Spinoza, của Hégel, tôi có cảm tưởng họ dựng đứng lên một hệ thống toàn là khái niệm trừu tượng, chỉ có tính cách luận lý chứ gần như không ăn nhằm gì với hiện thực cụ thể cả. Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng đó chỉ là những bộ xương khô không còn huyết nhục nữa. Chúng chới với bay bổng trong một thế giới phạm trù kiến thức đồ sộ, khá khúc chiết, chí lý, chặt chẽ; nhưng hình như không có nến trên hiện thực. Mọi hệ thống đều như cắt một miếng từ hiện thực, rồi hết Duy này đến Duy nọ: duy tâm, duy tưởng, duy vật, duy linh, duy lý, duy Nghiệm… Cái tệ của triết học Tây phương là DUY, so với những trang của Khổng, của Lão, của Ấn Độ, thì khác nào như những bộ xương khô bên cạnh những vật sống động hiện thực! triết học Tây phương có thể là sắc bén, đôi khi sâu sắc, Nhưng ít thâm thúy, tất cả như bị phạm trù hoá, đối thể hoá, ngôn từ hoá, hệ thống hoá, cơ giới hoá một cách khủng khiếp. Thỉnh thoảng có Pascal, Kierkegaard, Bergson, Max Scheller, Gabriel Marcel, nhưng dường như các triết gia này bị xem như dòng phụ lưu ngoài lề. Vì vậy, tôi thấy học thì học vậy cho vui, chứ chẳng bổ ích gì thực sự cho trí thức, cho sự sống con người cụ thể có xác thể, có linh hồn (chứ không phải chỉ có tinh thần theo nghĩa trừu tượng). Trừ Pascal ra, tôi không hề tôn nhà triết học Tây phương nào làm “Thầy” được cả! Tôi quan niệm triết học là “Tầm sư học đạo” chứ không phải nghe tư biện vòng vo cho nên, đối với một kẻ đã biết thày Khổng, thày Lão, tôn sư Thích Ca và cuối cùng là Thày Chí Thánh Giêsu, thì ngồi nghe bình giảng về Platon, Aristote, Spinoza, Kant, Hégel… chỉ là lãng phí thời giờ, chẳng ích gì, ngoài việc lấy bằng làm nghề giáo sư triết học: mà thôi!
Vậy ở Sorbonne, tôi chỉ đến dự mỗi giáo sư vài giờ giáo trình gọi là cho biết cung cách giảng dậy vậy thôi. Điều tôi học được nơi các vị ấy không phải là nội dung giáo trình của họ, mà là cái cung cách, cái thái độ tri thức của họ: khiêm tốn, liêm khiết trí tuệ, trung thực thận trọng trong phán đoán, tôn trọng quan niệm của người khác, không quá khích, không cố chấp, không a-dua, không đua đòi phong trào; Nói tóm lại là chân thành khiêm tốn tìm “sự thật” chứ không vỗ ngực cho mình đã nắm “chân lý”, xem người khác là sai lầm, là ngụy tín. Họ trình bày những gì mình tìm mình kiếm ra một cách đơn sơ từ tốn, chứ không tuyến truyền chiêng trống một cách ầm ỹ. Có nhiều vị trình bày một cách e dè, hơi có vẻ thẹn thùng như sợ mình sai, mong mình sai, vạn bất đắc dĩ mới ngập ngừng nói rằng: “e có lẽ” tôi đúng, nhưng mà tôi mong rằng anh đúng để tôi được học thêm. Ngay cả những vị hướng dẫn sinh viên làm luận án cũng có thái độ như vậy trước những ý kiến sinh viên đưa ra. Đó là bài học quý giá nhất mà các giáo sư Sorbonne đã dạy cho tôi. Họ giúp tôi biết thế nào là học, là tri thức chứ không phải là vẹt, là học phiệt, thế nào là trao đổi, là tìm kiếm, là trình bày, chứ không phải là loè đời, phô trương, tuyên truyền, dụ dỗ; cùng nhau góp sức, nâng đỡ nhau, học hỏi nhau, cùng hướng về Chân lý. Bài học ấy có thể tóm tắt như sau: CHÂN LÝ không phải là một giá trị lý tưởng mà mỗi người giành nhau chiếm hữu như một đồ vật, chiếm được thì độc quyền ban bố phân phát theo kiểu phân phối hàng hoá hoặc độc quyền sản xuất! Bài học ấy không có bằng cấp nào làm chứng cả, nó chỉ toát ra từ nơi tác phong giảng dậy, cái mà trên đây tôi gọi là “cung cách”, là “con người”, nó không phải là vốn liếng như hành lý cồng kềnh với những nhãn hiệu, bảng vẽ lòe loẹt, mà như viên kim cương dấu kín trong người! Gần 30 năm xa cách, dáng dấp các vị thày ấy như vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Và tôi tự hỏi: Thái độ khiêm nhường ấy phải chăng bắt nguồn từ sự khiêm nhường của vị đã tự xưng mình là Chân Lý, nhưng lại cúi xuống rửa chân cho môn đệ trong một bữa tiệc thân tình mà điều san sẻ lại là chính “bản thân mình” sắp hiến tế để nuôi sống tâm hồn môn đệ mình. Ngoài ra, thái độ hướng về Chân Lý như đáp lại một lời mời gọi đòi hỏi sự quên mình hiến thân cho Chân Lý, chứ không phải là tranh đua chiếm hữu độc quyền khai thác và phân phối, cũng bắt nguồn từ cái thái độ đối với Chân Lý Tuyệt Đối đã thể hiện nơi một Con Người vốn là Chân Lý, là Đường, là Sự Sáng: GIÊSU KITÔ. Nói tóm lại, về nội dung triết lý, về cung cách thái độ trí thức chân chính, rút cuộc lại, cũng chỉ những gì thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, thì tôi mới hấp thụ: Pascal, Kierkegaard, Gabriel Marcel, Louis Lavelle, Henri Bergson cũng đều là những con người tắm mình trong tinh thần Kitô giáo một cách sâu đậm.
Vì vậy, sau khi đỗ Cử nhân, mà tôi xem như là một bảo đảm cho cuộc sống. Phòng lúc cần đến mảnh bằng với mức tối thiểu cần thiết, tôi tạm cho là đủ, cho nên tôi không nỗ lực bao nhiêu trong việc làm luận án Tiến sĩ. Thực ra, tôi thấy chẳng học thêm được gì căn bản nữa, chẳng qua là kiếm mảnh bằng cao hơn (song tôi chỉ cần cái mức tối thiểu! ), chứ công trình nghiên cứu của mình cũng chẳng đóng góp gì cho cái kho tàng kiến thức của nền Đại học ở Pháp. Tôi ghi danh Tiến sĩ là cho lấy có, chứ từ lúc xong Cử nhân hầu như tôi đã dành toàn lực cho việc tìm một con đường “tu hành”. Tình cờ tôi gặp một Linh mục dòng Biển Đức thuộc đan viện La Source ở Paris. Ngài khẳng định là tôi có dấu chỉ sống đời chiêm niệm, và giới thiệu tôi cho Linh mục Victor de la Vierge, Bề trên nhà tập tỉnh dòng Cát Minh, nhưng cần để ngài theo dõi một thời gian cho bảo đảm, nhất là về mặt sức khoẻ. Sau hai năm hướng dẫn, ngài quyết định nhận tôi vào nhà tập, nhưng còn phải có sự đồng ý của vị bác sĩ nhà dòng. Sau khi khám sức khoẻ cho tôi, vị bác sĩ này cho ý kiến là ông sợ sức khoẻ của tôi không kham nổi một cuộc sống khá ràng buộc về luật lệ của một dòng tu. Có lẽ một đời sống tuy rằng chiêm niệm, nhưng trong một khung cảnh sống thong dong hơn, “tự do” hơn, thoáng hơn, thì hợp với tư chất tâm hồn và cơ thể tôi. Thế là việc nhập dòng Cát Minh của tôi đành xếp lại. Đó là vào quãng năm 1961. Từ khi đọc quyển “Kể chuyện một tâm hồn” của Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux, từ năm 1950 đến năm ’61, tôi tưởng là thuyền sắp cập bến, ai ngờ! Không thể nói hết được sự khổ tâm của tôi lúc bấy giờ. Nhưng rồi tôi lại vươn dậy tìm một con đường tu hành khác. Bà cụ cho tôi thuê nhà ở trọ vẫn thường hay lui tới nguyện đường “Corpus Christi” thuộc nhà mẹ dòng Thánh Thể. Bà giới thiệu tôi với một Linh mục thuộc tu viện ấy. Sau một năm theo dõi, vị này đi đến kết luận là tôi có hy vọng vào nhà tập dòng Thánh Thể. Thế nhưng, khi tôi gặp lại cha Bề trên tỉnh dòng Thánh Thể Paris, Cha lại sợ tôi không đủ sức khoẻ để sống đời tu trong một cộng đoàn có kỷ luật chặt chẽ, nên không đồng ý nhận tôi vào dòng.
Thấy mọi con đường đưa đến đời tu trì đều tắc nghẽn, tôi lại có ý định trở về Việt Nam, mặc dầu luận án Tiến sĩ chưa hoàn thành. Bởi vì như trên đã trình bày, ở lại Pháp, mục đích chính của tôi là tìm hướng cho đời tu trì, chứ không phải là “Tây du học”. Nay đường tu hầu như bị chặn lối, tôi thấy không còn lý do nào ở lại Pháp nữa. Có lúc tôi đã nghĩ về lại Nghệ Tĩnh. Tôi đã rời Nghệ Tĩnh năm 1950 là vì lý do tu hành, nay đường tu bị nghẹn lối, tôi nên trở về chốn cũ, nơi mình đã sống trước khi đi tu, tức là trở về Nghệ Tĩnh. Bấy giờ, một số Linh mục thuộc các giáo phận miền Bắc, được gởi đi du học ngoại quốc trước năm 1954 cũng có ý nguyện trở về địa phận gốc của mình ở Bắc. Tôi có đề cập với anh Viện tôi về vấn đề ấy, nhưng anh cho tôi hiểu rằng việc ấy khó mà thực hiện được. Đang khi lung tung như vậy, thì tôi gặp một Linh mục dòng Biển Đức thuộc đan viện Maredsous (Bỉ) cũng đang tìm kiếm một hình thức “đan tu” nhẹ nhàng, nhỏ bé và âm thầm hơn hình thức các đan viện cổ truyền hơi quá đồ sộ, trang trọng, không hợp với hoàn cảnh xã hội ngày nay. Ngài giới thiệu tôi với một Linh mục thuộc đan viện cổ truyền Le Bouveret (Thụy sĩ) lúc ấy được Đan viện phụ cho phép lập cộng đoàn nhỏ 3 tu sĩ, ở một làng nhỏ miền Bắc nước Pháp. Sau khi trao đổi với vị Linh mục này, tôi được chấp nhận dự tu ở cộng đoàn nhỏ ấy.
Có một điều đáng lưu ý là từ ngày tôi ra khỏi dòng Phanxicô, bao giờ các vị thuộc dòng Biển Đức cũng xác nhận là tôi có triển vọng sống đời chiêm niệm và sẵn sàng nhận tôi vào dòng của các vị. Nhưng về phía tôi lại có sự ngần ngại, thấy rằng hình thức tu theo truyền thống cổ điển Biển Đức, với những đan viện có cả hàng trăm tu sĩ với nghi thức phụng vụ quá trang trọng (pompe liturgique), với những cuốn kinh nhật khoá rộng lớn hàng mét vuông, bìa da gáy vàng chữ đỏ, với các bàn quỳ bàn tọa điêu khắc công phu, như cả một tảng đá đè nặng lên hồn. Nay gặp được một hình thức mới, gọn nhẹ, thanh đạm, nhỏ bé với dăm ba tu sĩ, nguyện đường đơn sơ thu gọn bên dòng suối, dưới lùm cây, ẩn chìm hẳn ở giữa cảnh trí thiên nhiên, có phần gần gũi với các thiền viện, các am tu ở Á Đông, tôi liền xin gia nhập và được đón nhận với tất cả sự thương yêu và tin tưởng.
Sáu tháng dự tu ở đan viện nhỏ bé ấy, tôi rất thoải mái thanh thản, có thể nói khác nào như cá gặp nước. Đó là vào quãng từ tháng 4 đến tháng 10/1963. Thế rồi, cuối tháng 10/1963, tôi được đưa sang đan viện chính ở le Bouveret, Thụy sĩ, chuẩn bị vào nhà tập. Ở Đan viện này, trên bờ hồ Leman, cảnh trí thật tuyệt vời: đến giờ kinh khuya, nhìn ánh trăng soi trên mặt hồ, với đỉnh núi tuyết xa xa, thật chẳng khác non Bồng nước Nhược, cõi hồng trần như khuất hẳn, mất dạng sau dãy núi Alpes trùng điệp ở chân trời. Thế nhưng, rồi cái khuôn khổ của dòng Biển Đức lại đè nặng lên tâm hồn tôi. Những cuốn sách kinh cổ kính trong giờ nhật khoá và những nghi thức trang trọng lại như khiến tôi ngộp thở. Thêm vào đó, cái lạnh của Thụy sĩ khi phải đọc kinh vào lúc 2 giờ khuya, và chế độ ăn uống lại làm cho sức khoẻ tôi đâm ra trục trặc. Bữa cơm trưa thì ăn rất nhiều (trong khi chứng dạ dầy của tôi thì lại chỉ chấp nhận ít thôi), còn sáng và tối thì lại như không có gì. Bữa trưa tôi chỉ ăn được độ 1/4 khẩu phần, rồi từ chiều cho đến trưa hôm sau lại quá đói. Ngủ thì sau giờ kinh khuya về tôi không ngủ lại được, cứ trằn trọc cho đến sáng. Thế là tôi lại phải cáo lui, rời tu viện Le Bouveret trở về Pháp.
Lý do cuối cùng khiến tôi rời đan viện Le Bouveret như sau: vị Linh mục thuộc Đan viện Maredsous khi giới thiệu tôi với vị Lm. Đan viện Le Bouveret đã có ý sau này chúng tôi sẽ xin sang Việt Nam thiết lập hình thức đan tu gọn nhẹ, nhỏ nhoi, thanh bần, đạm bạc. Thế nhưng cả hai Đan viện Maredsous cũng như Le Bouveret lại không thuộc về Liên-đan-viện Pierre-qui-vire là tổ chức được Tổng dòng Biển Đức giao cho phụ trách các dòng tu ở Việt Nam, khiến cho cái triển vọng trở về Việt Nam thiết lập một dạng thức mới do các tu sĩ thuộc Đan viện Maredsous hay đan viện Le Bouverel e có lẽ khó bề mà thực hiện. Giới hạn này cũng do tính cách quá quy tuật của tổ chức dòng tu. Tôi thấy rằng dù dưới dạng thức cồng kềnh hay gọn nhẹ, thì mạng lưới quy luật vẫn là một ràng buộc, nếu không muốn nói là trói buộc. Có lẽ tôi quá tài tử chăng? Cái hình ảnh “Tam hợp đạo cô”, mây ngàn hạc nội đã quá ăn sâu vào tâm hồn của tôi rồi chăng? Mạng lưới giáo luật với từng điều từng khoản (ví dụ năm nhà tập thiếu một ngày cũng làm lại cả năm), những bức tường kiên cố như pháo đài, như đồn lũy, hình như không hợp với tôi. Một cánh chim bay, một tên hành khất lang thang bơ vơ kiếp lữ hành, không bị gậy, không giày dép, hoặc là hình ảnh anh chàng du ca thành Át-xi-di trước khi vâng lời Hồng y Hugolin viết luật dòng, có lẽ gần gũi với tôi hơn chăng? (Sau này khi trở về Việt Nam năm 1965, Lm. P. Nguyễn Bình An nói với tôi: “E có lẽ cậu có ơn kêu gọi như Benoit Joseph Labre - vị thánh hành khất”? Tôi nhớ lại lúc bé, đôi khi mẹ tôi vừa giận vừa mắng yêu: “Lơ đãng như con rồi thì chỉ có bị gậy ăn mày!!!)
Phải chăng lời mắng yêu của bà mẹ và lời nhận xét của cha linh hồn có tầm mức một trực giác tiên tri? Từ năm l975 - l986, tôi đổi nơi cư trú trên 10 lần, mà đến nay cũng không nhà, không cửa, không tài sản, không vị trí gì, cả trong Giáo hội cũng như trong gia đình và ngoài xã hội, cũng chẳng biết mai đây tôi từ trần, ai sẽ là kẻ lo việc vùi cái thân xác này vào lòng Đất mẹ để linh hồn về với Chúa Cha trên trời?
Thế là tôi lại tủi thủi lang thang trên các vệ đường Paris, trên các chuyến tàu điện, xe hoả, xe ca, vừa tiếp tục theo giáo trình của các vị giáo sư hướng dẫn luận án ở Paris, vừa dạy học ở các trường trung học Công giáo vùng ngoại ô Paris. Trong những chuyến xe, chuyến tàu khuya khoắt (có đôi khi cả một chuyến xe ca khuya hoặc cả một toa tàu hầm khuya, chỉ có một mình tôi ngồi nhìn tuyết rơi qua cửa kính), thỉnh thoảng có vài công nhân đi làm ca khuya ngủ gà ngủ gật. Tôi cũng gà gật. Gần 40 tuổi đầu, vẫn còn mơ đến một dạng thức tu trì nào đó! (Tôi cũng quên ghi lại rằng từ năm 1960, sau khi đỗ cử nhân triết thì mọi nguồn trợ cấp tài chính bị ngưng. Tôi sinh sống bằng nghề dạy học lớp triết ban trung học lại các trường trung học tư thục Công giáo vùng ngoại ô Paris, kết quả chức nghiệp tương đối tốt). Tuy ở Âu Châu đến 9 năm, tôi vẫn không “đi vào” được với xã hội gọi là “văn minh” mấy! Như trên đã nói, ngay cả đến môn triết học mà hình như tôi vẫn còn dị ứng. Paris quả là đẹp, Nhưng tôi chỉ quen một vài quán cà phê nho nhỏ vô danh ở một góc phố con lác đác sót lại – có lẽ từ thời Trung Cổ, dưới vài gốc cây phong mùa thu lá rụng, tuyết rơi, vài nhà hàng xén bán đủ thứ như hàng xén của ta, láng giềng quen thuộc, đến uống rượu cà phê khề khà như xóm nhỏ làng quê ở ta (sau này khi trở về Việt Nam tôi chỉ nhớ nhung mấy quán cà phê “cóc” ấy thôi! ), trừ các quán ấy là vườn Luxembourg mùa thu lá rụng (có lẽ tôi chỉ nhìn qua hình ảnh cậu bé ngày khai trường của Anatole France mà tôi đã dịch và học thuộc lòng từ thuở 13, lúc còn ngồi ở ghế lớp 6 trung học), tôi chỉ đi xem điện Tuilerie, Le Louvre, Panthéon… như tò mò đại khái chứ chẳng thấy chẳng cảm gì cả! Các sinh hoạt văn hoá như ca nhạc kịch cũng vậy, tôi chỉ đi xem gọi là cho biết vậy thôi, chứ tôi cũng chỉ thích và nhớ tiếng đàn bầu đàn nguyệt dưới ánh trăng bên bờ sông Hương. Những bức tranh ở Le Louvre vẫn không làm tôi quên những bức tranh thủy mạc, chỉ trừ vài bức của Rembrandt và của Ronault! Versaille, các lâu đài sông Loire chỉ làm cho tôi càng thêm nhớ nhung đến những chùa cũ rêu phong khiêm tốn âm thầm nấp dưới cỏ cây. Phương tiện giao thông hối hả chen chúc làm cho tôi nhớ những chuyến đò ngang đò dọc thời thơ ấu về thăm quê ngoại. Ở Paris cũng có quán Việt Nam, nhưng ăn tiết canh hay bánh xèo thì phải là trong quán gió bờ đê mới thật là ngon, canh rau muống phải ngồi chõng tre dưới mái tranh mới là tuyệt diệu, đôi khi tôi thèm đến quay quắt được ăn một củ khoai lang bở với dưa cải hoặc với quả cà thật mặn rồi uống một ngụm chè xanh rót ra từ cái gáo dừa khô đổ vào cái bát “đàn” thô kệch, dưới gốc cây đa một buổi trưa hè gay gắt, và hoa! Mùi thơm hoa lý, hoa ngâu, hoa bưởi, hoa mộc, hoa sói và nhất là hoa ngâu.
Giữa tiếng xe cộ đinh tai nhức óc, tôi thèm được nghe tiếng chuông chùa lúc thu không hay lúc rạng đông: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền!”. Và những lúc quá bận không có dịp đi trên các con đường không tráng nhựa ở ngoại ô Paris mà phải suốt ngày suốt tuần suốt tháng mà chỉ toàn là đường tráng nhựa, tôi nhớ da diết những ngày thuở bé đi học, đội một chiếc nón lá, quần xắn tới tận đầu gối, bám chặt trên những con đường lầy lội giữa hai làng Thịnh Xá và Gôi Mỹ đưa tôi đến trường tiểu học, miệng bõm bẽm nhai trầu cho ấm. Ôi mùi thơm trầu từ thuở bé cảm được khi mẹ, bà ngoại, các dì, các cô hôn âu yếm: chẳng có nước hoa nào bằng được! Và vành tóc đen trên gáy các bà mẹ quấn khăn nhung, cũng như khăn vải nâu có đuôi gà, chả có mái tóc “frisé” nào đẹp bằng cả! Chẳng có son phấn nào địch nổi làn môi cắn chỉ của các cô gái nhà quê hết! Các mốt quần áo trưng bày ở Champs d’Elisée vẫn thua áo tứ thân và khăn mỏ quạ! Các kiểu mũ đính lông cò, lông hạc vẫn không bằng nón thượng quai thao! Thật, tâm tình tôi quả là quá lạc hậu, quá quê mùa! Mặc dù theo học chương trình Pháp từ thuở 13 vẫn như một em bé chưa bao giờ ra khỏi lũy tre xanh! Mặc dù rửa tội đã trên hai năm mà vẫn nhớ tiếng chuông chùa, vẫn thương cửa tam quan rêu phủ, vẫn thích các bức hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng cẩn xà cừ với những chữ Hán rồng bay phượng múa!
Cho nên tôi chẳng biết mấy về cái xã hội Âu tây quay cuồng theo sản xuất và tiêu thụ, các sản phẩm cơ giới hoá biến con người thành guồng máy. May sao ở Pháp còn có Lidiơ và Lộ Đức, ở Paris còn có Nguyện Đường Rue du Bac và Thánh Đường Thánh Tâm Monmartre, làm nơi hồn tôi trú ẩn, chứ không tôi chẳng khác nào như cá mắc cạn, sống thoải mái sao được. Ngay cả những buổi họp sinh viên hay thợ thuyền Công giáo, tôi cũng thấy lộn xộn lao xao, bát nháo làm sao ấy, tôi cũng chỉ đi dự vài lần cho biết, rồi thôi! Hình như tôi vẫn mơ mộng một dạng học thức “Tâm truyền”, một bác phó mộc vừa bào, vừa thỉnh thoảng hút thuốc lào, khề khà câu chuyện với em bé hốt dăm bào, tung toé trong một túp lều trước ngõ đường làng. Tôi thật là lạc hậu phản tiến bộ quá đỗi!!! Chỉ có hình ảnh tu sĩ dòng Xitô im lặng làm việc mới giúp tôi bớt dị ứng những cái gì là cơ giới mà tôi có cảm tưởng như đang uy hiếp con người, chỉ có áo dòng tu và sự im lặng của các tu sĩ Xitô mới trấn áp nổi thứ “ma quỉ” hại người là máy móc vô hồn ấy.
Phải chăng vì từ thuở bé tôi đã bị tiêm nhiễm bởi giọng ngâm thơ của một nhà Nho mạt vận trong ánh hoàng hôn ở Thành Nội Huế ngâm câu:
Mưa Âu gió Mỹ tràn sông núi,
Cửa Khổng sân Trình biết có ai?
Rồi tuổi thanh xuân lại ảnh hưởng của Pascal, nhà khoa học thiên tài đã từ bỏ sinh hoạt khoa học đi vào một đời sống “thần nhiệm”: phải chăng vì thế mà tôi đồng quan điểm với nhân vật Trajan trong cuốn tiểu thuyết Giờ thứ 25 của Georghiu? Đối với tôi, tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa hẳn là tiến bộ về văn minh nhân bản (đó là chưa nói rằng về một vài phương diện nào đó thì có thể là cả một sự thoái hóa nhất là về vấn đề tương quan liên-ngã-vị, và đời sống tinh thần - nội tâm - bản ngã - nhân vị). Sự gặp gỡ, tương quan dần dần nhường chỗ cho một sự sắp hàng, dồn đống, xếp loại, làm cho mọi người biến thành một đồ vật giữa một “tổng số” đồ vật hơn là một cộng đoàn thần hữu nghĩa thiết: con người trở nên hoàn toàn bị đồng hóa với chức năng, hiệu suất trở nên giá trị độc nhất tuyệt đối! Từ những điều trên đây, nay suy lại, tôi thiết nghĩ rằng hình như tôi chỉ sống triển nở hoặc là trong một nền văn hóa Việt Nam cổ truyền như trước khi bị lây nhiễm văn minh duy vật Âu Tây duy lý, duy khoa học kỹ thuật, duy hiệu năng cơ giới sản xuất và tiêu thụ; hoặc là trong một môi trường thấm nhuần tinh thần liên-ngã-vị nhân bản Kitô giáo. Ở trong tôi như thừa kế cả một u hoài của một nền văn hóa cổ truyền đã bị quét đi trước làn sóng gọi là văn minh (thực ra chỉ là văn minh vật chất cơ giới) của Âu Tây. Niềm u hoài ấy đã một thời gian rất ngắn tưởng tìm được an ủi trong hương vị “thiền” của Phật giáo, nhưng cuối cùng chỉ thực sự được giải tỏa và tìm lại được ý nghĩa của cuộc sống ở trong “đức tin” Kitô giáo mà thôi. Còn đối với những gì phát xuất từ phong trào Phục hưng (Renaissance) của Âu Tây, tôi như có một sự dị ứng truyền kiếp từ bản năng. Và hình như, đó là lý do khiến tôi không mấy ham thích đi Rôma, mặc dù cũng có ý muốn viếng mộ hai Thánh tông đồ và triều bái Đức Giáo Hoàng.
Cơ sở của Tòa thánh Vaticăng phần lớn đều xây dựng trên nền tảng nghệ thuật văn hóa Phục hưng, quá đậm nét Hy lạp và Rôma. Thánh đô Rôma che khuất đi phần nào cái cốt lõi Kitô giáo. Vết tích của các triều đại Rôma và Byzance còn quá nhiều. Nhiều khi tôi tự nhủ: nếu không qua trung gian các dòng tu, chưa chắc tôi đã dễ dàng nép mình vào khuôn khổ của Hội Thánh Công giáo với cả một cơ chế nặng nề, một thần học hệ thống, một giáo luật mạng lưới! Tôi gặp Chúa Giêsu là qua Pascal, Phanxicô nghèo khó, Têrêxa Hài Đồng, Gioan Thánh giá, An tôn ẩn tu và sau này là Benoit Joseph Labre. Rồi cũng nhờ hai em bé chăn cừu mà tuổi thơ không đến 15 là Giaxinta và Phanxicô ở Fatima, Bênadét ở Lộ Đức cũng chỉ là một em bé chăn cừu. Catherine Labouré cũng chỉ là một thôn nữ cho gà vịt bồ câu ăn, lớn lên chỉ biết làm chị nuôi phục vụ người già cả tật nguyền. Bài “Avê Maria” do một tác giả mắc bệnh cùi, và bà phước mà tôi kể chuyện trên kia cũng là một bóng dáng dịu hiền xoa dịu những người mắc bệnh nan y. Hầu như chỉ nhờ toàn là cả một lũ người thừa, vô hiệu năng, ít sản xuất, ít tiêu thụ, ít tư duy trừu tượng chi ly sắc bén nhưng đầy tình người, dung dị, hòa đồng, thanh thản, nhẹ nhàng, bắc lên cân so với cái gọi là văn minh Âu Tây hiện đại thì chẳng có gờ-ram nào cả! Ngay cả Pascal thiên tài, cũng chỉ là anh chàng đào ngũ khỏi đội quân khoa học, cuối cùng chết vì tật bệnh mệnh yểu dưới bóng một viện tu: Port Royal. Toàn là vô dụng! (Không biết lợi dụng ai cả, mà cũng không có gì để cho ai lợi dụng cả!) lãng phí như bình đựng hương liệu mà cô Maria đã đập vỡ ra lấy dầu xức chân cho một tên tử tội mấy ngày sau sẽ chết trần trụi trên khổ giá!
“Đây tôi cũng chỉ trình bày về con đường có tính cách chủ quan của riêng bản thân tôi, đã dẫn tôi tới gặp Chúa Giêsu; chứ tôi vẫn ý thức về sự cần thiết khách quan của những cơ chế, luật lệ, hệ thống rất cần cho một cộng đoàn bao gồm cả mọi dân tộc, mọi văn hóa, mọi thành phần xã hội qua mọi thời đại, với một sứ mạng vô cùng nặng nền và phức tạp như là Hội Thánh Công giáo”.
Thế là từ năm 1957 đến 1960 – là năm tôi tốt nghiệp “Cử nhân Triết học”, tôi muốn sống cuộc đời của một du học sinh tại Pháp. Về mặt tài chính phí tổn ăn học một phần do thân hữu của Lm. Nguyễn Bình An, một phần do chính phủ Pháp trợ cấp cho sinh viên nghèo, một phần do tôi làm việc, chủ yếu là dạy phụ đạo cho một số học sinh trung học cấp II. Tôi cũng dạy môn La tinh và Anh văn cho một em học sinh lớp đệ ngũ (Cinquième). Cũng do một phần là trú ngụ tại ký túc xá – do một linh mục hội Thừa sai Paris chủ trương, tiền trọ cũng tương đối nhẹ, ăn uống thì tại các quán ăn sinh viên, giá rất rẻ. Đời sống kể ra khá vất vả, nhưng nói chung không thiếu thốn. Việc học cho đến hết cấp cử nhân tương đối nhẹ nhàng đối với tôi: vốn có một năng khiếu tạm đủ về môn Triết, lại được học hết chương trình 2 năm triết ở học viện dòng Phanxicô, nên tôi không phải cố gắng nhiều lắm cũng có thể thi đậu các chứng chỉ triết học ở cấp cử nhân. Tôi đã không cố gắng nhiều trong việc học. Bây giờ sự việc đã qua, xét mình lại, tôi có ý nghĩ có lẽ tôi đã không làm tròn bổn phận như Lm. An chỉ dẫn, mà chỉ vâng lời nửa vời. Lúc bấy giờ và suốt 9 năm ở Pháp, nỗ lực chính của tôi là tìm kiếm một dòng tu, chứ việc học triết, việc thâu nhập cái gì thuộc “văn minh” Tây phương tôi không lấy gì làm thiết tha cho lắm.
Hình như cuối cùng tôi chỉ thâu nhận những gì là Kitô-tính trong cái tổng hợp được gọi là văn minh Âu Tây; còn những cái khác như duy lý của Hy lạp, duy luật của Rôma, duy khoa học kỹ thuật của văn hoá Phục Hưng, tức là cái văn hoá ngoài Kitô giáo của Tây phương, tôi đều dị ứng và không chấp nhận. Trong tôi dường như vẫn còn cái “hạt nhân Đồ Nho” không gì phá vỡ được, chống lại mọi xâm nhập của nền văn hoá Tây phương ngoài Kitô giáo, trước hết là triết học. Khi theo dõi các giáo trình thuộc chứng chỉ “Luận lý và Siêu hình”, nhiều túc tôi muốn bỏ lớp học mà ra, vì nó quá khô khan trừu tượng, quá tư biện, chẻ sợi tóc làm mười. Ví dụ rõ ràng nhất là hệ thống của Spinoza, của Hégel, tôi có cảm tưởng họ dựng đứng lên một hệ thống toàn là khái niệm trừu tượng, chỉ có tính cách luận lý chứ gần như không ăn nhằm gì với hiện thực cụ thể cả. Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng đó chỉ là những bộ xương khô không còn huyết nhục nữa. Chúng chới với bay bổng trong một thế giới phạm trù kiến thức đồ sộ, khá khúc chiết, chí lý, chặt chẽ; nhưng hình như không có nến trên hiện thực. Mọi hệ thống đều như cắt một miếng từ hiện thực, rồi hết Duy này đến Duy nọ: duy tâm, duy tưởng, duy vật, duy linh, duy lý, duy Nghiệm… Cái tệ của triết học Tây phương là DUY, so với những trang của Khổng, của Lão, của Ấn Độ, thì khác nào như những bộ xương khô bên cạnh những vật sống động hiện thực! triết học Tây phương có thể là sắc bén, đôi khi sâu sắc, Nhưng ít thâm thúy, tất cả như bị phạm trù hoá, đối thể hoá, ngôn từ hoá, hệ thống hoá, cơ giới hoá một cách khủng khiếp. Thỉnh thoảng có Pascal, Kierkegaard, Bergson, Max Scheller, Gabriel Marcel, nhưng dường như các triết gia này bị xem như dòng phụ lưu ngoài lề. Vì vậy, tôi thấy học thì học vậy cho vui, chứ chẳng bổ ích gì thực sự cho trí thức, cho sự sống con người cụ thể có xác thể, có linh hồn (chứ không phải chỉ có tinh thần theo nghĩa trừu tượng). Trừ Pascal ra, tôi không hề tôn nhà triết học Tây phương nào làm “Thầy” được cả! Tôi quan niệm triết học là “Tầm sư học đạo” chứ không phải nghe tư biện vòng vo cho nên, đối với một kẻ đã biết thày Khổng, thày Lão, tôn sư Thích Ca và cuối cùng là Thày Chí Thánh Giêsu, thì ngồi nghe bình giảng về Platon, Aristote, Spinoza, Kant, Hégel… chỉ là lãng phí thời giờ, chẳng ích gì, ngoài việc lấy bằng làm nghề giáo sư triết học: mà thôi!
Vậy ở Sorbonne, tôi chỉ đến dự mỗi giáo sư vài giờ giáo trình gọi là cho biết cung cách giảng dậy vậy thôi. Điều tôi học được nơi các vị ấy không phải là nội dung giáo trình của họ, mà là cái cung cách, cái thái độ tri thức của họ: khiêm tốn, liêm khiết trí tuệ, trung thực thận trọng trong phán đoán, tôn trọng quan niệm của người khác, không quá khích, không cố chấp, không a-dua, không đua đòi phong trào; Nói tóm lại là chân thành khiêm tốn tìm “sự thật” chứ không vỗ ngực cho mình đã nắm “chân lý”, xem người khác là sai lầm, là ngụy tín. Họ trình bày những gì mình tìm mình kiếm ra một cách đơn sơ từ tốn, chứ không tuyến truyền chiêng trống một cách ầm ỹ. Có nhiều vị trình bày một cách e dè, hơi có vẻ thẹn thùng như sợ mình sai, mong mình sai, vạn bất đắc dĩ mới ngập ngừng nói rằng: “e có lẽ” tôi đúng, nhưng mà tôi mong rằng anh đúng để tôi được học thêm. Ngay cả những vị hướng dẫn sinh viên làm luận án cũng có thái độ như vậy trước những ý kiến sinh viên đưa ra. Đó là bài học quý giá nhất mà các giáo sư Sorbonne đã dạy cho tôi. Họ giúp tôi biết thế nào là học, là tri thức chứ không phải là vẹt, là học phiệt, thế nào là trao đổi, là tìm kiếm, là trình bày, chứ không phải là loè đời, phô trương, tuyên truyền, dụ dỗ; cùng nhau góp sức, nâng đỡ nhau, học hỏi nhau, cùng hướng về Chân lý. Bài học ấy có thể tóm tắt như sau: CHÂN LÝ không phải là một giá trị lý tưởng mà mỗi người giành nhau chiếm hữu như một đồ vật, chiếm được thì độc quyền ban bố phân phát theo kiểu phân phối hàng hoá hoặc độc quyền sản xuất! Bài học ấy không có bằng cấp nào làm chứng cả, nó chỉ toát ra từ nơi tác phong giảng dậy, cái mà trên đây tôi gọi là “cung cách”, là “con người”, nó không phải là vốn liếng như hành lý cồng kềnh với những nhãn hiệu, bảng vẽ lòe loẹt, mà như viên kim cương dấu kín trong người! Gần 30 năm xa cách, dáng dấp các vị thày ấy như vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Và tôi tự hỏi: Thái độ khiêm nhường ấy phải chăng bắt nguồn từ sự khiêm nhường của vị đã tự xưng mình là Chân Lý, nhưng lại cúi xuống rửa chân cho môn đệ trong một bữa tiệc thân tình mà điều san sẻ lại là chính “bản thân mình” sắp hiến tế để nuôi sống tâm hồn môn đệ mình. Ngoài ra, thái độ hướng về Chân Lý như đáp lại một lời mời gọi đòi hỏi sự quên mình hiến thân cho Chân Lý, chứ không phải là tranh đua chiếm hữu độc quyền khai thác và phân phối, cũng bắt nguồn từ cái thái độ đối với Chân Lý Tuyệt Đối đã thể hiện nơi một Con Người vốn là Chân Lý, là Đường, là Sự Sáng: GIÊSU KITÔ. Nói tóm lại, về nội dung triết lý, về cung cách thái độ trí thức chân chính, rút cuộc lại, cũng chỉ những gì thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, thì tôi mới hấp thụ: Pascal, Kierkegaard, Gabriel Marcel, Louis Lavelle, Henri Bergson cũng đều là những con người tắm mình trong tinh thần Kitô giáo một cách sâu đậm.
Vì vậy, sau khi đỗ Cử nhân, mà tôi xem như là một bảo đảm cho cuộc sống. Phòng lúc cần đến mảnh bằng với mức tối thiểu cần thiết, tôi tạm cho là đủ, cho nên tôi không nỗ lực bao nhiêu trong việc làm luận án Tiến sĩ. Thực ra, tôi thấy chẳng học thêm được gì căn bản nữa, chẳng qua là kiếm mảnh bằng cao hơn (song tôi chỉ cần cái mức tối thiểu! ), chứ công trình nghiên cứu của mình cũng chẳng đóng góp gì cho cái kho tàng kiến thức của nền Đại học ở Pháp. Tôi ghi danh Tiến sĩ là cho lấy có, chứ từ lúc xong Cử nhân hầu như tôi đã dành toàn lực cho việc tìm một con đường “tu hành”. Tình cờ tôi gặp một Linh mục dòng Biển Đức thuộc đan viện La Source ở Paris. Ngài khẳng định là tôi có dấu chỉ sống đời chiêm niệm, và giới thiệu tôi cho Linh mục Victor de la Vierge, Bề trên nhà tập tỉnh dòng Cát Minh, nhưng cần để ngài theo dõi một thời gian cho bảo đảm, nhất là về mặt sức khoẻ. Sau hai năm hướng dẫn, ngài quyết định nhận tôi vào nhà tập, nhưng còn phải có sự đồng ý của vị bác sĩ nhà dòng. Sau khi khám sức khoẻ cho tôi, vị bác sĩ này cho ý kiến là ông sợ sức khoẻ của tôi không kham nổi một cuộc sống khá ràng buộc về luật lệ của một dòng tu. Có lẽ một đời sống tuy rằng chiêm niệm, nhưng trong một khung cảnh sống thong dong hơn, “tự do” hơn, thoáng hơn, thì hợp với tư chất tâm hồn và cơ thể tôi. Thế là việc nhập dòng Cát Minh của tôi đành xếp lại. Đó là vào quãng năm 1961. Từ khi đọc quyển “Kể chuyện một tâm hồn” của Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux, từ năm 1950 đến năm ’61, tôi tưởng là thuyền sắp cập bến, ai ngờ! Không thể nói hết được sự khổ tâm của tôi lúc bấy giờ. Nhưng rồi tôi lại vươn dậy tìm một con đường tu hành khác. Bà cụ cho tôi thuê nhà ở trọ vẫn thường hay lui tới nguyện đường “Corpus Christi” thuộc nhà mẹ dòng Thánh Thể. Bà giới thiệu tôi với một Linh mục thuộc tu viện ấy. Sau một năm theo dõi, vị này đi đến kết luận là tôi có hy vọng vào nhà tập dòng Thánh Thể. Thế nhưng, khi tôi gặp lại cha Bề trên tỉnh dòng Thánh Thể Paris, Cha lại sợ tôi không đủ sức khoẻ để sống đời tu trong một cộng đoàn có kỷ luật chặt chẽ, nên không đồng ý nhận tôi vào dòng.
Thấy mọi con đường đưa đến đời tu trì đều tắc nghẽn, tôi lại có ý định trở về Việt Nam, mặc dầu luận án Tiến sĩ chưa hoàn thành. Bởi vì như trên đã trình bày, ở lại Pháp, mục đích chính của tôi là tìm hướng cho đời tu trì, chứ không phải là “Tây du học”. Nay đường tu hầu như bị chặn lối, tôi thấy không còn lý do nào ở lại Pháp nữa. Có lúc tôi đã nghĩ về lại Nghệ Tĩnh. Tôi đã rời Nghệ Tĩnh năm 1950 là vì lý do tu hành, nay đường tu bị nghẹn lối, tôi nên trở về chốn cũ, nơi mình đã sống trước khi đi tu, tức là trở về Nghệ Tĩnh. Bấy giờ, một số Linh mục thuộc các giáo phận miền Bắc, được gởi đi du học ngoại quốc trước năm 1954 cũng có ý nguyện trở về địa phận gốc của mình ở Bắc. Tôi có đề cập với anh Viện tôi về vấn đề ấy, nhưng anh cho tôi hiểu rằng việc ấy khó mà thực hiện được. Đang khi lung tung như vậy, thì tôi gặp một Linh mục dòng Biển Đức thuộc đan viện Maredsous (Bỉ) cũng đang tìm kiếm một hình thức “đan tu” nhẹ nhàng, nhỏ bé và âm thầm hơn hình thức các đan viện cổ truyền hơi quá đồ sộ, trang trọng, không hợp với hoàn cảnh xã hội ngày nay. Ngài giới thiệu tôi với một Linh mục thuộc đan viện cổ truyền Le Bouveret (Thụy sĩ) lúc ấy được Đan viện phụ cho phép lập cộng đoàn nhỏ 3 tu sĩ, ở một làng nhỏ miền Bắc nước Pháp. Sau khi trao đổi với vị Linh mục này, tôi được chấp nhận dự tu ở cộng đoàn nhỏ ấy.
Có một điều đáng lưu ý là từ ngày tôi ra khỏi dòng Phanxicô, bao giờ các vị thuộc dòng Biển Đức cũng xác nhận là tôi có triển vọng sống đời chiêm niệm và sẵn sàng nhận tôi vào dòng của các vị. Nhưng về phía tôi lại có sự ngần ngại, thấy rằng hình thức tu theo truyền thống cổ điển Biển Đức, với những đan viện có cả hàng trăm tu sĩ với nghi thức phụng vụ quá trang trọng (pompe liturgique), với những cuốn kinh nhật khoá rộng lớn hàng mét vuông, bìa da gáy vàng chữ đỏ, với các bàn quỳ bàn tọa điêu khắc công phu, như cả một tảng đá đè nặng lên hồn. Nay gặp được một hình thức mới, gọn nhẹ, thanh đạm, nhỏ bé với dăm ba tu sĩ, nguyện đường đơn sơ thu gọn bên dòng suối, dưới lùm cây, ẩn chìm hẳn ở giữa cảnh trí thiên nhiên, có phần gần gũi với các thiền viện, các am tu ở Á Đông, tôi liền xin gia nhập và được đón nhận với tất cả sự thương yêu và tin tưởng.
Sáu tháng dự tu ở đan viện nhỏ bé ấy, tôi rất thoải mái thanh thản, có thể nói khác nào như cá gặp nước. Đó là vào quãng từ tháng 4 đến tháng 10/1963. Thế rồi, cuối tháng 10/1963, tôi được đưa sang đan viện chính ở le Bouveret, Thụy sĩ, chuẩn bị vào nhà tập. Ở Đan viện này, trên bờ hồ Leman, cảnh trí thật tuyệt vời: đến giờ kinh khuya, nhìn ánh trăng soi trên mặt hồ, với đỉnh núi tuyết xa xa, thật chẳng khác non Bồng nước Nhược, cõi hồng trần như khuất hẳn, mất dạng sau dãy núi Alpes trùng điệp ở chân trời. Thế nhưng, rồi cái khuôn khổ của dòng Biển Đức lại đè nặng lên tâm hồn tôi. Những cuốn sách kinh cổ kính trong giờ nhật khoá và những nghi thức trang trọng lại như khiến tôi ngộp thở. Thêm vào đó, cái lạnh của Thụy sĩ khi phải đọc kinh vào lúc 2 giờ khuya, và chế độ ăn uống lại làm cho sức khoẻ tôi đâm ra trục trặc. Bữa cơm trưa thì ăn rất nhiều (trong khi chứng dạ dầy của tôi thì lại chỉ chấp nhận ít thôi), còn sáng và tối thì lại như không có gì. Bữa trưa tôi chỉ ăn được độ 1/4 khẩu phần, rồi từ chiều cho đến trưa hôm sau lại quá đói. Ngủ thì sau giờ kinh khuya về tôi không ngủ lại được, cứ trằn trọc cho đến sáng. Thế là tôi lại phải cáo lui, rời tu viện Le Bouveret trở về Pháp.
Lý do cuối cùng khiến tôi rời đan viện Le Bouveret như sau: vị Linh mục thuộc Đan viện Maredsous khi giới thiệu tôi với vị Lm. Đan viện Le Bouveret đã có ý sau này chúng tôi sẽ xin sang Việt Nam thiết lập hình thức đan tu gọn nhẹ, nhỏ nhoi, thanh bần, đạm bạc. Thế nhưng cả hai Đan viện Maredsous cũng như Le Bouveret lại không thuộc về Liên-đan-viện Pierre-qui-vire là tổ chức được Tổng dòng Biển Đức giao cho phụ trách các dòng tu ở Việt Nam, khiến cho cái triển vọng trở về Việt Nam thiết lập một dạng thức mới do các tu sĩ thuộc Đan viện Maredsous hay đan viện Le Bouverel e có lẽ khó bề mà thực hiện. Giới hạn này cũng do tính cách quá quy tuật của tổ chức dòng tu. Tôi thấy rằng dù dưới dạng thức cồng kềnh hay gọn nhẹ, thì mạng lưới quy luật vẫn là một ràng buộc, nếu không muốn nói là trói buộc. Có lẽ tôi quá tài tử chăng? Cái hình ảnh “Tam hợp đạo cô”, mây ngàn hạc nội đã quá ăn sâu vào tâm hồn của tôi rồi chăng? Mạng lưới giáo luật với từng điều từng khoản (ví dụ năm nhà tập thiếu một ngày cũng làm lại cả năm), những bức tường kiên cố như pháo đài, như đồn lũy, hình như không hợp với tôi. Một cánh chim bay, một tên hành khất lang thang bơ vơ kiếp lữ hành, không bị gậy, không giày dép, hoặc là hình ảnh anh chàng du ca thành Át-xi-di trước khi vâng lời Hồng y Hugolin viết luật dòng, có lẽ gần gũi với tôi hơn chăng? (Sau này khi trở về Việt Nam năm 1965, Lm. P. Nguyễn Bình An nói với tôi: “E có lẽ cậu có ơn kêu gọi như Benoit Joseph Labre - vị thánh hành khất”? Tôi nhớ lại lúc bé, đôi khi mẹ tôi vừa giận vừa mắng yêu: “Lơ đãng như con rồi thì chỉ có bị gậy ăn mày!!!)
Phải chăng lời mắng yêu của bà mẹ và lời nhận xét của cha linh hồn có tầm mức một trực giác tiên tri? Từ năm l975 - l986, tôi đổi nơi cư trú trên 10 lần, mà đến nay cũng không nhà, không cửa, không tài sản, không vị trí gì, cả trong Giáo hội cũng như trong gia đình và ngoài xã hội, cũng chẳng biết mai đây tôi từ trần, ai sẽ là kẻ lo việc vùi cái thân xác này vào lòng Đất mẹ để linh hồn về với Chúa Cha trên trời?
Thế là tôi lại tủi thủi lang thang trên các vệ đường Paris, trên các chuyến tàu điện, xe hoả, xe ca, vừa tiếp tục theo giáo trình của các vị giáo sư hướng dẫn luận án ở Paris, vừa dạy học ở các trường trung học Công giáo vùng ngoại ô Paris. Trong những chuyến xe, chuyến tàu khuya khoắt (có đôi khi cả một chuyến xe ca khuya hoặc cả một toa tàu hầm khuya, chỉ có một mình tôi ngồi nhìn tuyết rơi qua cửa kính), thỉnh thoảng có vài công nhân đi làm ca khuya ngủ gà ngủ gật. Tôi cũng gà gật. Gần 40 tuổi đầu, vẫn còn mơ đến một dạng thức tu trì nào đó! (Tôi cũng quên ghi lại rằng từ năm 1960, sau khi đỗ cử nhân triết thì mọi nguồn trợ cấp tài chính bị ngưng. Tôi sinh sống bằng nghề dạy học lớp triết ban trung học lại các trường trung học tư thục Công giáo vùng ngoại ô Paris, kết quả chức nghiệp tương đối tốt). Tuy ở Âu Châu đến 9 năm, tôi vẫn không “đi vào” được với xã hội gọi là “văn minh” mấy! Như trên đã nói, ngay cả đến môn triết học mà hình như tôi vẫn còn dị ứng. Paris quả là đẹp, Nhưng tôi chỉ quen một vài quán cà phê nho nhỏ vô danh ở một góc phố con lác đác sót lại – có lẽ từ thời Trung Cổ, dưới vài gốc cây phong mùa thu lá rụng, tuyết rơi, vài nhà hàng xén bán đủ thứ như hàng xén của ta, láng giềng quen thuộc, đến uống rượu cà phê khề khà như xóm nhỏ làng quê ở ta (sau này khi trở về Việt Nam tôi chỉ nhớ nhung mấy quán cà phê “cóc” ấy thôi! ), trừ các quán ấy là vườn Luxembourg mùa thu lá rụng (có lẽ tôi chỉ nhìn qua hình ảnh cậu bé ngày khai trường của Anatole France mà tôi đã dịch và học thuộc lòng từ thuở 13, lúc còn ngồi ở ghế lớp 6 trung học), tôi chỉ đi xem điện Tuilerie, Le Louvre, Panthéon… như tò mò đại khái chứ chẳng thấy chẳng cảm gì cả! Các sinh hoạt văn hoá như ca nhạc kịch cũng vậy, tôi chỉ đi xem gọi là cho biết vậy thôi, chứ tôi cũng chỉ thích và nhớ tiếng đàn bầu đàn nguyệt dưới ánh trăng bên bờ sông Hương. Những bức tranh ở Le Louvre vẫn không làm tôi quên những bức tranh thủy mạc, chỉ trừ vài bức của Rembrandt và của Ronault! Versaille, các lâu đài sông Loire chỉ làm cho tôi càng thêm nhớ nhung đến những chùa cũ rêu phong khiêm tốn âm thầm nấp dưới cỏ cây. Phương tiện giao thông hối hả chen chúc làm cho tôi nhớ những chuyến đò ngang đò dọc thời thơ ấu về thăm quê ngoại. Ở Paris cũng có quán Việt Nam, nhưng ăn tiết canh hay bánh xèo thì phải là trong quán gió bờ đê mới thật là ngon, canh rau muống phải ngồi chõng tre dưới mái tranh mới là tuyệt diệu, đôi khi tôi thèm đến quay quắt được ăn một củ khoai lang bở với dưa cải hoặc với quả cà thật mặn rồi uống một ngụm chè xanh rót ra từ cái gáo dừa khô đổ vào cái bát “đàn” thô kệch, dưới gốc cây đa một buổi trưa hè gay gắt, và hoa! Mùi thơm hoa lý, hoa ngâu, hoa bưởi, hoa mộc, hoa sói và nhất là hoa ngâu.
Giữa tiếng xe cộ đinh tai nhức óc, tôi thèm được nghe tiếng chuông chùa lúc thu không hay lúc rạng đông: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền!”. Và những lúc quá bận không có dịp đi trên các con đường không tráng nhựa ở ngoại ô Paris mà phải suốt ngày suốt tuần suốt tháng mà chỉ toàn là đường tráng nhựa, tôi nhớ da diết những ngày thuở bé đi học, đội một chiếc nón lá, quần xắn tới tận đầu gối, bám chặt trên những con đường lầy lội giữa hai làng Thịnh Xá và Gôi Mỹ đưa tôi đến trường tiểu học, miệng bõm bẽm nhai trầu cho ấm. Ôi mùi thơm trầu từ thuở bé cảm được khi mẹ, bà ngoại, các dì, các cô hôn âu yếm: chẳng có nước hoa nào bằng được! Và vành tóc đen trên gáy các bà mẹ quấn khăn nhung, cũng như khăn vải nâu có đuôi gà, chả có mái tóc “frisé” nào đẹp bằng cả! Chẳng có son phấn nào địch nổi làn môi cắn chỉ của các cô gái nhà quê hết! Các mốt quần áo trưng bày ở Champs d’Elisée vẫn thua áo tứ thân và khăn mỏ quạ! Các kiểu mũ đính lông cò, lông hạc vẫn không bằng nón thượng quai thao! Thật, tâm tình tôi quả là quá lạc hậu, quá quê mùa! Mặc dù theo học chương trình Pháp từ thuở 13 vẫn như một em bé chưa bao giờ ra khỏi lũy tre xanh! Mặc dù rửa tội đã trên hai năm mà vẫn nhớ tiếng chuông chùa, vẫn thương cửa tam quan rêu phủ, vẫn thích các bức hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng cẩn xà cừ với những chữ Hán rồng bay phượng múa!
Cho nên tôi chẳng biết mấy về cái xã hội Âu tây quay cuồng theo sản xuất và tiêu thụ, các sản phẩm cơ giới hoá biến con người thành guồng máy. May sao ở Pháp còn có Lidiơ và Lộ Đức, ở Paris còn có Nguyện Đường Rue du Bac và Thánh Đường Thánh Tâm Monmartre, làm nơi hồn tôi trú ẩn, chứ không tôi chẳng khác nào như cá mắc cạn, sống thoải mái sao được. Ngay cả những buổi họp sinh viên hay thợ thuyền Công giáo, tôi cũng thấy lộn xộn lao xao, bát nháo làm sao ấy, tôi cũng chỉ đi dự vài lần cho biết, rồi thôi! Hình như tôi vẫn mơ mộng một dạng học thức “Tâm truyền”, một bác phó mộc vừa bào, vừa thỉnh thoảng hút thuốc lào, khề khà câu chuyện với em bé hốt dăm bào, tung toé trong một túp lều trước ngõ đường làng. Tôi thật là lạc hậu phản tiến bộ quá đỗi!!! Chỉ có hình ảnh tu sĩ dòng Xitô im lặng làm việc mới giúp tôi bớt dị ứng những cái gì là cơ giới mà tôi có cảm tưởng như đang uy hiếp con người, chỉ có áo dòng tu và sự im lặng của các tu sĩ Xitô mới trấn áp nổi thứ “ma quỉ” hại người là máy móc vô hồn ấy.
Phải chăng vì từ thuở bé tôi đã bị tiêm nhiễm bởi giọng ngâm thơ của một nhà Nho mạt vận trong ánh hoàng hôn ở Thành Nội Huế ngâm câu:
Mưa Âu gió Mỹ tràn sông núi,
Cửa Khổng sân Trình biết có ai?
Rồi tuổi thanh xuân lại ảnh hưởng của Pascal, nhà khoa học thiên tài đã từ bỏ sinh hoạt khoa học đi vào một đời sống “thần nhiệm”: phải chăng vì thế mà tôi đồng quan điểm với nhân vật Trajan trong cuốn tiểu thuyết Giờ thứ 25 của Georghiu? Đối với tôi, tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa hẳn là tiến bộ về văn minh nhân bản (đó là chưa nói rằng về một vài phương diện nào đó thì có thể là cả một sự thoái hóa nhất là về vấn đề tương quan liên-ngã-vị, và đời sống tinh thần - nội tâm - bản ngã - nhân vị). Sự gặp gỡ, tương quan dần dần nhường chỗ cho một sự sắp hàng, dồn đống, xếp loại, làm cho mọi người biến thành một đồ vật giữa một “tổng số” đồ vật hơn là một cộng đoàn thần hữu nghĩa thiết: con người trở nên hoàn toàn bị đồng hóa với chức năng, hiệu suất trở nên giá trị độc nhất tuyệt đối! Từ những điều trên đây, nay suy lại, tôi thiết nghĩ rằng hình như tôi chỉ sống triển nở hoặc là trong một nền văn hóa Việt Nam cổ truyền như trước khi bị lây nhiễm văn minh duy vật Âu Tây duy lý, duy khoa học kỹ thuật, duy hiệu năng cơ giới sản xuất và tiêu thụ; hoặc là trong một môi trường thấm nhuần tinh thần liên-ngã-vị nhân bản Kitô giáo. Ở trong tôi như thừa kế cả một u hoài của một nền văn hóa cổ truyền đã bị quét đi trước làn sóng gọi là văn minh (thực ra chỉ là văn minh vật chất cơ giới) của Âu Tây. Niềm u hoài ấy đã một thời gian rất ngắn tưởng tìm được an ủi trong hương vị “thiền” của Phật giáo, nhưng cuối cùng chỉ thực sự được giải tỏa và tìm lại được ý nghĩa của cuộc sống ở trong “đức tin” Kitô giáo mà thôi. Còn đối với những gì phát xuất từ phong trào Phục hưng (Renaissance) của Âu Tây, tôi như có một sự dị ứng truyền kiếp từ bản năng. Và hình như, đó là lý do khiến tôi không mấy ham thích đi Rôma, mặc dù cũng có ý muốn viếng mộ hai Thánh tông đồ và triều bái Đức Giáo Hoàng.
Cơ sở của Tòa thánh Vaticăng phần lớn đều xây dựng trên nền tảng nghệ thuật văn hóa Phục hưng, quá đậm nét Hy lạp và Rôma. Thánh đô Rôma che khuất đi phần nào cái cốt lõi Kitô giáo. Vết tích của các triều đại Rôma và Byzance còn quá nhiều. Nhiều khi tôi tự nhủ: nếu không qua trung gian các dòng tu, chưa chắc tôi đã dễ dàng nép mình vào khuôn khổ của Hội Thánh Công giáo với cả một cơ chế nặng nề, một thần học hệ thống, một giáo luật mạng lưới! Tôi gặp Chúa Giêsu là qua Pascal, Phanxicô nghèo khó, Têrêxa Hài Đồng, Gioan Thánh giá, An tôn ẩn tu và sau này là Benoit Joseph Labre. Rồi cũng nhờ hai em bé chăn cừu mà tuổi thơ không đến 15 là Giaxinta và Phanxicô ở Fatima, Bênadét ở Lộ Đức cũng chỉ là một em bé chăn cừu. Catherine Labouré cũng chỉ là một thôn nữ cho gà vịt bồ câu ăn, lớn lên chỉ biết làm chị nuôi phục vụ người già cả tật nguyền. Bài “Avê Maria” do một tác giả mắc bệnh cùi, và bà phước mà tôi kể chuyện trên kia cũng là một bóng dáng dịu hiền xoa dịu những người mắc bệnh nan y. Hầu như chỉ nhờ toàn là cả một lũ người thừa, vô hiệu năng, ít sản xuất, ít tiêu thụ, ít tư duy trừu tượng chi ly sắc bén nhưng đầy tình người, dung dị, hòa đồng, thanh thản, nhẹ nhàng, bắc lên cân so với cái gọi là văn minh Âu Tây hiện đại thì chẳng có gờ-ram nào cả! Ngay cả Pascal thiên tài, cũng chỉ là anh chàng đào ngũ khỏi đội quân khoa học, cuối cùng chết vì tật bệnh mệnh yểu dưới bóng một viện tu: Port Royal. Toàn là vô dụng! (Không biết lợi dụng ai cả, mà cũng không có gì để cho ai lợi dụng cả!) lãng phí như bình đựng hương liệu mà cô Maria đã đập vỡ ra lấy dầu xức chân cho một tên tử tội mấy ngày sau sẽ chết trần trụi trên khổ giá!
“Đây tôi cũng chỉ trình bày về con đường có tính cách chủ quan của riêng bản thân tôi, đã dẫn tôi tới gặp Chúa Giêsu; chứ tôi vẫn ý thức về sự cần thiết khách quan của những cơ chế, luật lệ, hệ thống rất cần cho một cộng đoàn bao gồm cả mọi dân tộc, mọi văn hóa, mọi thành phần xã hội qua mọi thời đại, với một sứ mạng vô cùng nặng nền và phức tạp như là Hội Thánh Công giáo”.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |