Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
7. THIÊN CHÚA TƯỚC ĐOẠT
Tưởng cũng nên nhắc đến một mối tình nhân thế của tôi vào những năm 43 - 45, một cuộc tình vô cùng ngang trái, tuy không thảm khốc nhưng khá nhiều bi kịch tính vì là một mối tình bất khả (impossible) mà tôi - một mặt là kẻ phụ tình làm đau khổ kẻ khác, một mặt lại là kẻ bị đau khổ vì không được đáp lại! Đó cũng là một việc tô đậm thêm cho ý thức của tôi về trần gian này là nơi đầy khổ lụy, và làm cho tôi không còn chờ đợi gì ở một mối tình nào trên trần gian này nữa, khi mà tôi được biết là Chúa yêu tôi. Vả lại, những biến cố dồn dập xảy đến trên đất nước cũng như trên gia đình và cá nhân tôi làm cho vấn đề “tình yêu” nhân thế hầu như không có tác dụng gì đối với tôi nữa! Trước những vấn đề của thời cuộc đối với cá nhân, đất nước, Hội Thánh, Nhân loại, tâm tư tôi không còn chỗ cho tình yêu cá nhân nữa. Suốt cuộc đời độc thân, nhiều lúc nỗi cô đơn tràn ngập tâm hồn, nhất là những năm xa gia đình, xa đất nước; nhưng tôi vẫn không nghĩ rằng một mối tình nhân thế nào có thể lấp đầy chỗ trống của lòng mình, ngoại trừ Tình yêu của Đấng đã chịu chết trên Thập giá vì tôi, không phải là không có những mời mọc hoặc tôi không có những lúc chao đảo ngả nghiêng. Thế nhưng cuối cùng, càng lớn tuổi tôi càng thể nghiệm lời của thánh Âu Tinh: “Chúa đã tạo nên con cho Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải mãi cho tới lúc nào con được gặp Chúa mới thôi! ”. Dĩ nhiên đây chỉ là trường hợp riêng tôi, không có tính cách phổ quát. Tôi biết có rất nhiều tâm hồn có kinh nghiệm ngược lại. Chính là nếm được một tình yêu nhân thế mà họ đã nhận ra được Tình yêu Thiên Chúa, đúng như lời thánh Phaolô nói: Hôn nhân là dấu chỉ của mầu nhiệm phối hợp cao vời giữa Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài. Trường hợp của tôi không phải là phổ quát nhưng khá phổ biến, nhất là những tâm hồn ngoài Kitô giáo. Như tôi đã nói trên, việc trở thành người Công giáo thường khá khó khăn, nên Thiên Chúa phải dùng nhiều cách để gợi ý, mời mọc, thúc bách, phá vỡ những ràng buộc và ngăn cản thuộc mọi bình diện, trong những cách ấy, việc nếm qua kinh nghiệm cay đắng của tình đời là một cách khá hiệu nghiệm (tình đời ở đây không phải chỉ có tình yêu nam nữ mà là mọi mối tình khác nữa!). Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi: “Ai mệt nhọc lao lung, hãy đến cùng Ta”. Một tâm hồn như Tê-rê-sa Hài đồng, mà cũng phải qua những kinh nghiệm bẽ bàng như vậy về tình đời mới đi sâu vào mầu nhiệm của Tình Yêu Thiên Chúa, phương chi tôi là một tâm hồn ứ đầy bao nhiêu là những điều thuộc về thế gian chất nặng, cầm buộc, cần phải dày công thanh luyện.
Quả vậy, nếu khi đậu tú tài, tôi được tiếp tục vào Đại học ngay, tốt nghiệp và thành đạt ngay với vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng, danh vọng quyền uy, rồi năm nay lên 60 tuổi, là một vị thượng quan hồi hưu có bổng lộc cao con cháu đùm đề, thì lòng tôi đã đầy ắp, hỏi có còn chỗ cho Chúa ngự vào nữa không? Khôn ngoan như vua Salomon mà cũng lìa bỏ Chúa vì bả vinh hoa, phú quí, tình ái! Thế mới hay khốn cho kẻ giàu, phúc cho kẻ nghèo! Tình yêu Chúa chẳng khác nào rượu quí muốn đổ rượu vào bình, phải trút hết những thứ đang làm cho bình đầy ứ; chính những sự cố xảy ra năm 1945 làm cho cái bình đời của tôi được đổ vơi đi những thứ nó đang đầy ắp: trước hết là sự sụp đổ về vị trí xã hội trước Cách mạng mùa thu. Dù không lấy làm vinh dự lắm về địa vị “con quan”, tôi vẫn thuộc về tầng lớp thượng lưu: một cậu tú con một vị danh Nho làm quan đến nhất phẩm, có tiếng thanh liêm và được vị nể, bản thân lại học giỏi, được thày yêu bạn mến, hướng tương lai tiến thân mở rộng về nhiều mặt: học vấn, tình duyên, địa vị, tài sản kể cả danh thơm tiếng tốt ít nhiều!... Cách mạng mùa thu đến như một cơn tỉnh mộng! Nhưng sâu xa hơn, Cách mạng mùa thu không phải chỉ là một cuộc cách mạng xã hội làm cho địa vị xã hội của gia đình tôi đổi thay, mà còn bắt tôi phải đặt lại vấn đề nấc thang giá trị về nhân sinh: thuyết Mác xít đặt cho tôi nhiều câu hỏi về mọi mặt. Và chính bình diện này mới là quan trọng: vấn đề nhân sinh quan trong căn bản của nó. Quả vậy, tuy từ 45 đến 55, gia đình tôi có quá nhiều bước chìm nổi đắng cay, nhưng cuối cùng chỉ có cá nhân thân phụ tôi là chịu thiệt thòi, mà cũng mãi đến cải cách ruộng đất vì một số sai lầm tả khuynh trong việc thực hiện của địa phương nên mới thế. Vả lại, nếu sức khoẻ của thân phụ tôi khá hơn, chịu đựng được một năm tại trại cải tạo, thì sau khi sửa sai, sẽ lại được phục hồi chức vụ một ủy viên của Mặt trận Liên Việt khu 4, và còn có khả năng là ủy viên trung ương. Không may, người quá yếu nên đã sớm từ trần sau mấy ngày vào trại. Đó là ý Chúa nhiệm màu, tôi đã đề cập trên đây. Chứ cuối cùng anh chị em tôi sau này trong xã hội mới, đều có địa vị tương đối khá: anh cả tôi về hưu với tiêu chuẩn ngang hàng thứ trưởng (cũng tương đương với thân phụ tôi lúc hồi hưu); em gái tôi hiện nay là ủy viên ban chấp hành trung ương Liên Hiệp Phụ nữ, các em trai tôi một là giáo sư đại học, một là phó tổng biên tập một tạp chí văn nghệ vào bậc thứ hai trong nước; em rể, anh rể tôi là kỹ sư, bác sĩ... Nói chung, trong chế độ mới gia đình tôi cuối cùng đều giữ được địa vị tương tự như trước. Mà phần lớn con cháu những gia đình, tương tự như gia đình tôi, cũng đều vậy cả cho nên, sự sụp đổ đây là sự sụp đổ của một nhân sinh quan: nửa phong kiến Nho giáo, nửa Tây học theo chủ nghĩa tự do tư sản chứ không phải sự sụp đổ về kinh tế xã hội dồn tôi vào thế kẹt nên sinh ra bất mãn. Bởi vì nếu tôi muốn thì ngay từ năm '46 cũng như sau này tôi vẫn có nhiều dịp có thể rất tiến thân trên đường danh lợi. Tuy trong căn bản không phải là “chán đời đi tu”, nhưng nhờ kinh nghiệm của một sự “đổi đời” mà ý thức được bản chất “đổi đời” của nhân thế
Cũng nên biết rằng trong nhân sinh quan của Kitô giáo cũng rất nhiều điểm trái với chủ nghĩa Tự do Tư Sản như: Chống cá nhân chủ nghĩa, chống tự do quá trớn, chống lạm quyền tư hữu, chống tinh thần tài phiệt (phúc cho kẻ nghèo), chống một quan niệm học phiệt thượng lưu quá tôn trọng trí óc khinh dể lao động chân tay: Chúa Giêsu và thánh Giuse đều là công nhân. Thánh Phêrô làm nghề chài lưới, thánh phaolô tuy là người trí thức nhưng sinh sống bằng nghề dệt lều, các dòng tu là những trung tâm sản xuất tập thể tuyệt vời. Không phải cái nhân sinh quan ấy tự nó không phải không có những giá trị chân chính; nhưng quả là đã hết thời! Nó không giải quyết được vấn đề chính trị xã hội của nước Việt Nam, và nó cũng không giải quyết được vấn đề nhân sinh muôn thuở.
Vốn đã được bài học của cụ Phan Bội Châu, vốn đã thích thơ Tố Hữu, kính mến nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc (mà tôi biết là cộng sản), cũng như các vị: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, vốn biết tiếng các bậc thày như Đặng Thái Mai, Võ Nguyên Giáp; là bạn thân với anh Đinh Nho Liêm, khá quen biết chị Nguyệt Tuế (Nay là Nguyệt tú phu nhân của tướng Lê Quang Đạo); và thấy các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Võ Liêm Sơn, các anh Tạ Quang Bửu, rồi sau này Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, các vị Giám mục, Thượng tọa, đều đứng vào mặt trận chung chống Pháp, tôi không bao giờ có tư tưởng chống đối cách mạng cả . Và mãi về sau cho đến nay, tôi không bao giờ có tư tưởng chống cộng sản cả! Điều đó rất dễ hiểu: vì lúc ấy tôi tuy chưa phân biệt được sự khác biệt giữa những người mà tôi cho là đều có lòng yêu nước: Nguyễn Ái Quốc, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đình Diệm (riêng đối với ông Ngô Đình Diệm thì chính Hồ Chủ Tịch cũng xác nhận: “ông ta là người yêu nước, nhưng yêu theo lối của ông ta”), nhưng sau khi cụ Phan Bội Châu từ trần, người mà tôi nghĩ là nhà cách mạng số một chính là cụ Nguyễn Ái Quốc, và tôi vui vẻ hăng hái tham gia vào đoàn thể Thanh niên cứu quốc do sự giới thiệu của anh Đinh Nho Liêm, tại làng Gôi Mỹ và sau đó là xã Mỹ Hoà (gồm Bình Hoà hợp lại). Lúc ấy tôi đang ở Gôi Mỹ- là vì sau ngày đảo chính Nhật, thân phụ gởi tôi về quê là nơi người về hưu trí từ năm 1942.
Từ tháng 4-1945 cho đến tháng 8-1945, tôi có giúp việc tại Hội đồng Hương chính làng Thịnh Xá, chủ yếu là giúp cứu trợ nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc, từ Huế trở ra. Chúng ta chẳng nhắc đến kỷ niệm đau buồn ấy làm gì, nhưng đến nay hình ảnh những chiếc xe bò chất đầy xác người chết đói lượm nhặt từ các vỉa hè thành phố Vinh, đem đi chôn tập thể, vẫn còn làm cho tôi cảm thấy ớn lạnh. Trong những tháng ấy công việc chính của tôi là cùng với một số anh em thanh niên Làng Thịnh Xá, hàng ngày chăm sóc một số chừng 50 em bé được tập họp tại đình làng, ngày hai bữa quyên gạo nấu cháo rồi phát cháo cho các em ăn đỡ tạm qua ngày. Suy nghĩ lại, về các nhà địa chủ khác thì tôi không có ý kiến, nhưng riêng đối với gia đình tôi tuy rằng sự quyên góp gạo cứu đói kể là nhiều; nhưng riêng tôi xét hết sức khách quan, thì vẫn chưa thật là đúng với lòng “nhân” của đạo Khổng, vì tôi còn nhớ số lúa giữ lại cho gia đình, so với nhu cầu cần kíp cho tới vụ hè thu tiếp đó, vẫn còn là quá nhiều. Đáng lẽ ra là phải tung ra cứu đói nhiều hơn nữa mới khỏi lỗi đạo Trời.
Sau thời gian sinh hoạt trong hàng ngũ Thanh niên Cứu quốc tại làng Gôi Mỹ (sau Cách mạng, gia đình tôi thuộc về dân cư chính thức của Gôi Mỹ, không thuộc Thịnh Xá nữa), khi hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính xã Mỹ Hoà được thành lập, tôi giữ chức vụ thư ký ủy ban hành chính xã Mỹ Hoà. Anh Đinh Nho Liêm được cử lên tỉnh hoạt động trong đoàn thanh niên Cứu quốc tỉnh, nhưng giữ chức vụ gì thì tôi không được rõ cho lắm. Như vậy là sau Cách mạng mùa thu, tôi được Cách nạng dung nạp và điều dụng tương đối tốt, nên không có gì đáng tiếc xảy ra. Thân phụ tôi sau một thời gian bị giam giữ tại nhà lao Vinh do yêu cầu của ủy ban kháng chiến tỉnh Nghệ An (nơi người là An sát năm l930), được đưa ra toà và được trắng án, trở về tham gia Phụ lão Cứu quốc, rồi Liên Việt xã và được bầu vào Hội đồng nhân dân xã. Cứ vậy mà tiến lên ủy viên ban chấp hành Ủy ban Mặt trận Liên Việt khu 4 cho đến năm l953 mới chịu các đau đớn do những quá khích sai lầm của cải cách ruộng đất. Bản thân tôi cũng được Cách mạng mở đường để tiến thân. Làm việc tại ủy ban hành chính xã được mấy tháng thì cấp ủy Việt Minh tỉnh Hà Tĩnh do anh Đinh Nho Liêm giới thiệu điều động tôi và người em gái kế tôi (hiện là ủy viên trong ban chấp hành trung ương Hội phụ nữ như đã nói ở trên) lên tỉnh xung vào đội Tuyên Truyền Xung Phong. Như vậy Cách mạng đối với gia đình tôi và bản thân tôi rất là tốt, không có gì là kỳ thị cả. Do đó đứng về mặt việc đời, tôi không có gì để gọi là oán hận, chống đối Cách Mạng cả. Và xét về mặt đời mà nói thì tôi lại là con người đã phụ lòng Cách Mạng (phụ lòng chứ không là phản bội - vì tôi không bao giờ tự mình đi vào con đường chống lại hay phá hoại Cách Mạng cả, nói là phụ lòng vì tôi đã tự mình rút lui để đi vào một con đường khác. “Khác” chứ không phải là đối nghịch hay phản động. Con đường ấy chính là con đường Tôn giáo.
Tôi đã đi sang con đường ấy như thế nào? Tôi dùng chữ “như thế nào (Comment) chứ không dùng chữ “tại sao” (pourquoi) vì nếu nói một cách tuyệt đối thì câu trả lời cho câu hỏi “tại sao” là do “ơn Thiên Chúa”, vì nó là nguyên nhân đệ nhất (cause première), nguyên nhân căn bản (cause fondamentale). Những điều tôi ghi lại sau đây chỉ là mô tả (décrire) những sự kiện bên ngoài (ngoài đây là hiểu theo nghĩa hiện tượng: hiện tượng khả giác như các sự cố và cả những sự kiện khả thức thuộc thế giới tâm linh) mà Thiên Chúa dùng như những nguyên nhân đệ nhị (causes secondes) theo qui luật tự nhiên (mà qui luật này do chính Ngài sáng tạo và thiết lập) để kéo tôi ra khỏi những đồn lũy khá kiên cố đã cầm buộc tôi, để tôi có thể đi đến với Ngài, khác nào như xưa Ngài đã phải dùng trăm phương nghìn kế để kéo dân Ngài ra khỏi Ai Cập và đưa vào đất hứa (cũng xin nói ngay là sau khi ra khỏi Ai Cập: dân Chúa vẫn còn phải lang thang 40 năm trong sa mạc; sau này sẽ kể lại cuộc đời lang thang của tôi gần 20 năm trong sa mạc trần gian này, sau khi đã gọi là thuộc về Ngài. Có lẽ mãi sau này mới gọi là đứng trên bờ sông Gio-đan mà thôi). Sở dĩ phải phân biệt “tại sao” và “như thế nào”là để giải quyết vấn nạn mà người ta vẫn nêu ra cho các người trở lại theo đạo. Như việc trở lại của Pascal chẳng hạn. Có một số biến cố đầu tiên, đó là vụ tai nạn giao thông làm cho ông suýt chết. Dĩ nhiên chắc hẳn Pascal phải trải qua một cơn sợ khủng khiếp. Do đó có nhiều người cho rằng Pascal trở lại chỉ vì bị kích động quá mạnh. Đúng trăm phần trăm! Rồi Pascal, vốn sức khoẻ yếu kém, bệnh tật liên miên, nên có người cho rằng ông trở lại chỉ vì không đủ cường lực thể lý chống chọi, phải tìm nơi ẩn náu, cũng đúng phần nào, vì Pascal cũng có nhấn mạnh đến những nỗi “khốn khổ” của con người (misères humaines). Cuối cùng có người còn nói Pascal thuộc dòng dõi phong kiến, hoang mang trước sự trỗi dậy của giai cấp công thương đang được nền quân chủ chuyên chế nâng đỡ nên sinh ra bi quan. Cũng có phần đúng! Vì thế, nên đặt tiền đề là: Không có Thiên Chúa, không có thế giới siêu nhiên, thì dĩ nhiên sẽ thấy, và sẽ chỉ thấy có những hiện tượng quả có thật ấy mà thôi và ắt sẽ phải kết luận rằng Pascal trở lại chỉ vì những hiện tượng ấy. Lô-gích trăm phần trăm. Chứng minh theo luận lý hình thức thì đúng thật một trăm phần trăm.
Thế nhưng, chỗ hở của lập luận ấy là phạm phải cái sai lầm “tiền đề tiền kết” kết luận đã có từ trước khi chứng minh rồi. Vì ngay từ tiền đề đã gạt hẳn Thiên Chúa và siêu nhiên! Cũng như kẻ đổ hết nước trong bình ra trước rồi mới biện luận để chứng minh rằng trong bình không có nước vậy! Việc Thiên Chúa đưa dân Ngài qua Biển đỏ cũng vậy, Ngài có sai tổ phụ Abraham hay các thiên thần hiện ra múc cạn nước đâu. Ngài chỉ can thiệp một cách gián tiếp qua trung gian những quy luật tự nhiên, chỉ có con mắt đức tin mới chọc thủng lớp nguyên nhân đệ nhị ấy để thấy được nguyên nhân đệ nhất, nguyên nhân nền tảng lồng xuyên qua chuỗi hạt nguyên nhân đệ nhị ấy. Do đó mà tôi không bao giờ chứng minh, tôi chỉ 1àm chứng về một NIỀM TIN, một NỖI YÊU. Mà nỗi niềm tâm sự thì hỏi ai bây giờ? Hỏi ai? Nhưng ai lại chẳng có nỗi niềm phải không ai? Chữ ai nhắc đến câu nói của Phaolô: “Tôi biết tôi tin vào Ai" (“qui”chứ không phải “quoi”, “ai” chứ không phải “cái gì”), cho nên đây là một thế giới của những cái “ai”: một Ai nói với một Ai về một Ai chứ không phải là việc tìm cách kiểm chứng về một cái gì, điều mà máy móc làm chính xác hơn con người! Còn Luận lý hình thức (logique formelle) chỉ là một guồng máy thực ra cũng vô tri vô giác; A = A thì thực ra có biết thêm gì đâu! Lô-gích chỉ là cái máy vận dụng cơ giới chơi không (formelle) chứ có nắm được hiện thực gì đâu (nó chỉ là cái vỏ nên mới gọi là formelle, như cối xay không có gì bỏ vào đó cả, không vẫn hoàn không). Giải thích sự trở lại của Pascal thành một đồ vật: ghi nhận trung thực kiểu chụp hình, rất rõ, rất chi ly, rồi đem vào guồng máy suy diễn luận lý hình thức, thì có khác nào đưa mía vào ép, đương nhiên nước ngọt chảy ra hết và chỉ còn xác mía. Quan âm Thị Kính bị kết án âm mưu giết chồng cũng vậy: ông chồng mở mắt ra chụp hình rất chính xác, “cô ta đang cầm dao kề cổ mình”, trong tiền đề đã gạt ra cái ý rằng đó có thể là một cử chỉ yêu thương: rồi đem suy diễn rằng dao kề cổ thì ắt là cắt cổ. Kết luận: âm mưu giết chồng thật đúng trăm phần trăm theo lô-gích hình thức! Trạng sư nào cãi nổi? Chỉ niềm “tin yêu” mới thấy được đó là một động thái yêu thương.
Quan sát kiểu chụp hình bằng máy ảnh, suy diễn kiểu thuần tuý luận lý hình thức đã gây ra bao vụ “oan Thị Kính”. Nguyễn Trãi chết cũng do vậy! Đợi đến Lê Thánh Tôn phục hồi thì muộn quá rồi! Thực ra Nguyễn Trãi bị kết án trước rồi, chuyện vua chết bên cạnh Thị Lộ chỉ là cái cớ, cái cơ hội, cái dịp để đưa ông ra xử trảm thôi. Trong lòng ông chồng Thị Kính vẫn nghi rằng vợ mình có thể giết mình, việc kê dao vào cổ chỉ là cái cớ để cho sự nghi ngờ ấy biểu lộ thôi! Thiên Chúa cũng vậy, người ta đã giết Ngài trong lòng họ rồi, thì tìm đâu ra Ngài nữa? Chứng minh chỉ là hậu biện cho một tiền đề. Tin yêu là thuộc lãnh vực tự do mà tự do thì biện luận, kiểm chứng chỉ là hậu biện hết. Đã gọi là tự do thì thoát khỏi mọi khuôn khổ, vì nó là tự khởi đầu.
Do đó, kể chuyện tâm sự của mình với ai là để “ai muốn nghe thì nghe” vậy thôi: rồi ai lại vẫn là “ai” tự do tuyệt đối, có tin ai, có yêu ai là chuyện riêng của mỗi cái “ai” muôn đời kín nhiệm.
Vả chăng suy cho cùng, một khi trí óc con người đã khép kín lại thì có A – A (luận lý hình thức) mới là chắc một trăm phần trăm, còn nếu mở ra, đi vào hiện thực, thì như một số nhà luận lý học đã nói: trong bất cứ một phán quyết nào về hiện thực (Jugement d’existence) cũng bao hàm, một chiều niềm tin. Bởi vì, ngay cả thế giới hữu hình này, xét về mặt “lý luận thuần túy” mà nói, thì lấy cái gì để bảo đảm trăm phần trăm rằng tất cả không là hư ảo như trong giấc mơ. Trang Tử có lý (thuần lý luận) khi phân vân không biết mình là Trang Tử mơ hóa bướm, hay mình là bướm mơ hóa thành Trang Tử. Và đó là luận cứ bất khả phi bác (về mặt duy lý luận) của một thuyết duy tâm (idéalisme, nên dịch là duy tưởng thì có lẽ sát nghĩa hơn), dù là sai hẳn về mặt hiện thực. Vả lại, triết gia Descartes không phải là không có lý phần nào khi nói rằng: cuối cùng sự phán quyết khẳng định về sự hiện hữu của ngoại giới phải dựa vào niềm tin ở sự hiện hữu của Thượng Đế Sáng tạo.
Tôi đã đi vào con đường tôn giáo như thế nào? Mãi đến nay vẫn cứ nhiều thân bằng hỏi tôi như vậy! Tôi xin cố gắng bình tâm trả lời trong mức độ có thể, vì đó là thuộc lãnh vực kín nhiệm cả. Trước hết, có lẽ cần khẳng định rằng tiềm tàng tôi đã có niềm tin vào một cái gì (đúng hơn là phải nói một dạng nào đó ít nhiều tính cách huyền nhiệm, siêu việt, tuyệt đối, vĩnh cửu) dẫu chỉ là lờ mờ mà thôi, là Đấng mà bình dân gọi bằng “Trời” hay “Bề trên” hoặc “Ơn trên”. Điều ấy gọi là cảm thức tôn giáo tự nhiên. Từ cái cảm thức tôn giáo tự nhiên ấy, con người lấy lý trí mình soi rọi để quan niệm hóa. Thường có hai xu hướng: – một xu hướng là đi đến kết quả khẳng định sự hiện hữu của một ĐẤNG TỐI CAO, nguồn gốc của mọi sự, ví dụ như trong Khổng giáo thì: Vạn vật ban hồ thiên. – Một xu hướng khác là đi đến kết luận phủ nhận sự hiện hữu của một Đấng như thế, mà cho rằng đó chỉ là kết quả những hiện tượng tâm lý xã hội, chính trị, kinh tế, tạo thành một ý niệm hoàn toàn chủ quan, không có hiện thực, mà ánh sáng của lý trí, nhất là của cái gọi là khoa học sẽ đánh tan như ánh sáng phá tan mây mù.
Tôi thuộc về xu hướng tin có Trời (một ông Trời chưa được quan niệm hóa rõ ràng), từ đó được củng cố thêm qua tư tưởng của Khổng giáo, nhất là qua trung gian của hệ thống luân lý: Đạo Trời, Lẽ Trời, Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân, quan niệm ấy gán cho Đấng Tối Cao ít nhiều yếu tố của một ngã vị cụ thể, nhưng đôi khi được coi như một Nguyên lý phần nào vô ngã (nói chung khá hàm hồ: nghiêng về phía hữu thể hữu ngã hoặc vô ngã, có lẽ tùy tâm trạng và hoàn cảnh mà yếu tố cảm tính hay yếu tố lý tính chiếm phần lớn). Một Tín Niệm nữa là: con người là “Linh ư vạn vật”; Từ ngữ “Linh” ở đây cũng có cái gì hàm hồ như chữ “Trời”, không hẳn rõ ràng là con người có linh hồn bất tử; nhưng là một cấp hữu thể cao hơn súc vật, có trí khôn, có lương tâm, biết phân biệt các giá trị sai đúng, xấu đẹp, thiện ác và cũng tiềm tàng một cái gì đó sẽ còn lại sau khi chết: “sinh ký tử qui”, “thác là thể phách còn là tinh anh”, “hương khói phụng thờ”. Tất cả những cái ấy là hạt nhân thừa kế từ ông cha lâu đời, từ những vi tử bản thân, tuy không thành một hệ thống minh bạch chặt chẽ nhưng đã chi phối suy nghĩ; cảm tính và hành vi của tôi. Lớp trí thức Tây Phương tư sản chỉ là lớp học vấn mỏng và cạn thuộc về lý trí. Cái khí quyển tương quan liên ngã vị của Kitô Giáo nói trên thì chỉ mới là một cái gì bàng bạc, cũng ví như một thứ hương ướp dần, một thứ hơi nước ngấm dần, chứ chưa kết tụ. Còn những gì thuộc về Lão giáo và Phật giáo thì cũng chỉ như áng mây, làn gió lãng đãng phiêu diêu tô điểm cho cảnh sắc nội tâm mà thôi. Chính cái hạt nhân cùng với lớp vỏ dầy, mỏng, nông, sâu ấy tạo nên một nhân sinh quan, mà tôi đã sống trong hiệu thực của gia đình và xã hội trước năm 1945, đem lại một sự ổn định quân bình nào đó cho chàng trai 20 tuổi, còn nuôi nhiều ước vọng và hoài bão tươi đẹp, nói chung là đáng phấn khởi. Cách mạng 45 như là luồng gió mạnh, làn sóng cuốn đi tất cả đối với một số tâm hồn ở vào tình trạng như tôi, thì cách mạng sau khi đã quét sạch ngôi nhà cũ, đã đưa họ vào một ngôi nhà mới rất nhiều giá trị, và họ đã hết mình đi theo như một con đường sống (một bài xã luận của anh Viện tôi nhan đề “từ Khổng giáo đến chủ nghĩa Mác-xít” nói lên khá rõ ràng việc này), mà tôi nghĩ như vậy cũng là phải, là dễ hiểu. Chủ nghĩa Mác-xít với tổ chức Đảng Cộng Sản, với lý tưởng độc lập và công bằng xã hội, quả đã đem lẽ sống cao đẹp cho bao thế hệ thanh niên đáng kính mến, một điều cũng đáng mừng: bao nhiêu tâm hồn đã tìm được ở đó một ý nghĩa cao đẹp cho cuộc đời và cống hiến đời mình cho sự nghiệp lớn lao. Còn tôi thì khác hẳn. Tôi đã được mở đường tiến thủ với đường lối chủ trương của Mặt trận Việt Minh dành cho những người thuộc thành phần xã hội như tôi. Bởi đó tôi không có gì phải chống đối, phản lại như các đảng viên thuộc các đảng chính trị đối lập thời đó, trái lại tôi thấy có nhiều điểm tương đồng với chủ trương của Cách Mạng, nhất là về mặt độc lập dân tộc và tôi cũng được sự thôug cảm của nhiều cán bộ mà tôi rất kính mến (và tôi vẫn giữ nguyên lòng kính mến cho đến trọn đời). Tuy nhiên, tôi vẫn thấy hình như lạc lõng bơ vơ trong những ngày giờ hoạt động trong hàng ngũ đội Tuyên truyền Xung phong. Sự sụp đổ của một chế độ cho tôi thấy tính cách thời biến của cuộc đời: thì ra ở đời không có cái gì là trường tồn, vĩnh tại. Quá khứ đã vậy, thì hiện tại tương lai cũng vậy thôi! Tôi không có gì tiếc nuối cái quá khứ ấy, vì vậy cũng không bao giờ có ý nghĩ tham gia những phong trào phản động hòng khôi phục quá khứ. Hơn nữa sau khi cụ Phan qua đời, người Cách Mạng số một đối với tôi vẫn là cụ Nguyễn Ái Quốc: do đó tôi cũng không tin vào một vị lãnh tụ nào khác, hòng tìm một con đường mới hay hơn đường lối do mặt trận Việt Minh đề ra. Và dần dần trong tâm tư càng đậm nét cái quan niệm này: ở trần gian, mọi sự đều chóng qua, đổi dời và tương đối; thế mà lòng tôi vẫn hướng về một cái gì vĩnh cửu, tuyệt đối, trường tồn. Trong khi đó thì dù thế nào đi chăng nữa, cuối cùng vẫn có người đau khổ, vẫn có người không tốt! Nói một cách khác: vấn đề tội lỗi và đau khổ của nhân sinh muôn thuở được đặt ra vượt mọi khuôn khổ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của bất cứ thời nào và nơi nào. Những vấn đề triết học mà tôi chỉ học một cách lý thuyết suông trong chương trình ban triết lý, những vấn đề nhân sinh mà tôi chỉ cảm xúc suông qua các tác phẩm văn chương, nay thực sự đặt ra cho tôi trong chính bản thân tôi. Đời là vô thường, là bể khổ, mọi sự đều là phù vân, đối với tôi lúc ấy không còn là đề tài triết lý văn chương nữa mà là hiện thực cụ thể. Sự vui mừng làm người dân độc lập, sự vui vẻ sinh hoạt với anh chị em trong đội Tuyên Truyền không đủ lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn tôi. Tôi không hề luyến tiếc quá khứ, ngoại trừ có chút ít tiếc là không được tiếp tục con đường học vấn (tuy nhiên anh chấp ủy Việt Minh Hà Tĩnh lúc bấy giờ có xác quyết với tôi rằng thế nào rồi cũng có những chủ trương cho những thanh niên như tôi được tiếp tục trau dồi kiến thức để đào tạo nhân tài. Tôi tin vào lời ấy, và quả thực, số đông anh em trừ những anh em chọn con đường binh nghiệp hoặc chính trị và những anh em này về sau cũng được trau dồi thêm về văn hóa) hầu hết những thanh niên có trình độ thành chung, tú tài, sau này đều được tiếp tục học hành trở nên những chuyên viên thuộc mọi ngành, đều có trình độ văn hóa cao.
Cho nên, xét cho cùng, không phải vì sự bất mãn cá nhân hay gia đình mà tôi rẽ sang hướng khác, mà thực sự tôi đã được ơn thấy rõ: hình như cứu cánh cuộc đời không phải ở nơi trần gian sẽ qua đi này, mà ở một nơi nào khác: Lại có hai sự kiện làm cho tâm trạng tôi càng thêm đậm nét: 1. Sức khoẻ của tôi bị giảm sút vì chứng đau dạ dày mà tôi mắc phải năm 44, tái phát khá nặng; 2. Sự tan vỡ của chính phủ liên hiệp do sự ra đi của cụ Nguyễn Hải Thần... Như trên kia đã nói ngoại trừ lòng ao ước độc lập của dân tộc ra, tôi chưa hề có một quan niệm chính trị nào đối với vấn đề xây dựng đất nước Việt Nam sau khi độc lập cả! Lòng tôn kính với cụ Nguyễn Ai Quốc là do lòng kính mến đối với cá nhân cụ chứ không phải là do đã hiểu và theo lý tưởng Cộng sản mà cụ đã đem lại. Tôi hoàn toàn không đặt vấn đề ấy, chỉ mong sao độc lập đã, mọi chuyện tính sau - cho nên tôi khao khát thấy tất cả những ai có lòng muốn đuổi Tây ra khỏi Việt Nam đều đoàn kết lại kháng chiến đã. Sự phân rẽ, mà lúc ấy tôi cho rằng do ý thức hệ gây ra làm tôi buồn và chán ngấy, tôi lo ngại sẽ đi đến chỗ huynh đệ tương tàn, chứ tôi không hề có ý kiến gì đối với vấn đề ý thức hệ. Tình trạng chia rẽ ấy làm tôi buồn, và vì tôi không nghiêng về phía nào cả, nên tôi chỉ muốn rút lui đứng ngoài, khác nào như đứa bé thấy người lớn trong nhà xích mích, không bênh ai không lên án ai chỉ lặng lẽ rút lui đi chỗ khác để tránh nỗi buồn phiền. Và từ đó vấn đề chính trị đối với tôi, không bao giờ muốn nghĩ đến nữa. Và càng có kinh nghiệm sống, tôi càng ớn ngấy lánh xa.
Thế là phần vì bệnh dạ dày tái phát, tôi xin trở về nhà chuyên chữa và an dưỡng. Sau vài tháng thuốc thang, bệnh thuyên giảm, vì chưa có bằng tú tài phần II, tôi xin phép gia đình vào Huế chuẩn bị kỳ thi khóa hai năm 1946 do chính phủ Cách mạng tổ chức tại Huế, vì niên học 45-46 các trường trung học ở Huế vẫn tiếp tục mở, các kỳ thi vẫn được tổ chức bình thường. Thực ra, thi tú tài 2 chỉ là một dịp cho tôi được thay đổi, di chuyển cho thanh thản tâm tư, chứ lúc ấy cũng chẳng còn ham hố theo đuổi sự nghiệp nữa. Đã học hết chương trình thì đi thi một cái cho xong. Ở Huế lúc ấy bạn cũ chẳng còn mấy ai, vì phần đông đã đỗ tú tài 2 năm 45 vào khóa thi được chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức sau ngày Nhật đảo chính. Cuối niên học 45-46, tôi vào Huế thì gặp hai người bạn thân: Anh Phan Văn Đanh người cùng quê vào Huế học, sau đảo chính Nhật vẫn tiếp tục ở lại cho đến cuối niên học ấy, và anh Nguyễn Ngọc Cẩn người Bình Thuận (Cẩn sau này là em rể tôi). Sự gặp lại anh Phan Văn Đanh là một việc có ý nghĩa lớn đối với tôi. Anh Đanh là một tín đồ Phật giáo rất mộ đạo, có đời sống rất đáng kính, đáng mến. Lúc bấy giờ anh được vị sư chủ trì chùa Linh Quang ở đầu dốc Bến Ngự, là thượng toạ Thích Trí Thủ, cho tá túc tại chùa để học thi. Tôi cũng được chấp nhận ở cùng trong chùa với anh Đanh. Như trên đây có nói, từ lâu tôi vẫn mến cảnh trí tịch mịch vắng lặng của các ngôi chùa ở Huế, ít nhiều có cảm tình với đạo Phật qua trung gian các tác phẩm văn chương. Thời gian ở trọ Chùa Linh Quang, trong tâm trạng bơ vơ buồn nản nói trên, tôi trao đổi về đạo Phật với anh Đanh, với một số học tăng ở các ngôi chùa lân cận, và đôi khi cũng nghe vị sư trụ trì, là sư Trí Thủ giảng kinh. Nhưng nhất là đôi khi tôi đã vào chiêm bái tượng Phật, lần lần tôi tìm được sự an ủi do những giáo lý căn bản của đạo Phật mà tôi đã tiếp thu dược. Cuộc đời tu hành, thoát tục của các vị lăng ni, làm tôi chỉ muốn có cuộc đời như vậy: gác hẳn mọi việc thế trần, nương mình nơi cửa Phật. Thực ra, nơi đạo Phật, tôi chỉ tiếp thu phần tiêu cực, đánh giá cuộc đời thế tục dưới cái nhìn bi quan yếm thế, và muốn sống đời tu hành lánh xa bụi hồng kiểu Thúy Kiều hay Lan trong Hồn Bướm Mơ Tiên, hoặc Lan trong Tắt Lửa Lòng, chứ không thâu nhận được mặt tích cực của giáo lý nhà Phật. Thực ra, nói đạo Phật, tôi muốn sống cảnh chùa xa lánh cõi đời, chỉ nương nhờ cửa Phật chứ không tin vào Phật pháp. Nói chung cách khác, tôi chỉ bị lôi cuốn bởi đời sống cửa thiền chứ không phải tin theo Phật đạo! Nếu tôi có ý đi tu thì chỉ là mượn nhà chùa làm nơi ẩn dật, chứ không phải là thực sự trở thành tín đồ của Phật giáo. Tôi chỉ muốn tìm cái hương vị của cảnh sống ở chùa để quên đi những nỗi ưu phiền, để mình chìm vào một sự u tịch, chứ không phải đã có tinh tấn tu chứng Phật pháp. Đi tu để tránh đời là chính, còn cửa Phật chỉ là dạng thức mà bất cứ người Việt Nam nào (ngoài Kitô giáo) hễ nghĩ tới đời tu hành tất là phải liên tưởng đến. Giáo lý nhà Phật đối với tôi chỉ là cái áo tri thức khoác vào một cuộc đời “Tị thế” mà thôi. Do đó, tôi thực ra đã phóng chiếu cái tâm trạng bi quan yếm thế của mình, khoác cho cái vỏ là phần tiêu cực Phật giáo, chứ không sở đắc phần giáo lý xây dựng tích cực của Phật giáo, (mà phần này mới là cốt lõi của Phật giáo). Phân tích kỹ, tôi thấy nơi tôi chỉ có những cảm thức nhuốm một màu nhàn nhạt của Phật giáo, qua một loại văn chương ít nhiều pha trộn lãng mạn (Sơ kính tân trang, Kiều, Hồn bướm mơ tiên, Tắt lửa lòng) và một ước mong sống xa lánh việc đời theo cung cách của các nhà chùa, chứ không tiếp thu cái cốt lõi của Phật giáo. Thực ra điều tôi tìm kiếm lúc ấy là đời tu hành chứ không nhắm theo Đức Phật tìm đạo giải thoát trong giáo lý của Phật giáo.
Từ ngày vào Huế trú ngụ tại Linh Quang mùa hè năm 1946, cho đến quãng năm 1948, tôi là một tâm hồn phiền não được xoa dịu bởi lòng từ bi của anh Phan Văn Đanh và một số đạo hữu cũng như một vài vị sư trong khung cảnh tu hành an tịnh của một vài ngôi chùa, với hình ảnh tọa thiền trên tòa sen của Đức Phật và bóng dáng dịu hiền của Đức Quan Thế Âm chứ không lãnh hội gì mấy về giáo lý của đạo Phật cả. Nhưng lúc ấy tôi cứ tưởng mình là Phật tử rồi. Kỳ thi tú tài II, khoá II năm 1946 tại Huế, tôi trúng tuyển: còn nhớ đề thi triết là “Anh hãy phân biệt triết học với tôn giáo” kể ra cũng là một sự trùng hợp kỳ lạ với tâm trạng tôi lúc ấy. Vị giám khảo môn triết lý lại là Linh Mục Nguyễn Văn Hiền (lúc đó làm cha sở họ Thừa Lưu, địa phận Huế, sau này làm Giám Mục tiên khởi địa phận Đà lạt và có lúc là chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Đà lạt mà tôi là trưởng ban triết lý).
Một kỷ niệm mà tôi ghi nhớ trọn đời là trong thời ở trọ học chuẩn bị thi tại chùa Linh Quang có nhiều buổi chiều lúc hoàng hôn xuống; tôi đã xin chú tiểu nhường cho việc gióng 108 tiếng chuông thu không ngân nga trầm mặc, bên dốc bến Ngự, cách nơi an nghỉ của bậc cách mạng mà tôi tôn kính vô cùng là cụ Phan Bội Châu chỉ độ hơn trăm mét thôi.
Tưởng cũng nên nhắc đến một mối tình nhân thế của tôi vào những năm 43 - 45, một cuộc tình vô cùng ngang trái, tuy không thảm khốc nhưng khá nhiều bi kịch tính vì là một mối tình bất khả (impossible) mà tôi - một mặt là kẻ phụ tình làm đau khổ kẻ khác, một mặt lại là kẻ bị đau khổ vì không được đáp lại! Đó cũng là một việc tô đậm thêm cho ý thức của tôi về trần gian này là nơi đầy khổ lụy, và làm cho tôi không còn chờ đợi gì ở một mối tình nào trên trần gian này nữa, khi mà tôi được biết là Chúa yêu tôi. Vả lại, những biến cố dồn dập xảy đến trên đất nước cũng như trên gia đình và cá nhân tôi làm cho vấn đề “tình yêu” nhân thế hầu như không có tác dụng gì đối với tôi nữa! Trước những vấn đề của thời cuộc đối với cá nhân, đất nước, Hội Thánh, Nhân loại, tâm tư tôi không còn chỗ cho tình yêu cá nhân nữa. Suốt cuộc đời độc thân, nhiều lúc nỗi cô đơn tràn ngập tâm hồn, nhất là những năm xa gia đình, xa đất nước; nhưng tôi vẫn không nghĩ rằng một mối tình nhân thế nào có thể lấp đầy chỗ trống của lòng mình, ngoại trừ Tình yêu của Đấng đã chịu chết trên Thập giá vì tôi, không phải là không có những mời mọc hoặc tôi không có những lúc chao đảo ngả nghiêng. Thế nhưng cuối cùng, càng lớn tuổi tôi càng thể nghiệm lời của thánh Âu Tinh: “Chúa đã tạo nên con cho Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải mãi cho tới lúc nào con được gặp Chúa mới thôi! ”. Dĩ nhiên đây chỉ là trường hợp riêng tôi, không có tính cách phổ quát. Tôi biết có rất nhiều tâm hồn có kinh nghiệm ngược lại. Chính là nếm được một tình yêu nhân thế mà họ đã nhận ra được Tình yêu Thiên Chúa, đúng như lời thánh Phaolô nói: Hôn nhân là dấu chỉ của mầu nhiệm phối hợp cao vời giữa Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài. Trường hợp của tôi không phải là phổ quát nhưng khá phổ biến, nhất là những tâm hồn ngoài Kitô giáo. Như tôi đã nói trên, việc trở thành người Công giáo thường khá khó khăn, nên Thiên Chúa phải dùng nhiều cách để gợi ý, mời mọc, thúc bách, phá vỡ những ràng buộc và ngăn cản thuộc mọi bình diện, trong những cách ấy, việc nếm qua kinh nghiệm cay đắng của tình đời là một cách khá hiệu nghiệm (tình đời ở đây không phải chỉ có tình yêu nam nữ mà là mọi mối tình khác nữa!). Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi: “Ai mệt nhọc lao lung, hãy đến cùng Ta”. Một tâm hồn như Tê-rê-sa Hài đồng, mà cũng phải qua những kinh nghiệm bẽ bàng như vậy về tình đời mới đi sâu vào mầu nhiệm của Tình Yêu Thiên Chúa, phương chi tôi là một tâm hồn ứ đầy bao nhiêu là những điều thuộc về thế gian chất nặng, cầm buộc, cần phải dày công thanh luyện.
Quả vậy, nếu khi đậu tú tài, tôi được tiếp tục vào Đại học ngay, tốt nghiệp và thành đạt ngay với vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng, danh vọng quyền uy, rồi năm nay lên 60 tuổi, là một vị thượng quan hồi hưu có bổng lộc cao con cháu đùm đề, thì lòng tôi đã đầy ắp, hỏi có còn chỗ cho Chúa ngự vào nữa không? Khôn ngoan như vua Salomon mà cũng lìa bỏ Chúa vì bả vinh hoa, phú quí, tình ái! Thế mới hay khốn cho kẻ giàu, phúc cho kẻ nghèo! Tình yêu Chúa chẳng khác nào rượu quí muốn đổ rượu vào bình, phải trút hết những thứ đang làm cho bình đầy ứ; chính những sự cố xảy ra năm 1945 làm cho cái bình đời của tôi được đổ vơi đi những thứ nó đang đầy ắp: trước hết là sự sụp đổ về vị trí xã hội trước Cách mạng mùa thu. Dù không lấy làm vinh dự lắm về địa vị “con quan”, tôi vẫn thuộc về tầng lớp thượng lưu: một cậu tú con một vị danh Nho làm quan đến nhất phẩm, có tiếng thanh liêm và được vị nể, bản thân lại học giỏi, được thày yêu bạn mến, hướng tương lai tiến thân mở rộng về nhiều mặt: học vấn, tình duyên, địa vị, tài sản kể cả danh thơm tiếng tốt ít nhiều!... Cách mạng mùa thu đến như một cơn tỉnh mộng! Nhưng sâu xa hơn, Cách mạng mùa thu không phải chỉ là một cuộc cách mạng xã hội làm cho địa vị xã hội của gia đình tôi đổi thay, mà còn bắt tôi phải đặt lại vấn đề nấc thang giá trị về nhân sinh: thuyết Mác xít đặt cho tôi nhiều câu hỏi về mọi mặt. Và chính bình diện này mới là quan trọng: vấn đề nhân sinh quan trong căn bản của nó. Quả vậy, tuy từ 45 đến 55, gia đình tôi có quá nhiều bước chìm nổi đắng cay, nhưng cuối cùng chỉ có cá nhân thân phụ tôi là chịu thiệt thòi, mà cũng mãi đến cải cách ruộng đất vì một số sai lầm tả khuynh trong việc thực hiện của địa phương nên mới thế. Vả lại, nếu sức khoẻ của thân phụ tôi khá hơn, chịu đựng được một năm tại trại cải tạo, thì sau khi sửa sai, sẽ lại được phục hồi chức vụ một ủy viên của Mặt trận Liên Việt khu 4, và còn có khả năng là ủy viên trung ương. Không may, người quá yếu nên đã sớm từ trần sau mấy ngày vào trại. Đó là ý Chúa nhiệm màu, tôi đã đề cập trên đây. Chứ cuối cùng anh chị em tôi sau này trong xã hội mới, đều có địa vị tương đối khá: anh cả tôi về hưu với tiêu chuẩn ngang hàng thứ trưởng (cũng tương đương với thân phụ tôi lúc hồi hưu); em gái tôi hiện nay là ủy viên ban chấp hành trung ương Liên Hiệp Phụ nữ, các em trai tôi một là giáo sư đại học, một là phó tổng biên tập một tạp chí văn nghệ vào bậc thứ hai trong nước; em rể, anh rể tôi là kỹ sư, bác sĩ... Nói chung, trong chế độ mới gia đình tôi cuối cùng đều giữ được địa vị tương tự như trước. Mà phần lớn con cháu những gia đình, tương tự như gia đình tôi, cũng đều vậy cả cho nên, sự sụp đổ đây là sự sụp đổ của một nhân sinh quan: nửa phong kiến Nho giáo, nửa Tây học theo chủ nghĩa tự do tư sản chứ không phải sự sụp đổ về kinh tế xã hội dồn tôi vào thế kẹt nên sinh ra bất mãn. Bởi vì nếu tôi muốn thì ngay từ năm '46 cũng như sau này tôi vẫn có nhiều dịp có thể rất tiến thân trên đường danh lợi. Tuy trong căn bản không phải là “chán đời đi tu”, nhưng nhờ kinh nghiệm của một sự “đổi đời” mà ý thức được bản chất “đổi đời” của nhân thế
Cũng nên biết rằng trong nhân sinh quan của Kitô giáo cũng rất nhiều điểm trái với chủ nghĩa Tự do Tư Sản như: Chống cá nhân chủ nghĩa, chống tự do quá trớn, chống lạm quyền tư hữu, chống tinh thần tài phiệt (phúc cho kẻ nghèo), chống một quan niệm học phiệt thượng lưu quá tôn trọng trí óc khinh dể lao động chân tay: Chúa Giêsu và thánh Giuse đều là công nhân. Thánh Phêrô làm nghề chài lưới, thánh phaolô tuy là người trí thức nhưng sinh sống bằng nghề dệt lều, các dòng tu là những trung tâm sản xuất tập thể tuyệt vời. Không phải cái nhân sinh quan ấy tự nó không phải không có những giá trị chân chính; nhưng quả là đã hết thời! Nó không giải quyết được vấn đề chính trị xã hội của nước Việt Nam, và nó cũng không giải quyết được vấn đề nhân sinh muôn thuở.
Vốn đã được bài học của cụ Phan Bội Châu, vốn đã thích thơ Tố Hữu, kính mến nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc (mà tôi biết là cộng sản), cũng như các vị: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, vốn biết tiếng các bậc thày như Đặng Thái Mai, Võ Nguyên Giáp; là bạn thân với anh Đinh Nho Liêm, khá quen biết chị Nguyệt Tuế (Nay là Nguyệt tú phu nhân của tướng Lê Quang Đạo); và thấy các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Võ Liêm Sơn, các anh Tạ Quang Bửu, rồi sau này Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, các vị Giám mục, Thượng tọa, đều đứng vào mặt trận chung chống Pháp, tôi không bao giờ có tư tưởng chống đối cách mạng cả . Và mãi về sau cho đến nay, tôi không bao giờ có tư tưởng chống cộng sản cả! Điều đó rất dễ hiểu: vì lúc ấy tôi tuy chưa phân biệt được sự khác biệt giữa những người mà tôi cho là đều có lòng yêu nước: Nguyễn Ái Quốc, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đình Diệm (riêng đối với ông Ngô Đình Diệm thì chính Hồ Chủ Tịch cũng xác nhận: “ông ta là người yêu nước, nhưng yêu theo lối của ông ta”), nhưng sau khi cụ Phan Bội Châu từ trần, người mà tôi nghĩ là nhà cách mạng số một chính là cụ Nguyễn Ái Quốc, và tôi vui vẻ hăng hái tham gia vào đoàn thể Thanh niên cứu quốc do sự giới thiệu của anh Đinh Nho Liêm, tại làng Gôi Mỹ và sau đó là xã Mỹ Hoà (gồm Bình Hoà hợp lại). Lúc ấy tôi đang ở Gôi Mỹ- là vì sau ngày đảo chính Nhật, thân phụ gởi tôi về quê là nơi người về hưu trí từ năm 1942.
Từ tháng 4-1945 cho đến tháng 8-1945, tôi có giúp việc tại Hội đồng Hương chính làng Thịnh Xá, chủ yếu là giúp cứu trợ nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc, từ Huế trở ra. Chúng ta chẳng nhắc đến kỷ niệm đau buồn ấy làm gì, nhưng đến nay hình ảnh những chiếc xe bò chất đầy xác người chết đói lượm nhặt từ các vỉa hè thành phố Vinh, đem đi chôn tập thể, vẫn còn làm cho tôi cảm thấy ớn lạnh. Trong những tháng ấy công việc chính của tôi là cùng với một số anh em thanh niên Làng Thịnh Xá, hàng ngày chăm sóc một số chừng 50 em bé được tập họp tại đình làng, ngày hai bữa quyên gạo nấu cháo rồi phát cháo cho các em ăn đỡ tạm qua ngày. Suy nghĩ lại, về các nhà địa chủ khác thì tôi không có ý kiến, nhưng riêng đối với gia đình tôi tuy rằng sự quyên góp gạo cứu đói kể là nhiều; nhưng riêng tôi xét hết sức khách quan, thì vẫn chưa thật là đúng với lòng “nhân” của đạo Khổng, vì tôi còn nhớ số lúa giữ lại cho gia đình, so với nhu cầu cần kíp cho tới vụ hè thu tiếp đó, vẫn còn là quá nhiều. Đáng lẽ ra là phải tung ra cứu đói nhiều hơn nữa mới khỏi lỗi đạo Trời.
Sau thời gian sinh hoạt trong hàng ngũ Thanh niên Cứu quốc tại làng Gôi Mỹ (sau Cách mạng, gia đình tôi thuộc về dân cư chính thức của Gôi Mỹ, không thuộc Thịnh Xá nữa), khi hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính xã Mỹ Hoà được thành lập, tôi giữ chức vụ thư ký ủy ban hành chính xã Mỹ Hoà. Anh Đinh Nho Liêm được cử lên tỉnh hoạt động trong đoàn thanh niên Cứu quốc tỉnh, nhưng giữ chức vụ gì thì tôi không được rõ cho lắm. Như vậy là sau Cách mạng mùa thu, tôi được Cách nạng dung nạp và điều dụng tương đối tốt, nên không có gì đáng tiếc xảy ra. Thân phụ tôi sau một thời gian bị giam giữ tại nhà lao Vinh do yêu cầu của ủy ban kháng chiến tỉnh Nghệ An (nơi người là An sát năm l930), được đưa ra toà và được trắng án, trở về tham gia Phụ lão Cứu quốc, rồi Liên Việt xã và được bầu vào Hội đồng nhân dân xã. Cứ vậy mà tiến lên ủy viên ban chấp hành Ủy ban Mặt trận Liên Việt khu 4 cho đến năm l953 mới chịu các đau đớn do những quá khích sai lầm của cải cách ruộng đất. Bản thân tôi cũng được Cách mạng mở đường để tiến thân. Làm việc tại ủy ban hành chính xã được mấy tháng thì cấp ủy Việt Minh tỉnh Hà Tĩnh do anh Đinh Nho Liêm giới thiệu điều động tôi và người em gái kế tôi (hiện là ủy viên trong ban chấp hành trung ương Hội phụ nữ như đã nói ở trên) lên tỉnh xung vào đội Tuyên Truyền Xung Phong. Như vậy Cách mạng đối với gia đình tôi và bản thân tôi rất là tốt, không có gì là kỳ thị cả. Do đó đứng về mặt việc đời, tôi không có gì để gọi là oán hận, chống đối Cách Mạng cả. Và xét về mặt đời mà nói thì tôi lại là con người đã phụ lòng Cách Mạng (phụ lòng chứ không là phản bội - vì tôi không bao giờ tự mình đi vào con đường chống lại hay phá hoại Cách Mạng cả, nói là phụ lòng vì tôi đã tự mình rút lui để đi vào một con đường khác. “Khác” chứ không phải là đối nghịch hay phản động. Con đường ấy chính là con đường Tôn giáo.
Tôi đã đi sang con đường ấy như thế nào? Tôi dùng chữ “như thế nào (Comment) chứ không dùng chữ “tại sao” (pourquoi) vì nếu nói một cách tuyệt đối thì câu trả lời cho câu hỏi “tại sao” là do “ơn Thiên Chúa”, vì nó là nguyên nhân đệ nhất (cause première), nguyên nhân căn bản (cause fondamentale). Những điều tôi ghi lại sau đây chỉ là mô tả (décrire) những sự kiện bên ngoài (ngoài đây là hiểu theo nghĩa hiện tượng: hiện tượng khả giác như các sự cố và cả những sự kiện khả thức thuộc thế giới tâm linh) mà Thiên Chúa dùng như những nguyên nhân đệ nhị (causes secondes) theo qui luật tự nhiên (mà qui luật này do chính Ngài sáng tạo và thiết lập) để kéo tôi ra khỏi những đồn lũy khá kiên cố đã cầm buộc tôi, để tôi có thể đi đến với Ngài, khác nào như xưa Ngài đã phải dùng trăm phương nghìn kế để kéo dân Ngài ra khỏi Ai Cập và đưa vào đất hứa (cũng xin nói ngay là sau khi ra khỏi Ai Cập: dân Chúa vẫn còn phải lang thang 40 năm trong sa mạc; sau này sẽ kể lại cuộc đời lang thang của tôi gần 20 năm trong sa mạc trần gian này, sau khi đã gọi là thuộc về Ngài. Có lẽ mãi sau này mới gọi là đứng trên bờ sông Gio-đan mà thôi). Sở dĩ phải phân biệt “tại sao” và “như thế nào”là để giải quyết vấn nạn mà người ta vẫn nêu ra cho các người trở lại theo đạo. Như việc trở lại của Pascal chẳng hạn. Có một số biến cố đầu tiên, đó là vụ tai nạn giao thông làm cho ông suýt chết. Dĩ nhiên chắc hẳn Pascal phải trải qua một cơn sợ khủng khiếp. Do đó có nhiều người cho rằng Pascal trở lại chỉ vì bị kích động quá mạnh. Đúng trăm phần trăm! Rồi Pascal, vốn sức khoẻ yếu kém, bệnh tật liên miên, nên có người cho rằng ông trở lại chỉ vì không đủ cường lực thể lý chống chọi, phải tìm nơi ẩn náu, cũng đúng phần nào, vì Pascal cũng có nhấn mạnh đến những nỗi “khốn khổ” của con người (misères humaines). Cuối cùng có người còn nói Pascal thuộc dòng dõi phong kiến, hoang mang trước sự trỗi dậy của giai cấp công thương đang được nền quân chủ chuyên chế nâng đỡ nên sinh ra bi quan. Cũng có phần đúng! Vì thế, nên đặt tiền đề là: Không có Thiên Chúa, không có thế giới siêu nhiên, thì dĩ nhiên sẽ thấy, và sẽ chỉ thấy có những hiện tượng quả có thật ấy mà thôi và ắt sẽ phải kết luận rằng Pascal trở lại chỉ vì những hiện tượng ấy. Lô-gích trăm phần trăm. Chứng minh theo luận lý hình thức thì đúng thật một trăm phần trăm.
Thế nhưng, chỗ hở của lập luận ấy là phạm phải cái sai lầm “tiền đề tiền kết” kết luận đã có từ trước khi chứng minh rồi. Vì ngay từ tiền đề đã gạt hẳn Thiên Chúa và siêu nhiên! Cũng như kẻ đổ hết nước trong bình ra trước rồi mới biện luận để chứng minh rằng trong bình không có nước vậy! Việc Thiên Chúa đưa dân Ngài qua Biển đỏ cũng vậy, Ngài có sai tổ phụ Abraham hay các thiên thần hiện ra múc cạn nước đâu. Ngài chỉ can thiệp một cách gián tiếp qua trung gian những quy luật tự nhiên, chỉ có con mắt đức tin mới chọc thủng lớp nguyên nhân đệ nhị ấy để thấy được nguyên nhân đệ nhất, nguyên nhân nền tảng lồng xuyên qua chuỗi hạt nguyên nhân đệ nhị ấy. Do đó mà tôi không bao giờ chứng minh, tôi chỉ 1àm chứng về một NIỀM TIN, một NỖI YÊU. Mà nỗi niềm tâm sự thì hỏi ai bây giờ? Hỏi ai? Nhưng ai lại chẳng có nỗi niềm phải không ai? Chữ ai nhắc đến câu nói của Phaolô: “Tôi biết tôi tin vào Ai" (“qui”chứ không phải “quoi”, “ai” chứ không phải “cái gì”), cho nên đây là một thế giới của những cái “ai”: một Ai nói với một Ai về một Ai chứ không phải là việc tìm cách kiểm chứng về một cái gì, điều mà máy móc làm chính xác hơn con người! Còn Luận lý hình thức (logique formelle) chỉ là một guồng máy thực ra cũng vô tri vô giác; A = A thì thực ra có biết thêm gì đâu! Lô-gích chỉ là cái máy vận dụng cơ giới chơi không (formelle) chứ có nắm được hiện thực gì đâu (nó chỉ là cái vỏ nên mới gọi là formelle, như cối xay không có gì bỏ vào đó cả, không vẫn hoàn không). Giải thích sự trở lại của Pascal thành một đồ vật: ghi nhận trung thực kiểu chụp hình, rất rõ, rất chi ly, rồi đem vào guồng máy suy diễn luận lý hình thức, thì có khác nào đưa mía vào ép, đương nhiên nước ngọt chảy ra hết và chỉ còn xác mía. Quan âm Thị Kính bị kết án âm mưu giết chồng cũng vậy: ông chồng mở mắt ra chụp hình rất chính xác, “cô ta đang cầm dao kề cổ mình”, trong tiền đề đã gạt ra cái ý rằng đó có thể là một cử chỉ yêu thương: rồi đem suy diễn rằng dao kề cổ thì ắt là cắt cổ. Kết luận: âm mưu giết chồng thật đúng trăm phần trăm theo lô-gích hình thức! Trạng sư nào cãi nổi? Chỉ niềm “tin yêu” mới thấy được đó là một động thái yêu thương.
Quan sát kiểu chụp hình bằng máy ảnh, suy diễn kiểu thuần tuý luận lý hình thức đã gây ra bao vụ “oan Thị Kính”. Nguyễn Trãi chết cũng do vậy! Đợi đến Lê Thánh Tôn phục hồi thì muộn quá rồi! Thực ra Nguyễn Trãi bị kết án trước rồi, chuyện vua chết bên cạnh Thị Lộ chỉ là cái cớ, cái cơ hội, cái dịp để đưa ông ra xử trảm thôi. Trong lòng ông chồng Thị Kính vẫn nghi rằng vợ mình có thể giết mình, việc kê dao vào cổ chỉ là cái cớ để cho sự nghi ngờ ấy biểu lộ thôi! Thiên Chúa cũng vậy, người ta đã giết Ngài trong lòng họ rồi, thì tìm đâu ra Ngài nữa? Chứng minh chỉ là hậu biện cho một tiền đề. Tin yêu là thuộc lãnh vực tự do mà tự do thì biện luận, kiểm chứng chỉ là hậu biện hết. Đã gọi là tự do thì thoát khỏi mọi khuôn khổ, vì nó là tự khởi đầu.
Do đó, kể chuyện tâm sự của mình với ai là để “ai muốn nghe thì nghe” vậy thôi: rồi ai lại vẫn là “ai” tự do tuyệt đối, có tin ai, có yêu ai là chuyện riêng của mỗi cái “ai” muôn đời kín nhiệm.
Vả chăng suy cho cùng, một khi trí óc con người đã khép kín lại thì có A – A (luận lý hình thức) mới là chắc một trăm phần trăm, còn nếu mở ra, đi vào hiện thực, thì như một số nhà luận lý học đã nói: trong bất cứ một phán quyết nào về hiện thực (Jugement d’existence) cũng bao hàm, một chiều niềm tin. Bởi vì, ngay cả thế giới hữu hình này, xét về mặt “lý luận thuần túy” mà nói, thì lấy cái gì để bảo đảm trăm phần trăm rằng tất cả không là hư ảo như trong giấc mơ. Trang Tử có lý (thuần lý luận) khi phân vân không biết mình là Trang Tử mơ hóa bướm, hay mình là bướm mơ hóa thành Trang Tử. Và đó là luận cứ bất khả phi bác (về mặt duy lý luận) của một thuyết duy tâm (idéalisme, nên dịch là duy tưởng thì có lẽ sát nghĩa hơn), dù là sai hẳn về mặt hiện thực. Vả lại, triết gia Descartes không phải là không có lý phần nào khi nói rằng: cuối cùng sự phán quyết khẳng định về sự hiện hữu của ngoại giới phải dựa vào niềm tin ở sự hiện hữu của Thượng Đế Sáng tạo.
Tôi đã đi vào con đường tôn giáo như thế nào? Mãi đến nay vẫn cứ nhiều thân bằng hỏi tôi như vậy! Tôi xin cố gắng bình tâm trả lời trong mức độ có thể, vì đó là thuộc lãnh vực kín nhiệm cả. Trước hết, có lẽ cần khẳng định rằng tiềm tàng tôi đã có niềm tin vào một cái gì (đúng hơn là phải nói một dạng nào đó ít nhiều tính cách huyền nhiệm, siêu việt, tuyệt đối, vĩnh cửu) dẫu chỉ là lờ mờ mà thôi, là Đấng mà bình dân gọi bằng “Trời” hay “Bề trên” hoặc “Ơn trên”. Điều ấy gọi là cảm thức tôn giáo tự nhiên. Từ cái cảm thức tôn giáo tự nhiên ấy, con người lấy lý trí mình soi rọi để quan niệm hóa. Thường có hai xu hướng: – một xu hướng là đi đến kết quả khẳng định sự hiện hữu của một ĐẤNG TỐI CAO, nguồn gốc của mọi sự, ví dụ như trong Khổng giáo thì: Vạn vật ban hồ thiên. – Một xu hướng khác là đi đến kết luận phủ nhận sự hiện hữu của một Đấng như thế, mà cho rằng đó chỉ là kết quả những hiện tượng tâm lý xã hội, chính trị, kinh tế, tạo thành một ý niệm hoàn toàn chủ quan, không có hiện thực, mà ánh sáng của lý trí, nhất là của cái gọi là khoa học sẽ đánh tan như ánh sáng phá tan mây mù.
Tôi thuộc về xu hướng tin có Trời (một ông Trời chưa được quan niệm hóa rõ ràng), từ đó được củng cố thêm qua tư tưởng của Khổng giáo, nhất là qua trung gian của hệ thống luân lý: Đạo Trời, Lẽ Trời, Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân, quan niệm ấy gán cho Đấng Tối Cao ít nhiều yếu tố của một ngã vị cụ thể, nhưng đôi khi được coi như một Nguyên lý phần nào vô ngã (nói chung khá hàm hồ: nghiêng về phía hữu thể hữu ngã hoặc vô ngã, có lẽ tùy tâm trạng và hoàn cảnh mà yếu tố cảm tính hay yếu tố lý tính chiếm phần lớn). Một Tín Niệm nữa là: con người là “Linh ư vạn vật”; Từ ngữ “Linh” ở đây cũng có cái gì hàm hồ như chữ “Trời”, không hẳn rõ ràng là con người có linh hồn bất tử; nhưng là một cấp hữu thể cao hơn súc vật, có trí khôn, có lương tâm, biết phân biệt các giá trị sai đúng, xấu đẹp, thiện ác và cũng tiềm tàng một cái gì đó sẽ còn lại sau khi chết: “sinh ký tử qui”, “thác là thể phách còn là tinh anh”, “hương khói phụng thờ”. Tất cả những cái ấy là hạt nhân thừa kế từ ông cha lâu đời, từ những vi tử bản thân, tuy không thành một hệ thống minh bạch chặt chẽ nhưng đã chi phối suy nghĩ; cảm tính và hành vi của tôi. Lớp trí thức Tây Phương tư sản chỉ là lớp học vấn mỏng và cạn thuộc về lý trí. Cái khí quyển tương quan liên ngã vị của Kitô Giáo nói trên thì chỉ mới là một cái gì bàng bạc, cũng ví như một thứ hương ướp dần, một thứ hơi nước ngấm dần, chứ chưa kết tụ. Còn những gì thuộc về Lão giáo và Phật giáo thì cũng chỉ như áng mây, làn gió lãng đãng phiêu diêu tô điểm cho cảnh sắc nội tâm mà thôi. Chính cái hạt nhân cùng với lớp vỏ dầy, mỏng, nông, sâu ấy tạo nên một nhân sinh quan, mà tôi đã sống trong hiệu thực của gia đình và xã hội trước năm 1945, đem lại một sự ổn định quân bình nào đó cho chàng trai 20 tuổi, còn nuôi nhiều ước vọng và hoài bão tươi đẹp, nói chung là đáng phấn khởi. Cách mạng 45 như là luồng gió mạnh, làn sóng cuốn đi tất cả đối với một số tâm hồn ở vào tình trạng như tôi, thì cách mạng sau khi đã quét sạch ngôi nhà cũ, đã đưa họ vào một ngôi nhà mới rất nhiều giá trị, và họ đã hết mình đi theo như một con đường sống (một bài xã luận của anh Viện tôi nhan đề “từ Khổng giáo đến chủ nghĩa Mác-xít” nói lên khá rõ ràng việc này), mà tôi nghĩ như vậy cũng là phải, là dễ hiểu. Chủ nghĩa Mác-xít với tổ chức Đảng Cộng Sản, với lý tưởng độc lập và công bằng xã hội, quả đã đem lẽ sống cao đẹp cho bao thế hệ thanh niên đáng kính mến, một điều cũng đáng mừng: bao nhiêu tâm hồn đã tìm được ở đó một ý nghĩa cao đẹp cho cuộc đời và cống hiến đời mình cho sự nghiệp lớn lao. Còn tôi thì khác hẳn. Tôi đã được mở đường tiến thủ với đường lối chủ trương của Mặt trận Việt Minh dành cho những người thuộc thành phần xã hội như tôi. Bởi đó tôi không có gì phải chống đối, phản lại như các đảng viên thuộc các đảng chính trị đối lập thời đó, trái lại tôi thấy có nhiều điểm tương đồng với chủ trương của Cách Mạng, nhất là về mặt độc lập dân tộc và tôi cũng được sự thôug cảm của nhiều cán bộ mà tôi rất kính mến (và tôi vẫn giữ nguyên lòng kính mến cho đến trọn đời). Tuy nhiên, tôi vẫn thấy hình như lạc lõng bơ vơ trong những ngày giờ hoạt động trong hàng ngũ đội Tuyên truyền Xung phong. Sự sụp đổ của một chế độ cho tôi thấy tính cách thời biến của cuộc đời: thì ra ở đời không có cái gì là trường tồn, vĩnh tại. Quá khứ đã vậy, thì hiện tại tương lai cũng vậy thôi! Tôi không có gì tiếc nuối cái quá khứ ấy, vì vậy cũng không bao giờ có ý nghĩ tham gia những phong trào phản động hòng khôi phục quá khứ. Hơn nữa sau khi cụ Phan qua đời, người Cách Mạng số một đối với tôi vẫn là cụ Nguyễn Ái Quốc: do đó tôi cũng không tin vào một vị lãnh tụ nào khác, hòng tìm một con đường mới hay hơn đường lối do mặt trận Việt Minh đề ra. Và dần dần trong tâm tư càng đậm nét cái quan niệm này: ở trần gian, mọi sự đều chóng qua, đổi dời và tương đối; thế mà lòng tôi vẫn hướng về một cái gì vĩnh cửu, tuyệt đối, trường tồn. Trong khi đó thì dù thế nào đi chăng nữa, cuối cùng vẫn có người đau khổ, vẫn có người không tốt! Nói một cách khác: vấn đề tội lỗi và đau khổ của nhân sinh muôn thuở được đặt ra vượt mọi khuôn khổ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của bất cứ thời nào và nơi nào. Những vấn đề triết học mà tôi chỉ học một cách lý thuyết suông trong chương trình ban triết lý, những vấn đề nhân sinh mà tôi chỉ cảm xúc suông qua các tác phẩm văn chương, nay thực sự đặt ra cho tôi trong chính bản thân tôi. Đời là vô thường, là bể khổ, mọi sự đều là phù vân, đối với tôi lúc ấy không còn là đề tài triết lý văn chương nữa mà là hiện thực cụ thể. Sự vui mừng làm người dân độc lập, sự vui vẻ sinh hoạt với anh chị em trong đội Tuyên Truyền không đủ lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn tôi. Tôi không hề luyến tiếc quá khứ, ngoại trừ có chút ít tiếc là không được tiếp tục con đường học vấn (tuy nhiên anh chấp ủy Việt Minh Hà Tĩnh lúc bấy giờ có xác quyết với tôi rằng thế nào rồi cũng có những chủ trương cho những thanh niên như tôi được tiếp tục trau dồi kiến thức để đào tạo nhân tài. Tôi tin vào lời ấy, và quả thực, số đông anh em trừ những anh em chọn con đường binh nghiệp hoặc chính trị và những anh em này về sau cũng được trau dồi thêm về văn hóa) hầu hết những thanh niên có trình độ thành chung, tú tài, sau này đều được tiếp tục học hành trở nên những chuyên viên thuộc mọi ngành, đều có trình độ văn hóa cao.
Cho nên, xét cho cùng, không phải vì sự bất mãn cá nhân hay gia đình mà tôi rẽ sang hướng khác, mà thực sự tôi đã được ơn thấy rõ: hình như cứu cánh cuộc đời không phải ở nơi trần gian sẽ qua đi này, mà ở một nơi nào khác: Lại có hai sự kiện làm cho tâm trạng tôi càng thêm đậm nét: 1. Sức khoẻ của tôi bị giảm sút vì chứng đau dạ dày mà tôi mắc phải năm 44, tái phát khá nặng; 2. Sự tan vỡ của chính phủ liên hiệp do sự ra đi của cụ Nguyễn Hải Thần... Như trên kia đã nói ngoại trừ lòng ao ước độc lập của dân tộc ra, tôi chưa hề có một quan niệm chính trị nào đối với vấn đề xây dựng đất nước Việt Nam sau khi độc lập cả! Lòng tôn kính với cụ Nguyễn Ai Quốc là do lòng kính mến đối với cá nhân cụ chứ không phải là do đã hiểu và theo lý tưởng Cộng sản mà cụ đã đem lại. Tôi hoàn toàn không đặt vấn đề ấy, chỉ mong sao độc lập đã, mọi chuyện tính sau - cho nên tôi khao khát thấy tất cả những ai có lòng muốn đuổi Tây ra khỏi Việt Nam đều đoàn kết lại kháng chiến đã. Sự phân rẽ, mà lúc ấy tôi cho rằng do ý thức hệ gây ra làm tôi buồn và chán ngấy, tôi lo ngại sẽ đi đến chỗ huynh đệ tương tàn, chứ tôi không hề có ý kiến gì đối với vấn đề ý thức hệ. Tình trạng chia rẽ ấy làm tôi buồn, và vì tôi không nghiêng về phía nào cả, nên tôi chỉ muốn rút lui đứng ngoài, khác nào như đứa bé thấy người lớn trong nhà xích mích, không bênh ai không lên án ai chỉ lặng lẽ rút lui đi chỗ khác để tránh nỗi buồn phiền. Và từ đó vấn đề chính trị đối với tôi, không bao giờ muốn nghĩ đến nữa. Và càng có kinh nghiệm sống, tôi càng ớn ngấy lánh xa.
Thế là phần vì bệnh dạ dày tái phát, tôi xin trở về nhà chuyên chữa và an dưỡng. Sau vài tháng thuốc thang, bệnh thuyên giảm, vì chưa có bằng tú tài phần II, tôi xin phép gia đình vào Huế chuẩn bị kỳ thi khóa hai năm 1946 do chính phủ Cách mạng tổ chức tại Huế, vì niên học 45-46 các trường trung học ở Huế vẫn tiếp tục mở, các kỳ thi vẫn được tổ chức bình thường. Thực ra, thi tú tài 2 chỉ là một dịp cho tôi được thay đổi, di chuyển cho thanh thản tâm tư, chứ lúc ấy cũng chẳng còn ham hố theo đuổi sự nghiệp nữa. Đã học hết chương trình thì đi thi một cái cho xong. Ở Huế lúc ấy bạn cũ chẳng còn mấy ai, vì phần đông đã đỗ tú tài 2 năm 45 vào khóa thi được chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức sau ngày Nhật đảo chính. Cuối niên học 45-46, tôi vào Huế thì gặp hai người bạn thân: Anh Phan Văn Đanh người cùng quê vào Huế học, sau đảo chính Nhật vẫn tiếp tục ở lại cho đến cuối niên học ấy, và anh Nguyễn Ngọc Cẩn người Bình Thuận (Cẩn sau này là em rể tôi). Sự gặp lại anh Phan Văn Đanh là một việc có ý nghĩa lớn đối với tôi. Anh Đanh là một tín đồ Phật giáo rất mộ đạo, có đời sống rất đáng kính, đáng mến. Lúc bấy giờ anh được vị sư chủ trì chùa Linh Quang ở đầu dốc Bến Ngự, là thượng toạ Thích Trí Thủ, cho tá túc tại chùa để học thi. Tôi cũng được chấp nhận ở cùng trong chùa với anh Đanh. Như trên đây có nói, từ lâu tôi vẫn mến cảnh trí tịch mịch vắng lặng của các ngôi chùa ở Huế, ít nhiều có cảm tình với đạo Phật qua trung gian các tác phẩm văn chương. Thời gian ở trọ Chùa Linh Quang, trong tâm trạng bơ vơ buồn nản nói trên, tôi trao đổi về đạo Phật với anh Đanh, với một số học tăng ở các ngôi chùa lân cận, và đôi khi cũng nghe vị sư trụ trì, là sư Trí Thủ giảng kinh. Nhưng nhất là đôi khi tôi đã vào chiêm bái tượng Phật, lần lần tôi tìm được sự an ủi do những giáo lý căn bản của đạo Phật mà tôi đã tiếp thu dược. Cuộc đời tu hành, thoát tục của các vị lăng ni, làm tôi chỉ muốn có cuộc đời như vậy: gác hẳn mọi việc thế trần, nương mình nơi cửa Phật. Thực ra, nơi đạo Phật, tôi chỉ tiếp thu phần tiêu cực, đánh giá cuộc đời thế tục dưới cái nhìn bi quan yếm thế, và muốn sống đời tu hành lánh xa bụi hồng kiểu Thúy Kiều hay Lan trong Hồn Bướm Mơ Tiên, hoặc Lan trong Tắt Lửa Lòng, chứ không thâu nhận được mặt tích cực của giáo lý nhà Phật. Thực ra, nói đạo Phật, tôi muốn sống cảnh chùa xa lánh cõi đời, chỉ nương nhờ cửa Phật chứ không tin vào Phật pháp. Nói chung cách khác, tôi chỉ bị lôi cuốn bởi đời sống cửa thiền chứ không phải tin theo Phật đạo! Nếu tôi có ý đi tu thì chỉ là mượn nhà chùa làm nơi ẩn dật, chứ không phải là thực sự trở thành tín đồ của Phật giáo. Tôi chỉ muốn tìm cái hương vị của cảnh sống ở chùa để quên đi những nỗi ưu phiền, để mình chìm vào một sự u tịch, chứ không phải đã có tinh tấn tu chứng Phật pháp. Đi tu để tránh đời là chính, còn cửa Phật chỉ là dạng thức mà bất cứ người Việt Nam nào (ngoài Kitô giáo) hễ nghĩ tới đời tu hành tất là phải liên tưởng đến. Giáo lý nhà Phật đối với tôi chỉ là cái áo tri thức khoác vào một cuộc đời “Tị thế” mà thôi. Do đó, tôi thực ra đã phóng chiếu cái tâm trạng bi quan yếm thế của mình, khoác cho cái vỏ là phần tiêu cực Phật giáo, chứ không sở đắc phần giáo lý xây dựng tích cực của Phật giáo, (mà phần này mới là cốt lõi của Phật giáo). Phân tích kỹ, tôi thấy nơi tôi chỉ có những cảm thức nhuốm một màu nhàn nhạt của Phật giáo, qua một loại văn chương ít nhiều pha trộn lãng mạn (Sơ kính tân trang, Kiều, Hồn bướm mơ tiên, Tắt lửa lòng) và một ước mong sống xa lánh việc đời theo cung cách của các nhà chùa, chứ không tiếp thu cái cốt lõi của Phật giáo. Thực ra điều tôi tìm kiếm lúc ấy là đời tu hành chứ không nhắm theo Đức Phật tìm đạo giải thoát trong giáo lý của Phật giáo.
Từ ngày vào Huế trú ngụ tại Linh Quang mùa hè năm 1946, cho đến quãng năm 1948, tôi là một tâm hồn phiền não được xoa dịu bởi lòng từ bi của anh Phan Văn Đanh và một số đạo hữu cũng như một vài vị sư trong khung cảnh tu hành an tịnh của một vài ngôi chùa, với hình ảnh tọa thiền trên tòa sen của Đức Phật và bóng dáng dịu hiền của Đức Quan Thế Âm chứ không lãnh hội gì mấy về giáo lý của đạo Phật cả. Nhưng lúc ấy tôi cứ tưởng mình là Phật tử rồi. Kỳ thi tú tài II, khoá II năm 1946 tại Huế, tôi trúng tuyển: còn nhớ đề thi triết là “Anh hãy phân biệt triết học với tôn giáo” kể ra cũng là một sự trùng hợp kỳ lạ với tâm trạng tôi lúc ấy. Vị giám khảo môn triết lý lại là Linh Mục Nguyễn Văn Hiền (lúc đó làm cha sở họ Thừa Lưu, địa phận Huế, sau này làm Giám Mục tiên khởi địa phận Đà lạt và có lúc là chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Đà lạt mà tôi là trưởng ban triết lý).
Một kỷ niệm mà tôi ghi nhớ trọn đời là trong thời ở trọ học chuẩn bị thi tại chùa Linh Quang có nhiều buổi chiều lúc hoàng hôn xuống; tôi đã xin chú tiểu nhường cho việc gióng 108 tiếng chuông thu không ngân nga trầm mặc, bên dốc bến Ngự, cách nơi an nghỉ của bậc cách mạng mà tôi tôn kính vô cùng là cụ Phan Bội Châu chỉ độ hơn trăm mét thôi.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |