Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
2. CÂU HỎI VỀ GIẢI THOÁT
Nhìn chung gia đình tôi là gia đình có hạnh phúc. Thiếu thời của tôi như được tắm trong mùa xuân ấm áp tươi vui; nhưng trong chiều sâu, có những bóng tối không phải là không in dấu trong tâm hồn tôi.
Thứ nhất là gia đình tôi đã có bóng của “sự chết” len vào... Đích mẫu tôi mất rồi, mẹ tôi mới về với thân phụ tôi; tôi không được mục kích cái chết của người, nhưng qua ngày giỗ của người, tôi như cảm thông nỗi buồn của anh chị tôi là những người mồ côi mẹ! Nhất là khi nghe bà cô của thân phụ tôi (bà cô này là quả phụ không con nên ở với gia đình tôi) kể lại sự đau khổ của người chị, con gái của đích mẫu tôi mất mẹ lúc 4 tuổi, tôi cảm thấy buồn lắm! Khi biết suy nghĩ chút ít, nghe những chuyện cổ tích dân gian về mẹ ghẻ con chồng, tự nhiên tôi có cảm tưởng gia đình mình như vậy là không hạnh phúc vẹn toàn; và các anh chị con mẹ trước, thì mình sẽ như con Cám trong truyện cổ tích! Thành thử vì thương các anh các chị cũng có, vì sợ quả báo cũng có, tôi tự nhiên muốn đền bù trước bằng cách là dành cho các anh chị một tình thương nhiều hơn. Cũng may mẹ tôi lại được tiếng là người dì ghẻ tốt; nhưng lẽ tất nhiên tình cảm mẹ con làm sao mà có được! (sau này với thời gian nhất là năm 1945, những biến cố trong gia đình làm cho mẹ tôi và các anh chị thêm phần tình cảm gắn bó, cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu những đau khổ, nên gần như là mẹ con ruột thịt thật). Phải nói mẹ tôi là người có ý thức bổn phận, đã chu toàn đúng vai trò “kế mẫu”! Cho nên, giữa tôi và các anh chị con mẹ trước, chẳng những không có sự tranh chấp, mà lại rất thương yêu nhau. Cũng vì vậy mà tôi như có phần chung chia cái đau khổ “mồ côi” mẹ của các anh chị tôi. Mỗi lần đến ngày kỵ đích mẫu, nhìn lên di ảnh của người, tuy tôi không phải là con, mà như cũng cùng các anh chị tôi, thông cảm một nỗi niềm bùi ngùi xót xa làm sao ấy!
Thế rồi, bà chị thứ hai của tôi đính hôn với một người sinh viên du học tại Pháp, thuộc dạng ưu tú nhất trong giới tân học thời ấy, bỗng nhiên nhận được thư xin từ hôn vì lý do du học lâu dài, không dám bắt chị tôi chờ đợi...
Tôi còn nhớ hình ảnh chị tôi đau khổ phát khùng lên khi nhận được tin ấy! Rồi tiếp đến bà chị cả của tôi: Đã lập gia đình rồi lại ly dị, tôi vẫn còn nhớ bầu không khí nặng nề ngột ngạt trong lúc chị ấy trở về lại sống trong gia đình. Rồi tới người anh thứ hai của tôi, không may sau một trận ốm nặng, tính tình trở nên ương dở, chẳng chịu học hành, sinh ra chơi bời lêu lổng. Thân phụ tôi phải dùng đến những biện pháp giáo dục mạnh để giáo dục, nhưng kết quả không là bao! Thật ra có nông nỗi ấy là vì anh bị ốm, thần kinh bị lệch lạc, học hành dở dang, nên sinh ra bất đắc chí, chứ vốn không phải là người xấu! (sau này lập gia đình, và sự đột biến của cách mạng 45 như một kích thích mạnh mẽ giúp anh tìm lại được sự quân bình tâm lý, anh trở lại bình thường tham gia công việc xã hội rất tích cực. Anh mất sớm và những năm cuối đời anh, anh được mọi người thương mến).
Rồi như trên kia đã nói, chính cái thân phận làm quan thời Bảo Đại cũng không phải là cái gì vinh dự cho lắm. Trên nét mặt thân phụ tôi phảng phất một cái gì như u uất, giọng ngâm thơ trầm buồn của thành nội Huế, không phải không có ảnh hưởng trên tâm hồn tôi, và cái thân phận ấy tôi bắt đầu thấy rõ, sau cái ngày tôi được cụ Phan Bội Châu cho một bài học khai tâm về vấn đề mất nước: năm tôi học lớp 3 tiểu học, thầy mẹ gửi tôi trọ tại nhà anh T.t.T là một người anh họ con cô ruột tôi, làm Hiệu trưởng trường Tiểu học huyện Hương Trà (Bao Vinh), cách Huế độ 4 cây số. Anh T.t.T ở một mái nhà tranh cất ở một góc vườn của cụ Võ Bá Hạp, là người bạn đồng chí cách mạng của cụ Phan. Thỉnh thoảng cụ Phan đến nhà cụ Võ đàm đạo. Hồi ấy thì tôi mới 12 tuổi. Một hôm đang cùng các bạn chơi dưới bóng mát cây đào tiên (miền Nam gọi là cây mận), thì cụ Phan và cụ Võ đi dạo ngang qua. Bỗng cụ Võ gọi tôi tới. Không rõ cụ đã nói gì với cụ Phan– một cụ già có oai phong mà lại vô cùng đôn hậu, với chùm râu bạc phất phơ, với bộ áo nâu có cánh tay rộng– mà cụ đã cúi xuống xoa đầu tôi mà hỏi mấy câu tôi không còn nhớ rõ, trừ có một câu như đã in vào tâm hồn tôi không bao giờ phai nhạt; cụ ôn tồn hỏi:
– Con có biết nước ta tên là gì không?
Chẳng hiểu tại sao cụ Phan lại hỏi tôi câu hỏi ấy?! Phải chăng cụ Võ giới thiệu với cụ Phan rằng tôi là con trai của thân phụ tôi, một vị Hoàng giáp đất Nghệ Tĩnh hiện đang làm quan phủ doãn (tỉnh trưởng) Thừa Thiên – nên cụ hỏi thử xem tôi có đến nỗi mất gốc chăng! May sao tôi chưa học câu: “Nos ancêtres sont des Gaulois” mà trái lại rất ham và rất thuộc môn sử Việt Nam, nên tôi trả lời đúng: “Dạ, bẩm là Việt Nam”. Thế rồi cụ Phan và cụ Võ cho phép tôi trở lại chơi với các bạn như trước. Lẽ tất nhiên, được cụ Võ gọi riêng mình tôi đến chào cụ Phan, được cụ Phan xoa đầu, hỏi chuyện, một đứa bé như tôi lúc ấy, tôi đã biết ham học Sử Ký Việt Nam, biết nước ta bị Pháp đô hộ, cũng đã nghe chuyện kể các cuộc khởi nghĩa của cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Xô Viết Nghệ Tĩnh; và tôi thuộc những bài lịch sử về Trưng Vương, Triệu Ẩu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung; đồng thời cũng đọc các truyện thời sự, các truyện Tàu như Đông Châu, Tam Quốc, Nhạc Phi, nên tôi cũng có một niềm tủi nhục nào đó về số phận của một người dân mất nước và cũng nghĩ tới vấn đề làm sao mà được cái hạnh phúc vinh dự làm người dân một nước độc lập. Nhưng chỉ sau khi được cụ Phan dạy cho bài học đầu tiên, dạy chỉ có một câu, và lại là một câu hỏi, thì lòng yêu nước mới thật sự được khơi dậy trong tôi, và vấn đề “độc lập dân tộc” mới được đặt ra cho tôi.
Vì hãy còn thơ ấu, tôi chưa bao giờ tự đặt câu hỏi rồi sẽ làm gì cho độc lập nước nhà, nhưng tôi rất mến phục các nhà Cách mạng, và hình như đã có nhiều ước muốn được xứng đáng là người của đất Nghệ Tĩnh vốn có truyền thống cách mạng. Tuy nhiên đó chỉ là một cảm tình vậy thôi chứ chưa bao giờ thúc đẩy tôi đi tìm một con đường hoạt động. Nói đúng hơn, câu hỏi của cụ Phan đã gieo vào lòng tôi ý thức về nước nhà và tình tự dân tộc, hơn là một lòng yêu nước cao độ tìm đường cứu nước. Vả lại, lúc ấy cho đến năm 45, cố gắng duy nhất của tôi là ham học, học sao cho thật giỏi kẻo hổ danh là con nhà khoa bảng, nhờ vậy kết quả học của tôi thường là cao: môn nào cũng khá, nhưng nhất là môn luận (nay gọi là văn). Tôi bắt đầu có lòng yêu văn chương, đọc tiểu thuyết, thơ cũ cũng như học thuộc lòng nhiều đoạn của Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ, nhiều bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, Thế Lữ, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Chế Lan Viên. Tôi cũng rất thích và thuộc nhiều câu ca dao tục ngữ. Nhưng ảnh hưởng sâu đậm nhất trong tâm hồn tôi là Kiều. Và tâm hồn tôi thường bị xúc động mãnh liệt bởi những nhân vật bi thương: Khuất Nguyên, Kinh Kha, Nhạc Phi (nhất là Nhạc Phi), Nguyễn Trãi và tất cả những nhà Cách mạng Việt Nam đã thất bại: từ cụ Phan Đình Phùng cho đến Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Minh Khai! Tôi cũng rung cảm bởi những tiểu thuyết kể những mối tình dang dở. Cho nên, mặc dầu hoàn cảnh gia đình tương đối khá hạnh phúc và chưa đặt hẳn vấn đề “mất nước” một cách sâu xa, tâm hồn tôi đã sớm cảm xúc với những tình tự bi ai, sớm chịu ảnh hưởng những tư tưởng bi quan về nhân sinh. Tôi cứ nghiền ngẫm luôn luôn đoạn “Gẫm nhân sự cớ chi ra thế...!” trong Cung Oán, và mấy chữ “bạc mệnh”, “đoạn trường” như in sâu vào tận đáy tâm hồn! Đứa trẻ mới mười mấy tuổi đầu đã khóc vùi trước cái chết của Nhạc Phi, trước mối tình dang dở của Lan và Điệp trong “Tắt Lửa Lòng” và đã coi nhân vật Thúy Kiều như nhân vật tiêu biểu cho kiếp người nói chung. Thành ra, tuy gia đình tôi theo Phật giáo, tư tưởng- hay đúng hơn- cảm thức “đời là bể khổ”, là mộng ảo, đã sớm nhen nhúm trong lòng tôi. Vì thế, tuy có ý thức dân tộc, có biết cái nhục mất nước, có ước muốn được làm dân một nước độc lập, có biết cảm xúc trước cái cảnh nghèo khó của lớp người bị xã hội đè bẹp, tôi không có sự phản kháng Cách mạng, mà thiên về một sự giải thoát toàn diện triệt căn và từ thuở bé, hình như lý tưởng tu hành, một cuộc đời tịnh tu đã có rất nhiều hấp dẫn đối với tôi. Tôi chỉ có một đam mê là “ham học cho giỏi”, ham đọc tiểu thuyết, ham viết văn hay; còn ngoài ra, hình như không có các thị dục khác. Nhưng sâu thẳm nhất thì Kiều đã nêu lên châm ngôn cho tôi là: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Tu là cội phúc, tình là dây oan”; và hình ảnh các vị sư đã thoát khỏi lụy trần ai vẫn hấp dẫn tôi hơn là hình ảnh các vị anh hùng cái thế, các nhà bác học văn tài.
Tôi còn nhớ một hình ảnh mà gần một nửa thế kỷ trôi qua vẫn không mờ nhạt, mà có lẽ càng ngày càng đậm nét trong ký ức qua bao thăng trầm của cuộc đời tôi : Năm ấy tôi 11 tuổi, thân phụ tôi làm tuần vũ (tỉnh trưởng) tỉnh Khánh Hoà, gia dình tôi lúc ấy có thể nói là vào lúc phát dạt nhất. Tuy gia đình tôi không theo Phật giáo, nhưng lúc ấy mẹ tôi có quen một số bà bạn có thờ Phật, nên đôi khi cũng có lên chùa. Hôm ấy là rằm tháng bảy, mẹ tôi dẫn tôi lên chùa vào chập tối : tôi không nhớ rõ là chùa nào ở Thành (?) (nơi các quan Nam triều ở). Vì lối vào cổng chính quá đông, nên mẹ con tôi dược dẫn qua một nghĩa địa để vào chùa bằng một lối tắt vào cửa bên hông chùa. Cái âm u ghê rợn của một nghĩa địa vào buổi chập tối đang làm tôi sự hãi, thì chỉ bước qua cánh cửa hẹp đi vào ngôi chánh điện, trong cảnh huy hoàng xán lạn trang nghiêm trầm tĩnh. Một vị sư trẻ đang chăm chú gõ mõ đọc kinh trước bàn thờ Phật đầy ánh sáng hương hoa - thật nào có khác gì thoát địa ngục vào nơi cực lạc! hình như từ đó, mẫu người lý tưởng đối với tôi là người tu hành, đạo sĩ, chứ không phải là quân tử, anh hùng hay vĩ nhân theo cái nhìn thường gọi là thế tục.
Tuy vẫn ăn học chơi đùa, mà nhất là ham học, nhưng hình ảnh nhà sư điềm đạm, an nhiên tụng kinh niệm Phật như đã in sâu vào hồn tôi. Và từ cái hình ảnh ít nhiều u hoài của vị đại nho thời Nho mạt phải bó mình làm quan cho một Triều đại suy vong dưới ách đô hộ Pháp - là thân phụ tôi; thân phận mồ côi mẹ của các anh chị tôi, nỗi buồn của hai người chị tôi: một phải ly dị với chồng, một lại bị người hôn phu từ hôn; rồi nỗi nhục mất nước, sự thất bại của các phong trào Cách mạng, cuộc đời khốn khổ của lớp nhân dân bị thua kém về mặt xã hội, những nhân vật có kiếp sống bi ai - có thực trong lịch sử cũng như hư cấu trong tiểu thuyết: Tất cả như đúc kết lại trong bốn chữ “đời là bể khổ” mà Đoạn Trường Tân Thanh của Thúy Kiều qua thiên tài Nguyễn Du đã thâm nhập tâm hồn tôi từ tấm bé! Mất mẹ, mất nước, thất tình, nghèo khổ, oan khiên, tủi nhục: tất cả chỉ là hình thức của “cái khổ” là bản chất của nhân sinh đã gieo mầm rất sớm vào tâm hồn tôi, qua một vài hình ảnh của những người, những nhân vật có thật cũng như hư cấu qua văn chương.
Như trên đã nói các tầng địa chất tâm lý của tôi: tầng thứ nhất là Nho giáo thời suy tàn, tầng thứ hai là một thứ tâm thức cảm tính nhuốm màu Phật giáo có tính cách văn chương, pha lẫn ít nhiều lãng mạn của văn chương Việt Nam sau năm l930 và có lẽ phảng phất ít nhiều Lão giáo theo kiểu Đào Tiềm, kiểu Từ Thức lạc động Phi Lai.
Tầng thứ ba là: sau cái mầm được cụ Phan Bội Châu gieo xuống qua câu hỏi về tên Nước, tình tự dân tộc được tiếp nối bởi ảnh hưởng của một người bạn lúc ấy - lúc tôi học lớp nhất, đó là anh Đinh Nho Liêm. Anh Liêm người làng Gôi Mỹ, nhà rất nghèo, học rất giỏi, giỏi hơn tôi nhiều. Tôi với anh Liêm rất thân nhau. Anh là người đã làm cho tình tự dân tộc càng thêm sâu đậm trong tâm hồn tôi. Đồng thời anh cũng là người gieo vào tâm hồn tôi ý thức về “công bằng xã hội”. Tuy nhiên, giữa tôi và anh Liêm có một điểm khác nhau, vì anh Liêm thiên hẳn về đường lối đấu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng Sản; còn tôi, thì có lẽ quá thấm nhuần về quan niệm từ bi, vô vi, ẩn dật, hướng về tôn giáo lại ngại ngùng trước bạo lực, trước đấu tranh (đó là một vấn đề thuộc tâm tính caractère). Vì thế tuy rất mến nhau, tôi đã không trở thành đồng chí với anh Liêm, mặc dầu có thể nói chúng tôi là hai bạn đồng tâm về vấn đề “dân tộc” cũng như vấn đề “Xã hội”. Anh Liêm là người đã giới thiệu thơ Tố Hữu cho tôi. Chủ nghĩa Cộng sản không phải không có nhiều hấp dẫn đối với tôi, là một người vốn mong ước một xã hội công bằng, và không lấy gì làm thích cho lắm cái địa vị con địa chủ (mỗi lần phải đi coi gặt tức là đi xem tá điền gặt lúa để thu tô, tôi rất khổ tâm), nhưng vì tâm tính sợ bạo động của tôi, tôi tuy không phải là có gì chống đối với lý tưởng cộng sản, nhưng về mặt cảm tính, tôi thấy mình không hợp với đường lối đâu tranh bạo lực. Cho nên có thể nói tôi không chống cũng không theo, mà có thái độ đứng ngoài với ít nhiều vừa mến vừa sợ, vừa kính phục vừa ngần ngại! Thuở ấy, tôi tách rời vấn đề độc lập dân tộc với vấn đề đấu tranh giai cấp. Tôi nghĩ rằng hãy nói chuyện độc lập đã, độc lập rồi hẵng hay! Và phần nào tôi nghĩ rằng đặt nặng vấn đề giai cấp ra sẽ gây chia rẽ, có thể không lợi cho việc đoàn kết đấu tranh giành độc lập. Tôi có cảm tưởng anh Liêm lúc đó cũng không thấy rõ ràng: muốn dành độc lập thì chỉ có con đường Cộng sản, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bài người trình bày lý do vì sao người chọn gia nhập vào đệ tam quốc tế. thật ra, cả đến năm 45 và 54 tôi cũng không thấy điều đó, mãi cho đến năm 75 tôi mới được đọc bài nói trên của Hồ Chủ Tịch. Nhiều lúc tôi bâng khuâng tự hỏi: Nếu năm 38 mà anh Liêm chỉ cho tôi thấy rõ điều Hồ Chủ Tịch đã trực giác nhận thức lúc người gia nhập đệ tam quốc tế thì e có lẽ tôi đã có suy nghĩ khác, và cuộc đời của tôi đã khác rồi cũng nên? Nhưng đó là chỉ nói giả sử vậy thôi, chứ thực ra, như đã nói trên: Từ tấm bé, hình ảnh nhà sư, khung cảnh đời sống các chùa đã có sức hấp dẫn trên tâm hồn tôi, tuy chưa có dịp bộc lộ triển nở.
Dầu sao thì ba tầng lâm lý trên chỉ là các lớp phù sa đọng lại trong tâm thức, rồi nằm yên trong chiều sâu vô thức, chứ không có tác động gì . Về cuộc sống ý thức thì tôi vẫn là một em bé học giỏi, ngoan ngoãn: ở nhà thì hiếu đễ, ở trường, thì chăm chỉ hiền hòa, thế thôi. Sau năm 1938, đỗ tiểu học xong, anh Liêm vào trường Quốc học Vinh, tôi vào trường Thiên Hựu ở Huế, thỉnh thoảng thư từ trao đổi, dịp nghỉ học về quê đi lại rất thân tình, và cho đến năm 1943 anh Liêm có vào Huế học lớp cấp I tú tài trường Khải Định mấy tháng, chúng tôi vẫn thân nhau; nhưng anh Liêm không bao giờ đề cập với tôi về việc tham gia hoạt động chính trị cả! Cho nên từ năm 1938 đến năm 1945, tuy có nhiều thao thức về dân tộc, thỉnh thoảng cũng được khơi dậy như phong trào đón tiếp Godard, tin tức các vụ khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, Phố Châu, nhưng chỉ như những âm vang từ xa, chứ không có dịp trở thành những thôi thúc đi đến chỗ tham gia một phong trào cụ thể nào cả! Tự bản thân không tìm tòi mà cũng không có ai gợi ý kết nạp. Vả lại, lúc ấy tôi chịu ảnh hưởng của một số thầy học ở Huế như các ông Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu. Ý hướng cũng muốn theo cách sống của các vị ấy: Cố gắng học cho xong rồi sinh hoạt nghề tự do, nhất là dạy học tư. Riêng tôi thì tâm niệm rằng cố gắng cho đỗ tú tài, ra Hà Nội học đại học sẽ gặp được các bậc đàn anh ngoài ấy mà ở Huế chúng tôi có nghe tiếng - Như các anh Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước, Lê Khắc Thiền, Đặng Ngọc Tốt vv ... rồi sẽ hay. Ở Huế chỉ có ông Tạ Quang Bửu là bậc đàn anh mà chúng tôi có lòng ngưỡng mộ, nhưng chỉ qua sự hoạt động hướng đạo gián tiếp đề cập đến vấn đề chính trị, hình như ông Bửu lúc ấy vẫn chưa có đường lối rõ rệt hoặc còn nghi ngại, nên không thấy ông đặt vấn đề hoạt động một cách cụ thể. Đến lúc ông Bửu tham gia chính Phủ Trần Trọng Kim rồi lại tham gia cách mạng tháng tám, thì tôi không còn ở Huế nữa, nên chẳng rõ ra sao.
Nói chung từ năm 1938 đến năm 1945*, về căn bản, tôi chỉ là một học sinh trung học dốc lòng vào việc học có ít nhiều thao thức về dân tộc, ít nhiều băn khoăn về độc lập; nhưng tạm gác chờ lúc ra Hà Nội thành sinh viên, hoặc khi học xong phải ra đời mới thực sự đặt vấn đề, nhưng đảo chính Nhật đã đến đưa tôi vào một chặng đường khác của cuộc đời, tôi sẽ trình bày sau, nay xin trở lại năm 1938.
____________________________________________________________________________________________________________________________
Phụ chú: * Thực ra năm 1942, ở Huế có phong trào Ngô Đình Diệm và Cường Để, tôi có được một người bạn gợi ý tham gia, với khả năng gởi vượt biên sang Nhật du học; nhưng tuy có cảm tình với cá nhân hai ông Cường Để và Ngô Đình Diệm, tôi không mấy ưa hình ảnh tàn bạo và cả các hiến binh Nhật, nên đã khước từ (vả lại chủ yếu là ra Hà Nội học đại học, rồi hẵng hay).
Nhìn chung gia đình tôi là gia đình có hạnh phúc. Thiếu thời của tôi như được tắm trong mùa xuân ấm áp tươi vui; nhưng trong chiều sâu, có những bóng tối không phải là không in dấu trong tâm hồn tôi.
Thứ nhất là gia đình tôi đã có bóng của “sự chết” len vào... Đích mẫu tôi mất rồi, mẹ tôi mới về với thân phụ tôi; tôi không được mục kích cái chết của người, nhưng qua ngày giỗ của người, tôi như cảm thông nỗi buồn của anh chị tôi là những người mồ côi mẹ! Nhất là khi nghe bà cô của thân phụ tôi (bà cô này là quả phụ không con nên ở với gia đình tôi) kể lại sự đau khổ của người chị, con gái của đích mẫu tôi mất mẹ lúc 4 tuổi, tôi cảm thấy buồn lắm! Khi biết suy nghĩ chút ít, nghe những chuyện cổ tích dân gian về mẹ ghẻ con chồng, tự nhiên tôi có cảm tưởng gia đình mình như vậy là không hạnh phúc vẹn toàn; và các anh chị con mẹ trước, thì mình sẽ như con Cám trong truyện cổ tích! Thành thử vì thương các anh các chị cũng có, vì sợ quả báo cũng có, tôi tự nhiên muốn đền bù trước bằng cách là dành cho các anh chị một tình thương nhiều hơn. Cũng may mẹ tôi lại được tiếng là người dì ghẻ tốt; nhưng lẽ tất nhiên tình cảm mẹ con làm sao mà có được! (sau này với thời gian nhất là năm 1945, những biến cố trong gia đình làm cho mẹ tôi và các anh chị thêm phần tình cảm gắn bó, cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu những đau khổ, nên gần như là mẹ con ruột thịt thật). Phải nói mẹ tôi là người có ý thức bổn phận, đã chu toàn đúng vai trò “kế mẫu”! Cho nên, giữa tôi và các anh chị con mẹ trước, chẳng những không có sự tranh chấp, mà lại rất thương yêu nhau. Cũng vì vậy mà tôi như có phần chung chia cái đau khổ “mồ côi” mẹ của các anh chị tôi. Mỗi lần đến ngày kỵ đích mẫu, nhìn lên di ảnh của người, tuy tôi không phải là con, mà như cũng cùng các anh chị tôi, thông cảm một nỗi niềm bùi ngùi xót xa làm sao ấy!
Thế rồi, bà chị thứ hai của tôi đính hôn với một người sinh viên du học tại Pháp, thuộc dạng ưu tú nhất trong giới tân học thời ấy, bỗng nhiên nhận được thư xin từ hôn vì lý do du học lâu dài, không dám bắt chị tôi chờ đợi...
Tôi còn nhớ hình ảnh chị tôi đau khổ phát khùng lên khi nhận được tin ấy! Rồi tiếp đến bà chị cả của tôi: Đã lập gia đình rồi lại ly dị, tôi vẫn còn nhớ bầu không khí nặng nề ngột ngạt trong lúc chị ấy trở về lại sống trong gia đình. Rồi tới người anh thứ hai của tôi, không may sau một trận ốm nặng, tính tình trở nên ương dở, chẳng chịu học hành, sinh ra chơi bời lêu lổng. Thân phụ tôi phải dùng đến những biện pháp giáo dục mạnh để giáo dục, nhưng kết quả không là bao! Thật ra có nông nỗi ấy là vì anh bị ốm, thần kinh bị lệch lạc, học hành dở dang, nên sinh ra bất đắc chí, chứ vốn không phải là người xấu! (sau này lập gia đình, và sự đột biến của cách mạng 45 như một kích thích mạnh mẽ giúp anh tìm lại được sự quân bình tâm lý, anh trở lại bình thường tham gia công việc xã hội rất tích cực. Anh mất sớm và những năm cuối đời anh, anh được mọi người thương mến).
Rồi như trên kia đã nói, chính cái thân phận làm quan thời Bảo Đại cũng không phải là cái gì vinh dự cho lắm. Trên nét mặt thân phụ tôi phảng phất một cái gì như u uất, giọng ngâm thơ trầm buồn của thành nội Huế, không phải không có ảnh hưởng trên tâm hồn tôi, và cái thân phận ấy tôi bắt đầu thấy rõ, sau cái ngày tôi được cụ Phan Bội Châu cho một bài học khai tâm về vấn đề mất nước: năm tôi học lớp 3 tiểu học, thầy mẹ gửi tôi trọ tại nhà anh T.t.T là một người anh họ con cô ruột tôi, làm Hiệu trưởng trường Tiểu học huyện Hương Trà (Bao Vinh), cách Huế độ 4 cây số. Anh T.t.T ở một mái nhà tranh cất ở một góc vườn của cụ Võ Bá Hạp, là người bạn đồng chí cách mạng của cụ Phan. Thỉnh thoảng cụ Phan đến nhà cụ Võ đàm đạo. Hồi ấy thì tôi mới 12 tuổi. Một hôm đang cùng các bạn chơi dưới bóng mát cây đào tiên (miền Nam gọi là cây mận), thì cụ Phan và cụ Võ đi dạo ngang qua. Bỗng cụ Võ gọi tôi tới. Không rõ cụ đã nói gì với cụ Phan– một cụ già có oai phong mà lại vô cùng đôn hậu, với chùm râu bạc phất phơ, với bộ áo nâu có cánh tay rộng– mà cụ đã cúi xuống xoa đầu tôi mà hỏi mấy câu tôi không còn nhớ rõ, trừ có một câu như đã in vào tâm hồn tôi không bao giờ phai nhạt; cụ ôn tồn hỏi:
– Con có biết nước ta tên là gì không?
Chẳng hiểu tại sao cụ Phan lại hỏi tôi câu hỏi ấy?! Phải chăng cụ Võ giới thiệu với cụ Phan rằng tôi là con trai của thân phụ tôi, một vị Hoàng giáp đất Nghệ Tĩnh hiện đang làm quan phủ doãn (tỉnh trưởng) Thừa Thiên – nên cụ hỏi thử xem tôi có đến nỗi mất gốc chăng! May sao tôi chưa học câu: “Nos ancêtres sont des Gaulois” mà trái lại rất ham và rất thuộc môn sử Việt Nam, nên tôi trả lời đúng: “Dạ, bẩm là Việt Nam”. Thế rồi cụ Phan và cụ Võ cho phép tôi trở lại chơi với các bạn như trước. Lẽ tất nhiên, được cụ Võ gọi riêng mình tôi đến chào cụ Phan, được cụ Phan xoa đầu, hỏi chuyện, một đứa bé như tôi lúc ấy, tôi đã biết ham học Sử Ký Việt Nam, biết nước ta bị Pháp đô hộ, cũng đã nghe chuyện kể các cuộc khởi nghĩa của cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Xô Viết Nghệ Tĩnh; và tôi thuộc những bài lịch sử về Trưng Vương, Triệu Ẩu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung; đồng thời cũng đọc các truyện thời sự, các truyện Tàu như Đông Châu, Tam Quốc, Nhạc Phi, nên tôi cũng có một niềm tủi nhục nào đó về số phận của một người dân mất nước và cũng nghĩ tới vấn đề làm sao mà được cái hạnh phúc vinh dự làm người dân một nước độc lập. Nhưng chỉ sau khi được cụ Phan dạy cho bài học đầu tiên, dạy chỉ có một câu, và lại là một câu hỏi, thì lòng yêu nước mới thật sự được khơi dậy trong tôi, và vấn đề “độc lập dân tộc” mới được đặt ra cho tôi.
Vì hãy còn thơ ấu, tôi chưa bao giờ tự đặt câu hỏi rồi sẽ làm gì cho độc lập nước nhà, nhưng tôi rất mến phục các nhà Cách mạng, và hình như đã có nhiều ước muốn được xứng đáng là người của đất Nghệ Tĩnh vốn có truyền thống cách mạng. Tuy nhiên đó chỉ là một cảm tình vậy thôi chứ chưa bao giờ thúc đẩy tôi đi tìm một con đường hoạt động. Nói đúng hơn, câu hỏi của cụ Phan đã gieo vào lòng tôi ý thức về nước nhà và tình tự dân tộc, hơn là một lòng yêu nước cao độ tìm đường cứu nước. Vả lại, lúc ấy cho đến năm 45, cố gắng duy nhất của tôi là ham học, học sao cho thật giỏi kẻo hổ danh là con nhà khoa bảng, nhờ vậy kết quả học của tôi thường là cao: môn nào cũng khá, nhưng nhất là môn luận (nay gọi là văn). Tôi bắt đầu có lòng yêu văn chương, đọc tiểu thuyết, thơ cũ cũng như học thuộc lòng nhiều đoạn của Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ, nhiều bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, Thế Lữ, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Chế Lan Viên. Tôi cũng rất thích và thuộc nhiều câu ca dao tục ngữ. Nhưng ảnh hưởng sâu đậm nhất trong tâm hồn tôi là Kiều. Và tâm hồn tôi thường bị xúc động mãnh liệt bởi những nhân vật bi thương: Khuất Nguyên, Kinh Kha, Nhạc Phi (nhất là Nhạc Phi), Nguyễn Trãi và tất cả những nhà Cách mạng Việt Nam đã thất bại: từ cụ Phan Đình Phùng cho đến Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Minh Khai! Tôi cũng rung cảm bởi những tiểu thuyết kể những mối tình dang dở. Cho nên, mặc dầu hoàn cảnh gia đình tương đối khá hạnh phúc và chưa đặt hẳn vấn đề “mất nước” một cách sâu xa, tâm hồn tôi đã sớm cảm xúc với những tình tự bi ai, sớm chịu ảnh hưởng những tư tưởng bi quan về nhân sinh. Tôi cứ nghiền ngẫm luôn luôn đoạn “Gẫm nhân sự cớ chi ra thế...!” trong Cung Oán, và mấy chữ “bạc mệnh”, “đoạn trường” như in sâu vào tận đáy tâm hồn! Đứa trẻ mới mười mấy tuổi đầu đã khóc vùi trước cái chết của Nhạc Phi, trước mối tình dang dở của Lan và Điệp trong “Tắt Lửa Lòng” và đã coi nhân vật Thúy Kiều như nhân vật tiêu biểu cho kiếp người nói chung. Thành ra, tuy gia đình tôi theo Phật giáo, tư tưởng- hay đúng hơn- cảm thức “đời là bể khổ”, là mộng ảo, đã sớm nhen nhúm trong lòng tôi. Vì thế, tuy có ý thức dân tộc, có biết cái nhục mất nước, có ước muốn được làm dân một nước độc lập, có biết cảm xúc trước cái cảnh nghèo khó của lớp người bị xã hội đè bẹp, tôi không có sự phản kháng Cách mạng, mà thiên về một sự giải thoát toàn diện triệt căn và từ thuở bé, hình như lý tưởng tu hành, một cuộc đời tịnh tu đã có rất nhiều hấp dẫn đối với tôi. Tôi chỉ có một đam mê là “ham học cho giỏi”, ham đọc tiểu thuyết, ham viết văn hay; còn ngoài ra, hình như không có các thị dục khác. Nhưng sâu thẳm nhất thì Kiều đã nêu lên châm ngôn cho tôi là: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Tu là cội phúc, tình là dây oan”; và hình ảnh các vị sư đã thoát khỏi lụy trần ai vẫn hấp dẫn tôi hơn là hình ảnh các vị anh hùng cái thế, các nhà bác học văn tài.
Tôi còn nhớ một hình ảnh mà gần một nửa thế kỷ trôi qua vẫn không mờ nhạt, mà có lẽ càng ngày càng đậm nét trong ký ức qua bao thăng trầm của cuộc đời tôi : Năm ấy tôi 11 tuổi, thân phụ tôi làm tuần vũ (tỉnh trưởng) tỉnh Khánh Hoà, gia dình tôi lúc ấy có thể nói là vào lúc phát dạt nhất. Tuy gia đình tôi không theo Phật giáo, nhưng lúc ấy mẹ tôi có quen một số bà bạn có thờ Phật, nên đôi khi cũng có lên chùa. Hôm ấy là rằm tháng bảy, mẹ tôi dẫn tôi lên chùa vào chập tối : tôi không nhớ rõ là chùa nào ở Thành (?) (nơi các quan Nam triều ở). Vì lối vào cổng chính quá đông, nên mẹ con tôi dược dẫn qua một nghĩa địa để vào chùa bằng một lối tắt vào cửa bên hông chùa. Cái âm u ghê rợn của một nghĩa địa vào buổi chập tối đang làm tôi sự hãi, thì chỉ bước qua cánh cửa hẹp đi vào ngôi chánh điện, trong cảnh huy hoàng xán lạn trang nghiêm trầm tĩnh. Một vị sư trẻ đang chăm chú gõ mõ đọc kinh trước bàn thờ Phật đầy ánh sáng hương hoa - thật nào có khác gì thoát địa ngục vào nơi cực lạc! hình như từ đó, mẫu người lý tưởng đối với tôi là người tu hành, đạo sĩ, chứ không phải là quân tử, anh hùng hay vĩ nhân theo cái nhìn thường gọi là thế tục.
Tuy vẫn ăn học chơi đùa, mà nhất là ham học, nhưng hình ảnh nhà sư điềm đạm, an nhiên tụng kinh niệm Phật như đã in sâu vào hồn tôi. Và từ cái hình ảnh ít nhiều u hoài của vị đại nho thời Nho mạt phải bó mình làm quan cho một Triều đại suy vong dưới ách đô hộ Pháp - là thân phụ tôi; thân phận mồ côi mẹ của các anh chị tôi, nỗi buồn của hai người chị tôi: một phải ly dị với chồng, một lại bị người hôn phu từ hôn; rồi nỗi nhục mất nước, sự thất bại của các phong trào Cách mạng, cuộc đời khốn khổ của lớp nhân dân bị thua kém về mặt xã hội, những nhân vật có kiếp sống bi ai - có thực trong lịch sử cũng như hư cấu trong tiểu thuyết: Tất cả như đúc kết lại trong bốn chữ “đời là bể khổ” mà Đoạn Trường Tân Thanh của Thúy Kiều qua thiên tài Nguyễn Du đã thâm nhập tâm hồn tôi từ tấm bé! Mất mẹ, mất nước, thất tình, nghèo khổ, oan khiên, tủi nhục: tất cả chỉ là hình thức của “cái khổ” là bản chất của nhân sinh đã gieo mầm rất sớm vào tâm hồn tôi, qua một vài hình ảnh của những người, những nhân vật có thật cũng như hư cấu qua văn chương.
Như trên đã nói các tầng địa chất tâm lý của tôi: tầng thứ nhất là Nho giáo thời suy tàn, tầng thứ hai là một thứ tâm thức cảm tính nhuốm màu Phật giáo có tính cách văn chương, pha lẫn ít nhiều lãng mạn của văn chương Việt Nam sau năm l930 và có lẽ phảng phất ít nhiều Lão giáo theo kiểu Đào Tiềm, kiểu Từ Thức lạc động Phi Lai.
Tầng thứ ba là: sau cái mầm được cụ Phan Bội Châu gieo xuống qua câu hỏi về tên Nước, tình tự dân tộc được tiếp nối bởi ảnh hưởng của một người bạn lúc ấy - lúc tôi học lớp nhất, đó là anh Đinh Nho Liêm. Anh Liêm người làng Gôi Mỹ, nhà rất nghèo, học rất giỏi, giỏi hơn tôi nhiều. Tôi với anh Liêm rất thân nhau. Anh là người đã làm cho tình tự dân tộc càng thêm sâu đậm trong tâm hồn tôi. Đồng thời anh cũng là người gieo vào tâm hồn tôi ý thức về “công bằng xã hội”. Tuy nhiên, giữa tôi và anh Liêm có một điểm khác nhau, vì anh Liêm thiên hẳn về đường lối đấu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng Sản; còn tôi, thì có lẽ quá thấm nhuần về quan niệm từ bi, vô vi, ẩn dật, hướng về tôn giáo lại ngại ngùng trước bạo lực, trước đấu tranh (đó là một vấn đề thuộc tâm tính caractère). Vì thế tuy rất mến nhau, tôi đã không trở thành đồng chí với anh Liêm, mặc dầu có thể nói chúng tôi là hai bạn đồng tâm về vấn đề “dân tộc” cũng như vấn đề “Xã hội”. Anh Liêm là người đã giới thiệu thơ Tố Hữu cho tôi. Chủ nghĩa Cộng sản không phải không có nhiều hấp dẫn đối với tôi, là một người vốn mong ước một xã hội công bằng, và không lấy gì làm thích cho lắm cái địa vị con địa chủ (mỗi lần phải đi coi gặt tức là đi xem tá điền gặt lúa để thu tô, tôi rất khổ tâm), nhưng vì tâm tính sợ bạo động của tôi, tôi tuy không phải là có gì chống đối với lý tưởng cộng sản, nhưng về mặt cảm tính, tôi thấy mình không hợp với đường lối đâu tranh bạo lực. Cho nên có thể nói tôi không chống cũng không theo, mà có thái độ đứng ngoài với ít nhiều vừa mến vừa sợ, vừa kính phục vừa ngần ngại! Thuở ấy, tôi tách rời vấn đề độc lập dân tộc với vấn đề đấu tranh giai cấp. Tôi nghĩ rằng hãy nói chuyện độc lập đã, độc lập rồi hẵng hay! Và phần nào tôi nghĩ rằng đặt nặng vấn đề giai cấp ra sẽ gây chia rẽ, có thể không lợi cho việc đoàn kết đấu tranh giành độc lập. Tôi có cảm tưởng anh Liêm lúc đó cũng không thấy rõ ràng: muốn dành độc lập thì chỉ có con đường Cộng sản, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bài người trình bày lý do vì sao người chọn gia nhập vào đệ tam quốc tế. thật ra, cả đến năm 45 và 54 tôi cũng không thấy điều đó, mãi cho đến năm 75 tôi mới được đọc bài nói trên của Hồ Chủ Tịch. Nhiều lúc tôi bâng khuâng tự hỏi: Nếu năm 38 mà anh Liêm chỉ cho tôi thấy rõ điều Hồ Chủ Tịch đã trực giác nhận thức lúc người gia nhập đệ tam quốc tế thì e có lẽ tôi đã có suy nghĩ khác, và cuộc đời của tôi đã khác rồi cũng nên? Nhưng đó là chỉ nói giả sử vậy thôi, chứ thực ra, như đã nói trên: Từ tấm bé, hình ảnh nhà sư, khung cảnh đời sống các chùa đã có sức hấp dẫn trên tâm hồn tôi, tuy chưa có dịp bộc lộ triển nở.
Dầu sao thì ba tầng lâm lý trên chỉ là các lớp phù sa đọng lại trong tâm thức, rồi nằm yên trong chiều sâu vô thức, chứ không có tác động gì . Về cuộc sống ý thức thì tôi vẫn là một em bé học giỏi, ngoan ngoãn: ở nhà thì hiếu đễ, ở trường, thì chăm chỉ hiền hòa, thế thôi. Sau năm 1938, đỗ tiểu học xong, anh Liêm vào trường Quốc học Vinh, tôi vào trường Thiên Hựu ở Huế, thỉnh thoảng thư từ trao đổi, dịp nghỉ học về quê đi lại rất thân tình, và cho đến năm 1943 anh Liêm có vào Huế học lớp cấp I tú tài trường Khải Định mấy tháng, chúng tôi vẫn thân nhau; nhưng anh Liêm không bao giờ đề cập với tôi về việc tham gia hoạt động chính trị cả! Cho nên từ năm 1938 đến năm 1945, tuy có nhiều thao thức về dân tộc, thỉnh thoảng cũng được khơi dậy như phong trào đón tiếp Godard, tin tức các vụ khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, Phố Châu, nhưng chỉ như những âm vang từ xa, chứ không có dịp trở thành những thôi thúc đi đến chỗ tham gia một phong trào cụ thể nào cả! Tự bản thân không tìm tòi mà cũng không có ai gợi ý kết nạp. Vả lại, lúc ấy tôi chịu ảnh hưởng của một số thầy học ở Huế như các ông Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu. Ý hướng cũng muốn theo cách sống của các vị ấy: Cố gắng học cho xong rồi sinh hoạt nghề tự do, nhất là dạy học tư. Riêng tôi thì tâm niệm rằng cố gắng cho đỗ tú tài, ra Hà Nội học đại học sẽ gặp được các bậc đàn anh ngoài ấy mà ở Huế chúng tôi có nghe tiếng - Như các anh Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước, Lê Khắc Thiền, Đặng Ngọc Tốt vv ... rồi sẽ hay. Ở Huế chỉ có ông Tạ Quang Bửu là bậc đàn anh mà chúng tôi có lòng ngưỡng mộ, nhưng chỉ qua sự hoạt động hướng đạo gián tiếp đề cập đến vấn đề chính trị, hình như ông Bửu lúc ấy vẫn chưa có đường lối rõ rệt hoặc còn nghi ngại, nên không thấy ông đặt vấn đề hoạt động một cách cụ thể. Đến lúc ông Bửu tham gia chính Phủ Trần Trọng Kim rồi lại tham gia cách mạng tháng tám, thì tôi không còn ở Huế nữa, nên chẳng rõ ra sao.
Nói chung từ năm 1938 đến năm 1945*, về căn bản, tôi chỉ là một học sinh trung học dốc lòng vào việc học có ít nhiều thao thức về dân tộc, ít nhiều băn khoăn về độc lập; nhưng tạm gác chờ lúc ra Hà Nội thành sinh viên, hoặc khi học xong phải ra đời mới thực sự đặt vấn đề, nhưng đảo chính Nhật đã đến đưa tôi vào một chặng đường khác của cuộc đời, tôi sẽ trình bày sau, nay xin trở lại năm 1938.
____________________________________________________________________________________________________________________________
Phụ chú: * Thực ra năm 1942, ở Huế có phong trào Ngô Đình Diệm và Cường Để, tôi có được một người bạn gợi ý tham gia, với khả năng gởi vượt biên sang Nhật du học; nhưng tuy có cảm tình với cá nhân hai ông Cường Để và Ngô Đình Diệm, tôi không mấy ưa hình ảnh tàn bạo và cả các hiến binh Nhật, nên đã khước từ (vả lại chủ yếu là ra Hà Nội học đại học, rồi hẵng hay).
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |