Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
18. XEM LẠI MỘT KHÚC PHIM
Sau khi Buôn Mê Thuột giải phóng, cùng với toàn miền Nam, Đà Lạt đi vào một giai đoạn sôi động, càng ngày càng gia tăng theo nhịp độ của cuộc giải phóng: Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn… Lúc đó, hầu hết những ai có hiểu biết đều nhận thấy rằng: chế độ cũ của miền Nam đã cáo chung, cuối cùng thì toàn cõi Việt Nam sẽ thuộc về phía Xã hội chủ nghĩa. Những điều đó xảy ra như thế nào? Đột biến, với nhiều đổ vỡ thiệt hại cho cả nhiều bên; hay từ từ từng bước, hiểu theo nghĩa thời gian tính, cũng như theo địa bàn, trong sự chuyển tiếp giữa hai chế độ? Riêng tôi thì nghĩ rằng có thể sẽ theo dạng từ từ chuyển và như vậy có cái hay là tránh được những giá đắt thường phải trả trong những ngày thay đổi đột biến về chính thể, chế độ. Nhưng tôi nghĩ dù, có từ từ đi nữa thì cũng chỉ độ 5 năm là toàn thể sẽ thuộc về Xã hội chủ nghĩa. Do đó, những ai quả thật không chấp nhận chủ nghĩa xã hội thì chỉ có con đường bỏ đất nước đi ra ngoại quốc chứ ở Việt Nam thì chạy đâu? Chậm lắm là 5 năm, cuối cùng rồi thì cũng sẽ thuộc về Xã hội chủ nghĩa! Như trên đã nói nhiều lần: riêng tôi thì hoàn toàn không bao giờ chống đối, hay chạy trốn khỏi xã hội chủ nghĩa, và cũng không bao giờ muốn bỏ đất nước Việt Nam mà đi nước khác. Do đó, tôi quyết định ở lại Đà Lạt, dù có gì xảy ra. Vả chăng, trừ 2 năm bị cưỡng bách đi lính ngụy, tôi bao giờ cũng tự coi như vị trí chính của mình là trong Hội Thánh Việt Nam, mà Hội Thánh Việt Nam từ Bắc chí Nam chỉ có một. Cho nên ví dụ có tạm thời chia cách một lần nữa, thì Đà lạt hợp với số các giáo phận thuộc chế độ miền Bắc làm thành một phần đông hơn, lớn hơn phần các giáo phận tạm thời miền Nam.
Ở lại Đà lạt tôi có ý: một là sớm được cùng gia đình đoàn tụ, hai là nếu Viện Đại học Đà Lạt vẫn được chế độ mới chấp thuận để cho Giáo hội quản lý, thì tôi vẫn tiếp tục phục vụ tại viện Đại học; nếu như chế độ mới không cho phép viện Đại học Đà lạt được tiếp tục dưới sự quản lý của Giáo Hội, thì có thể tôi vẫn được lưu dụng, còn nếu không được lưu dụng thì tôi sẽ đề nghị Toà Giám mục Đà Lạt sử dụng tôi làm việc gì cũng được. Vì vậy, trong ban giáo sư thuộc viện Đại học Đà Lạt cũ, tôi là giáo sư duy nhất (cùng với một phụ khảo duy nhất có gia đình tại Đà Lạt) ở lại, không di tản về Sài Gòn. Sau khi toàn bộ Ban giám hiệu rời Đà Lạt, tôi được Đức Giám mục chỉ định ở lại viện như thành phần của Ban giám hiệu, bảo quản cơ sở vật chất, cùng với toàn bộ anh em công nhân lao động chân tay đều ở lại cả.
Từ đêm 30-3-1975 chính quyền cũ rút khỏi Đà Lạt, cho đến ngày tôi bị đưa vào trung tâm thẩm vấn Đà Lạt (24-4-75), mọi sinh hoạt đều bình thường, tôi có trình diện tại Ủy ban Quân quản, vị đại diện cho biết rằng: tại Đà lạt, thành phần giáo sư Đại học chỉ có một mình tôi, nên tôi hãy chờ đợi có chính sách chung. Và sau khi một số anh em giáo sư di tản xuống Phan Rang vài ngày, tui trở về Đà Lạt, tôi có cử người tiếp xúc với bộ phận đặc trách văn hóa giáo dục của Cách mạng thì cũng được trả lời như vậy. Và điều sau đây là cái sai lầm lớn (đúng hơn là cái khờ dại của tôi) trong những ngày ấy: đó là tham gia vào việc thành lập Hội Liên Tôn ở Đà Lạt!!!
Nay tôi cũng không nhớ rõ, trước hoặc sau khi Ủy ban Quân quản ra mắt đồng bào một hôm, tức là ngày 2 hoặc 4 tháng 4 (hình như trước một hôm, tức là ngày mùng 2 tháng 4 thì có lẽ đúng hơn), trong túc tôi đứng trước rạp chiếu bóng Hòa Bình (nay là rạp 3/4) một nhà sư áo vàng thuộc hệ khất sĩ, còn trẻ tuổi (khoảng trên dưới 30) đến chào tôi và tự xưng là “đại diện” của Phật giáo nhờ tôi giới thiệu với Tòa Giám mục Đà Lạt, bàn về việc tổ chức thành lập một tổ chức gồm đại diện các tôn giáo để thực hiện hai mục đích:
Sau ngày tôi trở về viện Đại học Đà Lạt, tôi tiếp tục cư trú tại trường Đại học (bấy giờ do một ban quản lý gồm đại diện của Nhà nước và đại diện của Giáo hội quản lý, nghiên cứu thể thức chuyển giao cho Nhà nước) trong quy ước giữa hai bên thì tất cả mọi giáo viên, nhân viên cũ của Đại học, nếu còn ở lại thì được Nhà nước lưu dụng, ngày 3-4-1975 tôi là giáo sư duy nhất ở lại. Thế nhưng, trong danh sách những người ở lại (lập trong thời gian tôi đi học tập vắng mặt, tôi bị lọt sổ hay bị gạch sổ) nên khi Đại học Đà Lạt hoạt động lại dưới sự quản lý của Nhà nước, tôi không được lưu dụng. Tôi bắt đầu tự mưu sinh bằng cách làm vườn trồng rau, đây là một kinh nghiệm quý và là một vinh dự lớn: tôi làm được ba vụ rau bắp cải, bán cho hợp tác xã phường 4 Đà Lạt! Đối với tôi đó là một thành tích lớn lao, và như vậy thì tôi cũng phần nào lấy làm thỏa mãn vui vẻ. Một số bạn bè thấy vậy thì thương hại cho tôi. Riêng tôi, tôi rất sung sướng được sống cái kinh nghiệm lao động vất vả và khá túng thiếu về vật chất để hiểu rằng sống mối phúc thứ nhất không phải là dễ!
Nhân dịp này tôi cũng xin ghi lên đây lời thành tâm tri ân đối với một số anh chị em đã có lòng thương giúp đỡ tôi về mọi mặt, trong thời gian tôi lưu trú tại Đại học Đà Lạt; giúp đỡ lao động sản xuất, chia sẻ lương thực thực phẩm, áo quần và tiền nong - quả là bát cơm phiếu mẫu đáng giá nghìn vàng! Điều quý hóa là phần đông các ân nhân ấy là những người đôi khi không có liên lạc gì với tôi trước, nay biết tôi ở vào hoàn cảnh khó khăn thì giúp đỡ vì lòng từ thiện, ngoài ra tôi cũng như bất cứ người nào đi học tập về đều gặp nhiều khó khăn đôi khi khá căng thẳng về mọi mặt. Cũng chẳng kể chi tiết làm gì, chỉ biết rằng, với lòng trông cậy, với sự cầu nguyện, rồi cuối cùng Thiên Chúa cũng dắt dìu qua bước cam go để mọi việc đều “tốt đời, đẹp đạo”, không có gì phạm đến công bằng bác ái, không có gì thiệt hại đến cho bản thân mà vẫn giữ được nhân bản con người trước những tình huống éo le đầy thử thách cạm bẫy, mà trí khôn và dũng khí tự nhiên của con người tự nhiên khó lòng vượt qua nếu không có ơn Chúa phù hộ cứu giúp; đây cũng là bài học vô cùng thấm thía về sự mỏng dòn của mình, đồng thời về sự phù trợ của Thiên Chúa, để trau dồi vun quén hơn về đức cậy trong những bước đường đời khi gặp sự bế tắc về mặt tự nhiên. Tôi đã được ơn nghiệm cảm chân lý này là “les heures les plus désespérées sont les heures de Dieu” (những giây phút tuyệt vọng nhất chính là giờ của Thiên Chúa ra tay). Mong sao tất cả mọi người được vững lòng TRÔNG CẬY, đừng bao giờ sờn lòng nản chí, mặc dù có phải trải qua những bước cực kỳ nguy khốn về mọi mặt, ngay cả trường hợp có nguy cơ bị đẩy vào con đường phản bội với Chúa. Hãy vững lòng kêu cầu đến Chúa, Chúa sẽ ra tay cứu vớt, dù đôi khi chỉ vào phút chót, tưởng như trên bờ vực thẳm không đáy.
Trên đây tôi có nói rằng cuộc đời tôi từ tháng 5 -75 dường như được tỉnh thức qua một cơn mê dài (51-75) lạc bước miền Nam, và như được trực tiếp nối lại những năm 49-51. Nói như vậy không phải là từ 51-75 cuộc sống tôi là một con số không, và tôi chẳng có ân tình nợ nghĩa gì với miền Nam cả! Trước hết, tại miền Nam, tôi được sống an vui trong cái tổ ấm dòng Phanxicô tại Nha trang từ 51-54 giữa một cảnh trí thiên nhiên êm đềm; ven đồi, trên bãi biển nhìn ra Hòn Chồng vốn là một thắng cảnh, rồi tôi được đi Pháp, Bỉ, Thụy Sỹ, được dự các giáo trình triết học, dưới mái trường Đại học Sorbonne (giấc mơ của bất cứ cậu tú, cô tú triết học nào) và ngay cả những ngày tháng bi đát, nhất là hai năm tòng quân và 16 tháng cải tạo, tôi vẫn được sống tình người, tình bạn, tình thầy trò, tình anh em, rất nhiều người thương mến. Tôi đã ăn cá rô Long Xuyên, cua Vũng Tàu, nhìn nước biển vịnh Thái Lan từ bờ biển Rạch Giá, được ăn mận Mỹ Tho, dứa Tân An, rùa và rắn Cần Thơ… Sản phẩm miền Nam đã biến thành cơ thể tôi: từ rau Đà Lạt đến cá Nha Trang, chôm chôm Long Khánh, tôm Rạch Giá vv… Nhưng sở dĩ tôi nói: “Lạc bước miền Nam” là để tôi nói vào Nam không có thái độ di cư trốn khỏi miền Bắc, và cho đến bao giờ đất nước còn chia đôi thì lòng tôi vẫn còn hoài Bắc, là còn thấy như lạc lõng tại miền Nam. Nhưng khi đất nước đã thống nhất, Nam Bắc đã là một, thì lòng hoài bão cũng giảm nhẹ, tôi không còn thấy lạc lõng tại miền Nam nữa. “Lạc bước vào Nam”, là để nói hoặc chỉ là một cách nói để diễn tả nỗi đau khổ của một người dân trong cảnh đất nước bị chia đôi mà thôi. Cho nên, mặc dù hiện nay đôi khi còn ít nhiều nhớ về quê cũ ở đất Hồng Lam, đương nhiên là thế nhưng khi nhận được quyết định hưu trí, tôi đã chọn Đà Lạt làm nơi cư trú cuối cùng trên chặng đường đi về QUÊ THẬT muôn đời. Chẳng những vậy, tôi còn khuyên anh em bà con, bạn bè tôi ở Bắc nên chuyển vào Nam sinh sống, vì miền Nam vẫn là đất nước Việt Nam, và so với miền Bắc thì đất đai miền Nam còn thưa người, cần Nam tiến khẩn hoang để giải quyết vấn đề nhân mãn ở các đồng bằng miền Bắc. Tôi rất đồng ý về việc gần đây hình như không còn dùng từ miền Nam, miền Bắc nữa, mà dùng từ phía Bắc, phía Nam, bắc - nam chỉ là hai phía, chứ không phải là hai miền tách rời.
Nhân tiện cũng xin có ít nhiều suy nghĩ về Đại học Đà Lạt, nơi tôi đã sống và làm việc 9 năm trời với rất nhiều kỷ niệm tốt đẹp. Như tôi đã nói qua từ khi thành lập 1959 - 1965, viện Đại học Đà lạt như thế nào, tôi không rõ; còn từ năm 1966 là năm đầu tiên tôi làm việc tại đó cho đến năm 1975, tôi thấy như sau:
Ý đồ cao nhất của việc thành lập viện Đại học Đà lạt, cũng như bất cứ sinh hoạt nào của Hội Thánh đều nằm trong sứ mạng của Chúa Giêsu đã giao cho Hội Thánh phải làm tròn với bất cứ giá nào: đó là “truyền giáo”, tức là loan tin vui cứu độ cho mọi loài thụ tạo, cho đến tận cùng trái đất, cho đến tận cùng thời gian. Truyền giáo là một yếu tố căn bản của Kitô giáo, là bổn phận của Kitô hữu. Theo Chúa Giêsu không phải là thoát trần cho nhẹ gót tiên thiên, nhưng là được chọn và được sai đi làm chứng cho Ngài. Không có thao thức, không có sinh hoạt truyền giáo thì không còn là Kitô hữu nữa. Theo Chúa Giêsu không phải là thoát trần, không phải chỉ là như kẻ lo chạy thoát khỏi trần gian như chạy khỏi ngôi nhà cháy để cứu lấy mạng sống riêng mình, mà là như đội viên cứu hỏa nhào vào đám cháy để dẹp lửa cứu người! Ẩn tu cũng là để cầu nguyện, chiến đấu cùng những lực lượng siêu nhiên ngay trong trận địa chiến căn bản là lòng mình, để phục vụ cho nước Chúa trị đến. Trong túc truyền giáo, Hội Thánh cũng đồng thời Kitô hóa mọi giá trị tốt lành của trần gian; mọi sinh hoạt văn hóa xã hội và kể cả kinh tế chính trị cũng cần được cứu độ, nên Đại học Công giáo cũng nhằm mục đích đem ơn cứu độ cho mọi sinh hoại văn hóa của mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi nền văn minh, chứ không nhằm mục đích chính trị nào cả. Đương nhiên là nền văn hóa được giảng dạy trong Đại học Công giáo là không theo (chứ không phải là chống lại) duy vật và vô thần về mặt tư tưởng nhằm tạo điều kiện cho tâm trí con người tiến về chân lý hữu thần là Kitô giáo thâu gồm và bổ khuyết mọi giá trị chân chính của các triết lý khác (ngay cả một thuyết vô thần như Mác-xít, thì ít ra cũng có ba yếu tố được nhìn với thiện cảm:
Ý đồ là thế, còn việc có bị ai lợi dụng không? Cái đó là đương nhiên; chính quyền nào lại không lợi dụng tất cả để phục vụ cho họ! Cái đáng nói là Hội Thánh và cá nhân những người thừa hành có hữu ý phục vụ cho một ý đồ chính trị không (và như thế là xấu, là đáng trách), hoặc có vô tình để cho người ta lợi dụng không (và như thế là khờ dại) cái đó thì không thể vơ đũa cả nắm. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng Hội Thánh không chủ trương dùng Đại học Đà Lạt để phục vụ chính trị cho chế độ nào cả! Còn phần cá nhân các linh mục, các thành viên trong giáo ban thì đó là chuyện riêng tư cá nhân họ, tôi không biết thâm tâm họ ra sao, nhưng tôi không thấy ai đã làm công việc cụ thể nào phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả! Mà tôi, riêng bản thân tôi, tôi xác định rằng tôi không phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả, mà tôi cũng đã cố gắng hết sức nếu có thể, không để cho ai lợi dụng mình phục vụ cho một mục tiêu chính trị nào cả, còn hỏi tôi rằng có đủ khôn ngoan già dặn để đối phó, thoát khỏi mưu mô của những tay cáo già chính trị hay không? Thì tôi xin hỏi lại, có ai dám quả quyết mình tài giỏi như vậy, để tôi xin cắp sách đến học. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi không thấy có việc cụ thể nào (nhằm mục đích ấy) tôi làm để phục vụ cho một mục tiêu chính trị. Có chăng là một vài việc trong đó tôi bị phê bình là: “Có lợi cho Cộng sản”, ví dụ quá tích cực trong việc xin miễn dịch, hoãn dịch cho sinh viên hoặc để cho các sinh viên tá túc qua đêm trong phòng tôi (dù họ đến gõ cửa túc đêm khuya) không cần biết họ có phải là việt cộng nằm vùng hay không, mà chỉ biết họ là người quen lỡ đường, thì theo lời Chúa dạy mình phải đón tiếp họ như chính Chúa vậy, người sinh viên ấy có thể là Đại Việt, Cần Lao, là Việt cộng, là thành phần thứ 3 thứ 4 gì đó, tôi không thể biết được và tôi cũng không muốn biết, tôi chỉ biết họ là con người gặp khó khăn chờ tôi giúp đỡ, thế thôi! Tôi không kể công với ai, mà tôi nghĩ tôi cũng chẳng có tội với ai về mặt chính trị vì tôi là một con người vốn phi chính trị từ trong bản chất và dù chỉ là một giáo dân thường, tôi phát nguyện trọn đời phục vụ Thiên Chúa, và với cương vị giáo sư một trường Đại học Công giáo, tôi là cán bộ văn hóa làm việc dưới sự quản lý của Hội Thánh Công giáo Việt Nam, để chống trả ba kẻ thù của Chúa Giêsu - Đó là: dốt nát, đau khổ và tội lỗi. Trước hết là nơi chính bản thân tôi, sau nữa là nơi những anh chị em mà Chúa để cho tôi gặp gỡ trên mỗi nẻo đường không phân biệt ai, không hỏi căn cước lý lịch ai, vì ai cũng là thân phận làm người trong một cõi thế gian mà sự dữ đã len vào để quấy phá chương trình của Thiên Chúa dưới mọi hình thức, ở khắp mọi nơi; ngay cả trong lòng Hội Thánh và trong lòng tôi nữa. Và vì thế tất cả đều cần được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, khi ý Chúa nhiệm mầu đưa viện Đại học đến chỗ ngưng sinh hoạt, tôi vui vẻ nhẹ nhàng theo ý Chúa đi đến những nơi khác, làm những việc khác (ví dụ, gánh phân bón ruộng) với tất cả lòng tin cậy mến bình an vui vẻ, cố gắng thương yêu mọi người trong tình yêu Chúa. Cố nhiên đó là cố gắng tối đa, còn đạt được bao nhiêu là việc Chúa thẩm phán, tôi không tự đánh giá mình và cũng chẳng quan tâm đến lời thiên hạ (dù là ai) thị phi khen chê cả! Chỉ sợ mình vô ý làm buồn lòng anh chị em mà thôi.
Tôi cũng xin trở lại thời kỳ ở Âu Châu mà trên kia tôi trình bày dưới nhãn quan của một người tuy ở vào hoàn cảnh du học sinh, nhưng mục đích chính là tìm một phương hướng tu trì chứ không phải là du học! Trình bày như trên - không phải tôi phủ nhận hoàn toàn cái văn minh Âu Tây, tôi chỉ nhắm vạch rõ sự không phù hợp giữa tâm hồn tôi với một khía cạnh duy khoa học kỹ thuật quá mức của nó. Tuy nhiên cũng nên nói rõ rằng điều mà tôi học được ở Âu Tây không phải là học trong Đại học Sorbonne (ngoại trừ cái cung cách làm con người trí thức của các giáo sư) mà là trong túc tiếp xúc với những con người cụ thể trong sự tương giao hàng ngày, nhất là qua cách sống đạo của một số tín hữu Âu Tây; có những bà bồi phòng, có những anh làm công nhân, có những bạn sinh viên không chuyên thần học đã cho tôi thấy Kitô giáo quả là một niềm tin sống động (foi vécue), chứ không phải chỉ là một tôn giáo (religion), một hệ thống tư tưởng hay một nền tuân lý mà thôi. Hình như người Công giáo Việt Nam chỉ mới có lòng sùng đạo (religieux, pieux), có thể là quảng đại, sẵn sàng hy sinh tài sản, thì giờ, sức lực, nhưng mới chỉ là giữ đạo chứ chưa thể hiện đạo, nghĩa là chỉ đặt nặng về phụng tự (culte) và tuân lý giữ tuật chứ ít thấy có một đời sống nội tâm thiêng liêng sâu sắc (vie intérieure, spirituelle profonde), thậm chí ngay trong các tu viện cũng vậy. Ví dụ, dù nơi một nữ giáo viên Việt Nam có bằng tấn sĩ văn chương đi nữa cũng khó lòng tìm thấy một đời sống bên trong như nữ thi sĩ Marie Noel.
Tôi có quen một quả phụ sống hoàn toàn một mình; chồng bà bị tử nạn, và người con trai độc nhất thì hy sinh trong kháng chiến chống Phát xít Đức; bà sống hằng ngày bằng nghề may vá thuê, thêu thùa, tuổi đã ngoài 60, trình độ học vấn chưa hết tiểu học nên ít đọc sách thiêng liêng, nhưng đời sống phong phú, nội tâm bà rất sâu xa phong phú. Chúa Giêsu không chỉ ở trong nhà thờ hoặc ở trên trời, mà gần như trong bầu không khí mà trong ấy bà sống, là nguồn mạch lưu thông trong từng tế bào của con người bà, như người bạn liên lỷ đồng hành với bà, khi bà may vá thêu thùa cũng như khi bà đi mua thực phẩm, khi rót rượu pha trà, dọn bánh mời khách tới thăm. Đối với bà, Chúa Giêsu không phải là một phạm trù “đạo đức” kiểu sùng mộ (piété) mà là một thực tại gần như tự nhiên thấm nhuần toàn bộ cuộc sống, ăn sâu vào con người toàn bộ một cách nhuần nhuyễn, gần như một bản năng tự nhiên; có thể nói đời sống biến thành Kitô tính, chứ không phải là Kitô giáo. Nơi phần đông Kitô hữu Việt Nam, kể cả nơi các linh mục và tu sĩ, Kitô giáo vẫn còn như cái gì khoác ở ngoài vào, thậm chí khiến người ta có cảm tưởng nó đè lên con người tự nhiên; còn nơi bà cụ ấy nó gần như một sự sống hồn nhiên như mạch suối phát chảy tự đáy sâu bên trong tỏa ra bên ngoài không có phân biệt cái gì là tự nhiên, cái gì là siêu nhiên ở nơi cụ, vì siêu nhiên được sống một cách gần như tự nhiên, rất êm ả, nhẹ nhàng, vui tươi, hồn nhiên; đời sống theo tinh thần Chúa Kitô như là tự phát chứ không có gì như phải gò ép, gắng gỏi, khắc khổ mới được. Mà những người tín hữu như vậy khá nhiều, xin dùng một hình ảnh hơi quá mức một tí, tín hữu Việt Nam đôi khi như cá ướp muối, tốt đấy nhưng đôi khi có cái gì cứng cỏi, nặng nề, hơi gò bó trong khuôn khổ của tôn giáo, còn số tín hữu Âu Tây nói trên như cá bơi lội trong nước của niềm tin. Đó là bài học quý giá nhất của tôi trong 9 năm trôi dạt ở Âu Tây. Tín hữu Việt Nam hình như chỉ mới ở mức độ sùng mộ (pieux) đạo đức (honnêteté morale) sốt sắng (ferveur religieuse). Phải chăng về mặt này anh em bên Tin Lành khá hơn? và một số tín đồ Phật giáo, cũng như các nhà nho xưa có lẽ cũng khá hơn? Nói tóm lại, chiều sâu người tín hữu Việt Nam còn chưa đạt đến; phải chăng từ nay đó là hướng cần phải lưu tâm hơn trong mục vụ?
Còn về đời sống xã hội tôi thấy có hai ưu điểm:
Sau khi Buôn Mê Thuột giải phóng, cùng với toàn miền Nam, Đà Lạt đi vào một giai đoạn sôi động, càng ngày càng gia tăng theo nhịp độ của cuộc giải phóng: Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn… Lúc đó, hầu hết những ai có hiểu biết đều nhận thấy rằng: chế độ cũ của miền Nam đã cáo chung, cuối cùng thì toàn cõi Việt Nam sẽ thuộc về phía Xã hội chủ nghĩa. Những điều đó xảy ra như thế nào? Đột biến, với nhiều đổ vỡ thiệt hại cho cả nhiều bên; hay từ từ từng bước, hiểu theo nghĩa thời gian tính, cũng như theo địa bàn, trong sự chuyển tiếp giữa hai chế độ? Riêng tôi thì nghĩ rằng có thể sẽ theo dạng từ từ chuyển và như vậy có cái hay là tránh được những giá đắt thường phải trả trong những ngày thay đổi đột biến về chính thể, chế độ. Nhưng tôi nghĩ dù, có từ từ đi nữa thì cũng chỉ độ 5 năm là toàn thể sẽ thuộc về Xã hội chủ nghĩa. Do đó, những ai quả thật không chấp nhận chủ nghĩa xã hội thì chỉ có con đường bỏ đất nước đi ra ngoại quốc chứ ở Việt Nam thì chạy đâu? Chậm lắm là 5 năm, cuối cùng rồi thì cũng sẽ thuộc về Xã hội chủ nghĩa! Như trên đã nói nhiều lần: riêng tôi thì hoàn toàn không bao giờ chống đối, hay chạy trốn khỏi xã hội chủ nghĩa, và cũng không bao giờ muốn bỏ đất nước Việt Nam mà đi nước khác. Do đó, tôi quyết định ở lại Đà Lạt, dù có gì xảy ra. Vả chăng, trừ 2 năm bị cưỡng bách đi lính ngụy, tôi bao giờ cũng tự coi như vị trí chính của mình là trong Hội Thánh Việt Nam, mà Hội Thánh Việt Nam từ Bắc chí Nam chỉ có một. Cho nên ví dụ có tạm thời chia cách một lần nữa, thì Đà lạt hợp với số các giáo phận thuộc chế độ miền Bắc làm thành một phần đông hơn, lớn hơn phần các giáo phận tạm thời miền Nam.
Ở lại Đà lạt tôi có ý: một là sớm được cùng gia đình đoàn tụ, hai là nếu Viện Đại học Đà Lạt vẫn được chế độ mới chấp thuận để cho Giáo hội quản lý, thì tôi vẫn tiếp tục phục vụ tại viện Đại học; nếu như chế độ mới không cho phép viện Đại học Đà lạt được tiếp tục dưới sự quản lý của Giáo Hội, thì có thể tôi vẫn được lưu dụng, còn nếu không được lưu dụng thì tôi sẽ đề nghị Toà Giám mục Đà Lạt sử dụng tôi làm việc gì cũng được. Vì vậy, trong ban giáo sư thuộc viện Đại học Đà Lạt cũ, tôi là giáo sư duy nhất (cùng với một phụ khảo duy nhất có gia đình tại Đà Lạt) ở lại, không di tản về Sài Gòn. Sau khi toàn bộ Ban giám hiệu rời Đà Lạt, tôi được Đức Giám mục chỉ định ở lại viện như thành phần của Ban giám hiệu, bảo quản cơ sở vật chất, cùng với toàn bộ anh em công nhân lao động chân tay đều ở lại cả.
Từ đêm 30-3-1975 chính quyền cũ rút khỏi Đà Lạt, cho đến ngày tôi bị đưa vào trung tâm thẩm vấn Đà Lạt (24-4-75), mọi sinh hoạt đều bình thường, tôi có trình diện tại Ủy ban Quân quản, vị đại diện cho biết rằng: tại Đà lạt, thành phần giáo sư Đại học chỉ có một mình tôi, nên tôi hãy chờ đợi có chính sách chung. Và sau khi một số anh em giáo sư di tản xuống Phan Rang vài ngày, tui trở về Đà Lạt, tôi có cử người tiếp xúc với bộ phận đặc trách văn hóa giáo dục của Cách mạng thì cũng được trả lời như vậy. Và điều sau đây là cái sai lầm lớn (đúng hơn là cái khờ dại của tôi) trong những ngày ấy: đó là tham gia vào việc thành lập Hội Liên Tôn ở Đà Lạt!!!
Nay tôi cũng không nhớ rõ, trước hoặc sau khi Ủy ban Quân quản ra mắt đồng bào một hôm, tức là ngày 2 hoặc 4 tháng 4 (hình như trước một hôm, tức là ngày mùng 2 tháng 4 thì có lẽ đúng hơn), trong túc tôi đứng trước rạp chiếu bóng Hòa Bình (nay là rạp 3/4) một nhà sư áo vàng thuộc hệ khất sĩ, còn trẻ tuổi (khoảng trên dưới 30) đến chào tôi và tự xưng là “đại diện” của Phật giáo nhờ tôi giới thiệu với Tòa Giám mục Đà Lạt, bàn về việc tổ chức thành lập một tổ chức gồm đại diện các tôn giáo để thực hiện hai mục đích:
- Là tạo sự đoàn kết, hài hòa giữa các thành phần nhân dân, tránh những xô xát tranh chấp do sự chưa ổn định thời cuộc (túc ấy Sài Gòn chưa giải phóng).
- Là giải quyết vấn đề ổn định những xáo trộn xã hội: cướp phá, thiếu lương thực, thực phẩm, các gia đình ly tán neo đơn. Tôi thấy hai mục đích ấy không có tính cách chính trị mà chỉ là vấn đề nhân đạo xã hội phù hợp với tinh thần nhân ái của các tôn giáo, nên tôi đã dẫn vị sư này đến Tòa Giám mục, Đức Giám mục vui vẻ nhận lời, và chỉ định một linh mục đại diện, còn tôi đại diện giáo dân đến dự cuộc họp thành lập hội liên tôn nói trên lại chùa Linh Sơn. Sở dĩ như vậy là vì từ năm 1963, hầu hết giới Công giáo đều nghĩ rằng: giữa Phật giáo và Cách mạng có một sự thỏa thuận, cho nên những gì do Phật giáo đề xướng hẳn là đều có sự chỉ đạo hoặc đồng ý của Cách mạng! Hội liên tôn ấy hoạt động không đầy 10 ngày thì tan rã, sau khi nhiều lần xin Ủy ban Quân quản cho yết kiến để lãnh ý mà không được! Thế nhưng có ai ngờ, hình như vì việc thành lập hội Liên tôn ấy mà phần nào tôi trở nên đối tượng của sự ngộ nhận khá nặng nề! Thậm chí có người cho rằng: đó là lý do làm cho tôi bị đưa đi học tập cải tạo. Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy, vì tôi nghĩ rằng Cách mạng đủ sáng suốt để thấy hội liên tôn túc ấy thực chất chẳng có gì là phản cách mạng cả. Hình như đương sự (tức là vị sư khất sĩ áo vàng nói ở trên đây) chỉ có ý đồ là nấp mình ở dưới Hội liên tôn, không phải để chống đối Cách mạng mà chỉ là để né tránh sự xử lý của Cách mạng đối với một số sai lầm của đương sự trong chế độ cũ (mà có lẽ đương sự là một tuyên úy Phật giáo của quân đội chế độ cũ, nay muốn nhờ Liên tôn mà xóa nhòa cái vết tích ấy, sự việc có lẽ chỉ có vậy). Còn việc tôi bị đưa đi học tập cải tạo xảy ra như sau: theo chính sách của Cách mạng thì những ai ra khỏi hàng ngũ ngụy quân ngụy quyền trước hiệp định Paris, thì xem như không có vướng mắc gì cả; mà tôi thì giải ngũ năm 1956, từ đó tôi chỉ sống hoàn toàn trong khuôn khổ Hội Thánh, không dính líu một tổ chức hoạt động chính trị nào cả! Hơn nữa, dưới cái nhìn của một số anh em sinh viên và giáo chức tại Đà Lạt có ít nhiều tương quan với cá nhân tôi, tôi được xem như là thành phần tốt (hay ít nhất là vô can, vô sự; chỉ là một tu sĩ hụt, một trí thức trùm chăn!) Hơn nữa, nếu vì lý do chính trị mà tôi bị đưa đi học tập cải tạo, thì đáng lẽ phải đưa đi học tập tại các trung tâm dành cho những thành phần ấy! Đàng này tôi đi học tập với tư cách là sĩ quan ngụy (mặc dù đã giải ngũ năm 1956) và như vậy là không đúng chính sách. Đến nay tôi cũng chưa rõ tại sao lại xảy ra sự việc như vậy! Lầm lẫn chăng? Nhưng thôi, chuyện đã qua rồi, hậu quả chẳng có gì trầm trọng lắm! Trái lại chỉ có lợi cho tôi về nhiều mặt như tôi đã trình bày trên kia, và tôi cũng xác nhận rằng: chế độ của trại học tập của Tổng trại 8 do Quân khu 5 quản lý tại Sông Mao là rất tốt, hầu hết anh em học tập ở đó ra đều giữ một kỷ niệm tốt về thời gian học tập nhất là đối với số cán bộ thuộc thành phần bộ đội: cởi mở, chân thành đúng với truyền thống chân chính của danh hiệu “Bộ Đội Cụ Hồ”
Sau ngày tôi trở về viện Đại học Đà Lạt, tôi tiếp tục cư trú tại trường Đại học (bấy giờ do một ban quản lý gồm đại diện của Nhà nước và đại diện của Giáo hội quản lý, nghiên cứu thể thức chuyển giao cho Nhà nước) trong quy ước giữa hai bên thì tất cả mọi giáo viên, nhân viên cũ của Đại học, nếu còn ở lại thì được Nhà nước lưu dụng, ngày 3-4-1975 tôi là giáo sư duy nhất ở lại. Thế nhưng, trong danh sách những người ở lại (lập trong thời gian tôi đi học tập vắng mặt, tôi bị lọt sổ hay bị gạch sổ) nên khi Đại học Đà Lạt hoạt động lại dưới sự quản lý của Nhà nước, tôi không được lưu dụng. Tôi bắt đầu tự mưu sinh bằng cách làm vườn trồng rau, đây là một kinh nghiệm quý và là một vinh dự lớn: tôi làm được ba vụ rau bắp cải, bán cho hợp tác xã phường 4 Đà Lạt! Đối với tôi đó là một thành tích lớn lao, và như vậy thì tôi cũng phần nào lấy làm thỏa mãn vui vẻ. Một số bạn bè thấy vậy thì thương hại cho tôi. Riêng tôi, tôi rất sung sướng được sống cái kinh nghiệm lao động vất vả và khá túng thiếu về vật chất để hiểu rằng sống mối phúc thứ nhất không phải là dễ!
Nhân dịp này tôi cũng xin ghi lên đây lời thành tâm tri ân đối với một số anh chị em đã có lòng thương giúp đỡ tôi về mọi mặt, trong thời gian tôi lưu trú tại Đại học Đà Lạt; giúp đỡ lao động sản xuất, chia sẻ lương thực thực phẩm, áo quần và tiền nong - quả là bát cơm phiếu mẫu đáng giá nghìn vàng! Điều quý hóa là phần đông các ân nhân ấy là những người đôi khi không có liên lạc gì với tôi trước, nay biết tôi ở vào hoàn cảnh khó khăn thì giúp đỡ vì lòng từ thiện, ngoài ra tôi cũng như bất cứ người nào đi học tập về đều gặp nhiều khó khăn đôi khi khá căng thẳng về mọi mặt. Cũng chẳng kể chi tiết làm gì, chỉ biết rằng, với lòng trông cậy, với sự cầu nguyện, rồi cuối cùng Thiên Chúa cũng dắt dìu qua bước cam go để mọi việc đều “tốt đời, đẹp đạo”, không có gì phạm đến công bằng bác ái, không có gì thiệt hại đến cho bản thân mà vẫn giữ được nhân bản con người trước những tình huống éo le đầy thử thách cạm bẫy, mà trí khôn và dũng khí tự nhiên của con người tự nhiên khó lòng vượt qua nếu không có ơn Chúa phù hộ cứu giúp; đây cũng là bài học vô cùng thấm thía về sự mỏng dòn của mình, đồng thời về sự phù trợ của Thiên Chúa, để trau dồi vun quén hơn về đức cậy trong những bước đường đời khi gặp sự bế tắc về mặt tự nhiên. Tôi đã được ơn nghiệm cảm chân lý này là “les heures les plus désespérées sont les heures de Dieu” (những giây phút tuyệt vọng nhất chính là giờ của Thiên Chúa ra tay). Mong sao tất cả mọi người được vững lòng TRÔNG CẬY, đừng bao giờ sờn lòng nản chí, mặc dù có phải trải qua những bước cực kỳ nguy khốn về mọi mặt, ngay cả trường hợp có nguy cơ bị đẩy vào con đường phản bội với Chúa. Hãy vững lòng kêu cầu đến Chúa, Chúa sẽ ra tay cứu vớt, dù đôi khi chỉ vào phút chót, tưởng như trên bờ vực thẳm không đáy.
Trên đây tôi có nói rằng cuộc đời tôi từ tháng 5 -75 dường như được tỉnh thức qua một cơn mê dài (51-75) lạc bước miền Nam, và như được trực tiếp nối lại những năm 49-51. Nói như vậy không phải là từ 51-75 cuộc sống tôi là một con số không, và tôi chẳng có ân tình nợ nghĩa gì với miền Nam cả! Trước hết, tại miền Nam, tôi được sống an vui trong cái tổ ấm dòng Phanxicô tại Nha trang từ 51-54 giữa một cảnh trí thiên nhiên êm đềm; ven đồi, trên bãi biển nhìn ra Hòn Chồng vốn là một thắng cảnh, rồi tôi được đi Pháp, Bỉ, Thụy Sỹ, được dự các giáo trình triết học, dưới mái trường Đại học Sorbonne (giấc mơ của bất cứ cậu tú, cô tú triết học nào) và ngay cả những ngày tháng bi đát, nhất là hai năm tòng quân và 16 tháng cải tạo, tôi vẫn được sống tình người, tình bạn, tình thầy trò, tình anh em, rất nhiều người thương mến. Tôi đã ăn cá rô Long Xuyên, cua Vũng Tàu, nhìn nước biển vịnh Thái Lan từ bờ biển Rạch Giá, được ăn mận Mỹ Tho, dứa Tân An, rùa và rắn Cần Thơ… Sản phẩm miền Nam đã biến thành cơ thể tôi: từ rau Đà Lạt đến cá Nha Trang, chôm chôm Long Khánh, tôm Rạch Giá vv… Nhưng sở dĩ tôi nói: “Lạc bước miền Nam” là để tôi nói vào Nam không có thái độ di cư trốn khỏi miền Bắc, và cho đến bao giờ đất nước còn chia đôi thì lòng tôi vẫn còn hoài Bắc, là còn thấy như lạc lõng tại miền Nam. Nhưng khi đất nước đã thống nhất, Nam Bắc đã là một, thì lòng hoài bão cũng giảm nhẹ, tôi không còn thấy lạc lõng tại miền Nam nữa. “Lạc bước vào Nam”, là để nói hoặc chỉ là một cách nói để diễn tả nỗi đau khổ của một người dân trong cảnh đất nước bị chia đôi mà thôi. Cho nên, mặc dù hiện nay đôi khi còn ít nhiều nhớ về quê cũ ở đất Hồng Lam, đương nhiên là thế nhưng khi nhận được quyết định hưu trí, tôi đã chọn Đà Lạt làm nơi cư trú cuối cùng trên chặng đường đi về QUÊ THẬT muôn đời. Chẳng những vậy, tôi còn khuyên anh em bà con, bạn bè tôi ở Bắc nên chuyển vào Nam sinh sống, vì miền Nam vẫn là đất nước Việt Nam, và so với miền Bắc thì đất đai miền Nam còn thưa người, cần Nam tiến khẩn hoang để giải quyết vấn đề nhân mãn ở các đồng bằng miền Bắc. Tôi rất đồng ý về việc gần đây hình như không còn dùng từ miền Nam, miền Bắc nữa, mà dùng từ phía Bắc, phía Nam, bắc - nam chỉ là hai phía, chứ không phải là hai miền tách rời.
Nhân tiện cũng xin có ít nhiều suy nghĩ về Đại học Đà Lạt, nơi tôi đã sống và làm việc 9 năm trời với rất nhiều kỷ niệm tốt đẹp. Như tôi đã nói qua từ khi thành lập 1959 - 1965, viện Đại học Đà lạt như thế nào, tôi không rõ; còn từ năm 1966 là năm đầu tiên tôi làm việc tại đó cho đến năm 1975, tôi thấy như sau:
Ý đồ cao nhất của việc thành lập viện Đại học Đà lạt, cũng như bất cứ sinh hoạt nào của Hội Thánh đều nằm trong sứ mạng của Chúa Giêsu đã giao cho Hội Thánh phải làm tròn với bất cứ giá nào: đó là “truyền giáo”, tức là loan tin vui cứu độ cho mọi loài thụ tạo, cho đến tận cùng trái đất, cho đến tận cùng thời gian. Truyền giáo là một yếu tố căn bản của Kitô giáo, là bổn phận của Kitô hữu. Theo Chúa Giêsu không phải là thoát trần cho nhẹ gót tiên thiên, nhưng là được chọn và được sai đi làm chứng cho Ngài. Không có thao thức, không có sinh hoạt truyền giáo thì không còn là Kitô hữu nữa. Theo Chúa Giêsu không phải là thoát trần, không phải chỉ là như kẻ lo chạy thoát khỏi trần gian như chạy khỏi ngôi nhà cháy để cứu lấy mạng sống riêng mình, mà là như đội viên cứu hỏa nhào vào đám cháy để dẹp lửa cứu người! Ẩn tu cũng là để cầu nguyện, chiến đấu cùng những lực lượng siêu nhiên ngay trong trận địa chiến căn bản là lòng mình, để phục vụ cho nước Chúa trị đến. Trong túc truyền giáo, Hội Thánh cũng đồng thời Kitô hóa mọi giá trị tốt lành của trần gian; mọi sinh hoạt văn hóa xã hội và kể cả kinh tế chính trị cũng cần được cứu độ, nên Đại học Công giáo cũng nhằm mục đích đem ơn cứu độ cho mọi sinh hoại văn hóa của mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi nền văn minh, chứ không nhằm mục đích chính trị nào cả. Đương nhiên là nền văn hóa được giảng dạy trong Đại học Công giáo là không theo (chứ không phải là chống lại) duy vật và vô thần về mặt tư tưởng nhằm tạo điều kiện cho tâm trí con người tiến về chân lý hữu thần là Kitô giáo thâu gồm và bổ khuyết mọi giá trị chân chính của các triết lý khác (ngay cả một thuyết vô thần như Mác-xít, thì ít ra cũng có ba yếu tố được nhìn với thiện cảm:
- Mọi tài sản ở trần gian đều có mục đích phục vụ cộng đoàn nhân loại, trái với chủ nghĩa duy lợi nhuận cá nhân của chủ trương tự do kinh doanh quá trớn.
- Giá trị kinh tế cũng như tinh thần và đạo đức của người lao động, và tôn trọng lao động chân tay; Thánh Phụ Giuse, Chúa Giêsu, các Thánh tông đồ hầu hết là thành phần lao động chân tay.
- Công bằng xã hội trong việc phân phối sản phẩm của lao động… Thậm chí cả yếu tố duy vật và vô thần cũng được xem như có phần tác dụng tích cực nào đó; giúp người tín hữu lưu tâm hơn đến khía cạnh mầu nhiệm “Thiên Chúa mang lấy xác phàm” khỏi bị lạc vào cái sai lầm duy tâm (idéalisme); tinh tuyền quan niệm về Thiên Chúa, thoát khỏi sa lầy vào một sự mê tín dị đoan ngấm ngầm vô thức nào đó, có nguy cơ tha hóa con người, vốn được Thiên Chúa ban cho có lý trí và tự do làm chủ đời mình, xã hội và thiên nhiên.
Ý đồ là thế, còn việc có bị ai lợi dụng không? Cái đó là đương nhiên; chính quyền nào lại không lợi dụng tất cả để phục vụ cho họ! Cái đáng nói là Hội Thánh và cá nhân những người thừa hành có hữu ý phục vụ cho một ý đồ chính trị không (và như thế là xấu, là đáng trách), hoặc có vô tình để cho người ta lợi dụng không (và như thế là khờ dại) cái đó thì không thể vơ đũa cả nắm. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng Hội Thánh không chủ trương dùng Đại học Đà Lạt để phục vụ chính trị cho chế độ nào cả! Còn phần cá nhân các linh mục, các thành viên trong giáo ban thì đó là chuyện riêng tư cá nhân họ, tôi không biết thâm tâm họ ra sao, nhưng tôi không thấy ai đã làm công việc cụ thể nào phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả! Mà tôi, riêng bản thân tôi, tôi xác định rằng tôi không phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả, mà tôi cũng đã cố gắng hết sức nếu có thể, không để cho ai lợi dụng mình phục vụ cho một mục tiêu chính trị nào cả, còn hỏi tôi rằng có đủ khôn ngoan già dặn để đối phó, thoát khỏi mưu mô của những tay cáo già chính trị hay không? Thì tôi xin hỏi lại, có ai dám quả quyết mình tài giỏi như vậy, để tôi xin cắp sách đến học. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi không thấy có việc cụ thể nào (nhằm mục đích ấy) tôi làm để phục vụ cho một mục tiêu chính trị. Có chăng là một vài việc trong đó tôi bị phê bình là: “Có lợi cho Cộng sản”, ví dụ quá tích cực trong việc xin miễn dịch, hoãn dịch cho sinh viên hoặc để cho các sinh viên tá túc qua đêm trong phòng tôi (dù họ đến gõ cửa túc đêm khuya) không cần biết họ có phải là việt cộng nằm vùng hay không, mà chỉ biết họ là người quen lỡ đường, thì theo lời Chúa dạy mình phải đón tiếp họ như chính Chúa vậy, người sinh viên ấy có thể là Đại Việt, Cần Lao, là Việt cộng, là thành phần thứ 3 thứ 4 gì đó, tôi không thể biết được và tôi cũng không muốn biết, tôi chỉ biết họ là con người gặp khó khăn chờ tôi giúp đỡ, thế thôi! Tôi không kể công với ai, mà tôi nghĩ tôi cũng chẳng có tội với ai về mặt chính trị vì tôi là một con người vốn phi chính trị từ trong bản chất và dù chỉ là một giáo dân thường, tôi phát nguyện trọn đời phục vụ Thiên Chúa, và với cương vị giáo sư một trường Đại học Công giáo, tôi là cán bộ văn hóa làm việc dưới sự quản lý của Hội Thánh Công giáo Việt Nam, để chống trả ba kẻ thù của Chúa Giêsu - Đó là: dốt nát, đau khổ và tội lỗi. Trước hết là nơi chính bản thân tôi, sau nữa là nơi những anh chị em mà Chúa để cho tôi gặp gỡ trên mỗi nẻo đường không phân biệt ai, không hỏi căn cước lý lịch ai, vì ai cũng là thân phận làm người trong một cõi thế gian mà sự dữ đã len vào để quấy phá chương trình của Thiên Chúa dưới mọi hình thức, ở khắp mọi nơi; ngay cả trong lòng Hội Thánh và trong lòng tôi nữa. Và vì thế tất cả đều cần được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, khi ý Chúa nhiệm mầu đưa viện Đại học đến chỗ ngưng sinh hoạt, tôi vui vẻ nhẹ nhàng theo ý Chúa đi đến những nơi khác, làm những việc khác (ví dụ, gánh phân bón ruộng) với tất cả lòng tin cậy mến bình an vui vẻ, cố gắng thương yêu mọi người trong tình yêu Chúa. Cố nhiên đó là cố gắng tối đa, còn đạt được bao nhiêu là việc Chúa thẩm phán, tôi không tự đánh giá mình và cũng chẳng quan tâm đến lời thiên hạ (dù là ai) thị phi khen chê cả! Chỉ sợ mình vô ý làm buồn lòng anh chị em mà thôi.
Tôi cũng xin trở lại thời kỳ ở Âu Châu mà trên kia tôi trình bày dưới nhãn quan của một người tuy ở vào hoàn cảnh du học sinh, nhưng mục đích chính là tìm một phương hướng tu trì chứ không phải là du học! Trình bày như trên - không phải tôi phủ nhận hoàn toàn cái văn minh Âu Tây, tôi chỉ nhắm vạch rõ sự không phù hợp giữa tâm hồn tôi với một khía cạnh duy khoa học kỹ thuật quá mức của nó. Tuy nhiên cũng nên nói rõ rằng điều mà tôi học được ở Âu Tây không phải là học trong Đại học Sorbonne (ngoại trừ cái cung cách làm con người trí thức của các giáo sư) mà là trong túc tiếp xúc với những con người cụ thể trong sự tương giao hàng ngày, nhất là qua cách sống đạo của một số tín hữu Âu Tây; có những bà bồi phòng, có những anh làm công nhân, có những bạn sinh viên không chuyên thần học đã cho tôi thấy Kitô giáo quả là một niềm tin sống động (foi vécue), chứ không phải chỉ là một tôn giáo (religion), một hệ thống tư tưởng hay một nền tuân lý mà thôi. Hình như người Công giáo Việt Nam chỉ mới có lòng sùng đạo (religieux, pieux), có thể là quảng đại, sẵn sàng hy sinh tài sản, thì giờ, sức lực, nhưng mới chỉ là giữ đạo chứ chưa thể hiện đạo, nghĩa là chỉ đặt nặng về phụng tự (culte) và tuân lý giữ tuật chứ ít thấy có một đời sống nội tâm thiêng liêng sâu sắc (vie intérieure, spirituelle profonde), thậm chí ngay trong các tu viện cũng vậy. Ví dụ, dù nơi một nữ giáo viên Việt Nam có bằng tấn sĩ văn chương đi nữa cũng khó lòng tìm thấy một đời sống bên trong như nữ thi sĩ Marie Noel.
Tôi có quen một quả phụ sống hoàn toàn một mình; chồng bà bị tử nạn, và người con trai độc nhất thì hy sinh trong kháng chiến chống Phát xít Đức; bà sống hằng ngày bằng nghề may vá thuê, thêu thùa, tuổi đã ngoài 60, trình độ học vấn chưa hết tiểu học nên ít đọc sách thiêng liêng, nhưng đời sống phong phú, nội tâm bà rất sâu xa phong phú. Chúa Giêsu không chỉ ở trong nhà thờ hoặc ở trên trời, mà gần như trong bầu không khí mà trong ấy bà sống, là nguồn mạch lưu thông trong từng tế bào của con người bà, như người bạn liên lỷ đồng hành với bà, khi bà may vá thêu thùa cũng như khi bà đi mua thực phẩm, khi rót rượu pha trà, dọn bánh mời khách tới thăm. Đối với bà, Chúa Giêsu không phải là một phạm trù “đạo đức” kiểu sùng mộ (piété) mà là một thực tại gần như tự nhiên thấm nhuần toàn bộ cuộc sống, ăn sâu vào con người toàn bộ một cách nhuần nhuyễn, gần như một bản năng tự nhiên; có thể nói đời sống biến thành Kitô tính, chứ không phải là Kitô giáo. Nơi phần đông Kitô hữu Việt Nam, kể cả nơi các linh mục và tu sĩ, Kitô giáo vẫn còn như cái gì khoác ở ngoài vào, thậm chí khiến người ta có cảm tưởng nó đè lên con người tự nhiên; còn nơi bà cụ ấy nó gần như một sự sống hồn nhiên như mạch suối phát chảy tự đáy sâu bên trong tỏa ra bên ngoài không có phân biệt cái gì là tự nhiên, cái gì là siêu nhiên ở nơi cụ, vì siêu nhiên được sống một cách gần như tự nhiên, rất êm ả, nhẹ nhàng, vui tươi, hồn nhiên; đời sống theo tinh thần Chúa Kitô như là tự phát chứ không có gì như phải gò ép, gắng gỏi, khắc khổ mới được. Mà những người tín hữu như vậy khá nhiều, xin dùng một hình ảnh hơi quá mức một tí, tín hữu Việt Nam đôi khi như cá ướp muối, tốt đấy nhưng đôi khi có cái gì cứng cỏi, nặng nề, hơi gò bó trong khuôn khổ của tôn giáo, còn số tín hữu Âu Tây nói trên như cá bơi lội trong nước của niềm tin. Đó là bài học quý giá nhất của tôi trong 9 năm trôi dạt ở Âu Tây. Tín hữu Việt Nam hình như chỉ mới ở mức độ sùng mộ (pieux) đạo đức (honnêteté morale) sốt sắng (ferveur religieuse). Phải chăng về mặt này anh em bên Tin Lành khá hơn? và một số tín đồ Phật giáo, cũng như các nhà nho xưa có lẽ cũng khá hơn? Nói tóm lại, chiều sâu người tín hữu Việt Nam còn chưa đạt đến; phải chăng từ nay đó là hướng cần phải lưu tâm hơn trong mục vụ?
Còn về đời sống xã hội tôi thấy có hai ưu điểm:
- 1. Tôn trọng tự do cá nhân, ít muốn mọi người rập khuôn, chấp nhận sự bất đồng ý kiến một cách dễ dàng, dù có biện tuận nhưng cũng ít gay gắt như muốn thắng cho kỳ được để áp đặt ý mình lên kẻ khác.
- 2. Con người được luật lệ rõ ràng bảo vệ; quyền tư pháp khá tự lập cho nên nhiều vụ án cá nhân và cơ quan nhà nước, phía được kiện lại là tư nhân! Sau nữa, ít có chuyện hách dịch cửa quyền (cửa quyền hiểu theo nghĩa rộng. Ví dụ, cô bán hàng sén trong một dịp hàng hóa thì ít, người mua thì nhiều, vẫn cứ vui vẻ khiêm tốn, chứ không hách dịch, lên mặt trịch thượng với khách hàng) và ngược lại, người ở thế hạ phong cũng ít quị lụy tuồn cúi; bình đẳng dân chủ quả là có thấm nhuần phong tục tập quán của xã hội (đương nhiên đôi khi lại đi quá trớn, rơi vào cá nhân chủ nghĩa, và vô chính phủ – anarchie). Dầu sao, đối với một người vốn sống ở một nền văn hóa xã hội phong kiến nông nghiệp mới thoát khỏi chế độ thuộc địa, thì cũng phải thấy đó là một kinh nghiệm có giá trị. Và điểm cuối cùng là: những người cùng hành nghề với nhau vẫn khen phục nhau, công nhận giá trị cao của nhau một cách dễ dàng (phải chăng là họ khiêm nhường hơn ta, ít lòng đố kị hơn ta?) ít chấp vặt, ít thù dai! ! Xin đặt câu hỏi sau đây (hỏi thôi chứ không dám kết tuận): có phải chăng như vậy là nhờ ở chỗ đã thấm nhuần Kitô giáo lâu đời?
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |