Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
5. BỨC TƯỜNG HỘI THÁNH
Mà đúng thế! trước khi nhìn nhận ra Giêsu Na-da-rét là “con” Thiên Chúa, đối với tín đồ Công giáo, tôi cũng có một thái độ tự tôn như vậy; và xem các tín đồ Công giáo như một lớp người thuộc hạ lưu, không có gì là cao siêu cả! Tôi cho rằng họ có một chút gì dễ thương (đúng hơn là đáng thương hại) của những kẻ thuộc lớp nghèo về nhiều mặt, bị một số giáo sĩ mê hoặc (nếu không muốn nói là lừa bịp) khác nào như một đàn cừu của Panurge! Từ ngữ “con chiên bổn đạo” càng làm ấn tượng ấy thêm nặng nề. Rồi cách các giáo dân xưng hô với linh mục là “lạy cha” quá khúm núm, quá khép nép, như luôn cúi đầu quì gối trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố; quá nhẫn nhục, quá “chịu lụy”, “chịu khó bằng lòng”, luôn phục tùng “lời các cha dạy”, có vẻ “đập đi hô đứng”, ít nhiều như nô lệ! Từ đó dần dần trong trí tôi nổi lên ý nghĩ: Có lẽ giữa Giêsu Na-da-rét với giáo hội Công giáo có một sự khác biệt, một sự lệch lạc nào đó. Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng - cởi mở - tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó! Tôi gần như đồng ý với những kẻ đã cho rằng Giáo hội đã (vô tình hoặc hữu ý) biến lớp người thấp hèn trong xã hội thành một quần chúng luôn cam phận thấp hèn, có lợi cho lớp thống trị, và như vậy Giáo Hội có thể không trung thành với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét, và cái thành kiến cho rằng có một sự đồng loã nào đó giữa đám thực dân và Giáo quyền thời đó và phần lớn hầu hết nằm trong tay các cố Tây dần dần hình thành và ăn sâu vào đầu óc tôi. Các “quan tây thuộc địa” và các “cố Tây” thành một cặp bài trùng. Sự dè dặt của tôi đối với hai linh mục Lefas và Cotté cũng như đối với Giáo quyền Công giáo nói chung (mặc dầu tôi có thiện cảm về mặt cá nhân đối với hai vị ấy và rất khâm phục Giêsu Na-da-rét) bắt nguồn từ cái nhìn như vậy về Giáo quyền. Những từ ngữ như “Giáo Hoàng”, “Đức Cha”, “các Cha”, “các Mẹ”, “các Thầy”... Chỉ gợi lên một hình ảnh quyền lực khống chế, bảo ban dạy dỗ sai khiến - làm cho khuất hẳn cái hình ảnh phục vụ của bà phước trong bệnh viện bài lao trên kia, và nhất là hình ảnh quỳ gối rửa chân cho môn đệ của Giêsu Na-da-rét.
Từ quãng năm '42 đến 45, mặc dù tâm tư tôi đã nhấm nhuần khá sâu đậm một nền văn hoá Kitô giáo, thái độ của tôi là yêu mến Giêsu và đề phòng cảnh giác với Giáo hội Công giáo (có phần nào ghét và sợ). Cái hình ảnh không mấy tốt đẹp về Giáo hội (qua các cố Tây) dưới cặp mắt của tôi lúc ấy, là do tôi nhận xét thực tế mà kết luận như vậy hay do thành kiến được tô đậm qua dư luận của một vùng ảnh hưởng Văn Thân khá sâu sắc? Tôi nghĩ có lẽ là do cả hai! Mà hình như hiện nay và chưa biết đến bao giờ, đối với không ít anh em ngoại giáo, tâm trạng phân biệt giữa Giêsu Na-da-rét mà họ mến phục với Giáo quyền Công giáo mà họ đề phòng, lánh xa (nếu không nói ghét và sợ) và bị phần nào phê bình là đi ngược lại với tinh thần chân chính của Giêsu, vẫn còn là tâm trạng khá phổ biến. Mới cách đây không lâu, một người bạn thân của tôi tâm sự, sau khi trải qua một thời gian lao lung thử thách:
– Anh ạ, trong những ngày gian khổ của tôi, hình ảnh Đức Giêsu là một nguồn an ủi lớn đối với tôi. Thế nhưng lạ thật, mỗi khi vào nhà thờ, tôi chỉ thấy được an ủi khi tôi có một mình, chứ hễ có sự xuất hiện của ông Cha là tôi muốn rút lui!
Tâm trạng ấy sai hay đúng, và lý do tại đâu, ta chưa nói tới, nhưng thật đáng để làm đề tài cho những Kitô hữu có lòng nhiệt thành tông đồ suy nghĩ.
Do đó, tôi cũng như phần đông các anh em ngoại giáo khác, thường có cảnh tình với các dòng tu hơn là với các linh mục triều, vì đó là những cộng đoàn có tính không “Giáo quyền” mà nét khiêm tốn, phục vụ, không nhuốm bụi trần lộ rõ hơn. Tiếc rằng các tu sĩ (trừ những bà phước tại các bệnh viện, cô nhi viện) thường ít lộ diện, còn các Đức Cha Tây đi xe hơi ra vào tòa công sứ, tòa khâm sứ, và các cố làm cha sở có vẻ ít nhiều phách lối, la hét quát tháo ầm ĩ, lại thường phổ biến hơn! Sau tà áo đen của các vị giáo quyền như thấy có lập lòe ngọn lửa của các giàn hỏa thiêu của các tòa “trừng giáo” (inquisition) mà tôi được học qua lịch sử Âu Tây thời Trung cổ, mà điển hình nhất là hình ảnh vị nữ anh hùng cứu quốc Jeanne d’are bị chính một vị Giám Mục kết án hỏa thiêu.
Xin thú nhận rằng: Đã gần 40 năm là tín đồ Công Giáo tuyên xưng xác tín rằng Hội thánh Công giáo Rôma là chính thống tông truyền, nhưng trong tiềm thức tôi, những thành kiến, những hình ảnh, những cảm xúc ấy vẫn còn tiềm tàng trong tôi! Lắm khi chúng vẫn vùng chỗi dậy khiến tôi phải phấn đấu cầu nguyện nhiều mới lướt thắng nổi cái cám dỗ rơi vào bước đi của anh em Tin lành, mà tôi nghĩ rằng dù quá trớn cũng không phải không có những nguyên do mà chúng ta cần suy xét kĩ, rất kĩ để tìm phương xóa bỏ cho tận gốc! Phải tận gốc, vì nếu không thì chỉ trong một hoàn cảnh lịch sử nào đó những cành lá sâu ấy không có dịp lộ ra, chứ nếu hoàn cảnh lịch sử lại đặt vào Hội Thánh những quyền bính giống như thời Trung cổ, thì chúng lại có cơ xuất hiện. Một ví dụ cụ thể: Ngay ở thế kỉ 20 này dưới chế độ Franco tại Tây Ban Nha, các thánh lễ của quân đội đều buộc mọi binh sĩ phải tham dự và lúc dâng Mình Thánh ai không bái quì (dù không phải là tín hữu) thì bị kỉ luật. Ôi thánh lễ tạ ơn, tiệc cưới Con Chiên mà như vậy thì còn gì nữa! Quyền bính nào tự bản chất cũng là sa đọa! (Le pouvoir corrompt par essence). Và ta có thể rút ra hệ luận này: Thời đại nào mà Hội Thánh không có quyền bính nữa gì cả, có lẽ sẽ là thời đại thực sự huy hoàng nhất, đáng vui mừng nhất! Bởi vì lúc ấy khuôn mặt của chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng được tỏ rạng nhất! 2000 năm lịch sử Hội Thánh đã chứng minh rằng đẹp đẽ nhất là những thời đại mà Hội Thánh được hưởng mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám: “Phúc cho người nghèo khó” và “phúc cho các con khi các con bị bách hại vì danh Thầy” còn những lúc “nhân danh Thầy” mà hỏa thiêu người khác thì thôi!!
Tôi vẫn luôn tự hỏi: giả sử thực dân Pháp cứ tồn tại trên đất nước Việt Nam, thì có bao giờ tôi được thanh tẩy trong Hội Thánh Công giáo không? Hoặc giả nếu tôi là người không có đức tin mà sống dưới chế độ của Franco tại Tây Ban Nha thì cũng vậy! Và những tín hữu tân tòng lừng danh ở Pháp như Claudel, Péguy, Maritain, A. Carrel ... Nếu họ sống dưới triều đại của Louis 14 thì họ có theo đạo không? Và ngay cả Thánh Phaolô, nếu không chứng kiến cái chết của Thánh Tê-pha-nô, thì chưa chắc đã trở nên vị tông đồ số một của Hội Thánh! Nhiệm mầu thay mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám. Ngược lại hai mối phúc ấy thì chỉ là họa, đại nhục cho Hội Thánh. Nói quá lời một chút cho dễ hiểu: Thay vì căm hờn oán ghét những bàn tay bách hại, có lẽ ta nên quì gối hôn lên những bàn tay ấy mà tạ ơn Chúa, vì chúa đã dùng bàn tay ấy để giúp môn đệ của Ngài thực nên giống hình ảnh của Ngài, làm chứng về Ngài giữa các anh chị em chưa biết rõ chân tướng của Ngài, chân tướng đôi khi bị hoen ố vì những bàn tay lem luốc của ta!... Lẽ dĩ nhiên, ta cũng phải cầu nguyện cho họ, cầu nguyện trong thương yêu chứ không phải a tòng xu nịnh để cho họ nương tay.
Trên đây là những suy diễn có tính cách chủ quan, chứ không tham vọng nêu lên những nguyên lý phổ quát, không dám tự cho rằng nó là đúng, mà chỉ là những cảm nghĩ thành thực về phía bản thân, một trường hợp cụ thể của một con người đã gặp phải những gì vướng mắc trên đường trở về với Chúa mà thôi. Nhưng dầu sao, đối với bản thân cá nhân tôi thì trên thực tế lịch sử: năm 1945 là một khúc quanh vô cùng có ý nghĩa, vô cùng trọng đại: cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính được quét sạch, khởi từ cuộc đảo chính Nhật rồi tiếp đến là Cách mạng mùa thu. Cái vỏ “cố Tây” được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị “thừa sai” của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard chẳng hạn. Tôi thấy rõ như vậy qua hình ảnh một linh mục Pháp trước thuộc Ban Giám hiệu trường Thiên Hựu sau thuyên chuyển ra làm cha xứ ở Quảng Bình, đến năm 1945 được về tập trung tại thà thờ Cầu Rầm ở Vinh. Nếu trên kia, tôi có nói rằng: hình ảnh ông thầy đã phần nào cứu vớt hình ảnh ông quan nơi thân phụ tôi, thì ở đây có cái gì tương tự: hình ảnh vị “thừa sai ngoại quốc” rời bỏ quê nhà sang Việt Nam, đem Tin vui của Chúa Kitô và bị tập trung tại cầu Rầm đã cứu vớt hình ảnh vị “cố Tây” đã khá in sâu trong tâm trí người ngoại giáo trước 1945. Cũng như hình ảnh vị Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945.
Năm 1945 quả thật là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi.
Đây là một câu hỏi luôn luôn trở lại trong tâm trí tôi: nếu không có năm '45 thì tương quan của tôi với Hội Thánh sẽ như thế nào? cũng như có anh bạn tôi ở miền Nam, tòng giáo năm 1963, khi trao đổi thường đặt câu hỏi: nếu không có năm 1963 thì không biết tương quan giữa anh ấy với Hội thánh sẽ ra sao? Vì trước đó anh thấy các Giám Mục quá gần gũi với Tổng thống, bộ trưởng, tỉnh trưởng và quận trưởng. Còn đối với một số anh chị em khác thì năm 1975 cũng đem lại cái gì tương tự như năm 1945 đối với tôi!
Mà đúng thế! trước khi nhìn nhận ra Giêsu Na-da-rét là “con” Thiên Chúa, đối với tín đồ Công giáo, tôi cũng có một thái độ tự tôn như vậy; và xem các tín đồ Công giáo như một lớp người thuộc hạ lưu, không có gì là cao siêu cả! Tôi cho rằng họ có một chút gì dễ thương (đúng hơn là đáng thương hại) của những kẻ thuộc lớp nghèo về nhiều mặt, bị một số giáo sĩ mê hoặc (nếu không muốn nói là lừa bịp) khác nào như một đàn cừu của Panurge! Từ ngữ “con chiên bổn đạo” càng làm ấn tượng ấy thêm nặng nề. Rồi cách các giáo dân xưng hô với linh mục là “lạy cha” quá khúm núm, quá khép nép, như luôn cúi đầu quì gối trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố; quá nhẫn nhục, quá “chịu lụy”, “chịu khó bằng lòng”, luôn phục tùng “lời các cha dạy”, có vẻ “đập đi hô đứng”, ít nhiều như nô lệ! Từ đó dần dần trong trí tôi nổi lên ý nghĩ: Có lẽ giữa Giêsu Na-da-rét với giáo hội Công giáo có một sự khác biệt, một sự lệch lạc nào đó. Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng - cởi mở - tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó! Tôi gần như đồng ý với những kẻ đã cho rằng Giáo hội đã (vô tình hoặc hữu ý) biến lớp người thấp hèn trong xã hội thành một quần chúng luôn cam phận thấp hèn, có lợi cho lớp thống trị, và như vậy Giáo Hội có thể không trung thành với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét, và cái thành kiến cho rằng có một sự đồng loã nào đó giữa đám thực dân và Giáo quyền thời đó và phần lớn hầu hết nằm trong tay các cố Tây dần dần hình thành và ăn sâu vào đầu óc tôi. Các “quan tây thuộc địa” và các “cố Tây” thành một cặp bài trùng. Sự dè dặt của tôi đối với hai linh mục Lefas và Cotté cũng như đối với Giáo quyền Công giáo nói chung (mặc dầu tôi có thiện cảm về mặt cá nhân đối với hai vị ấy và rất khâm phục Giêsu Na-da-rét) bắt nguồn từ cái nhìn như vậy về Giáo quyền. Những từ ngữ như “Giáo Hoàng”, “Đức Cha”, “các Cha”, “các Mẹ”, “các Thầy”... Chỉ gợi lên một hình ảnh quyền lực khống chế, bảo ban dạy dỗ sai khiến - làm cho khuất hẳn cái hình ảnh phục vụ của bà phước trong bệnh viện bài lao trên kia, và nhất là hình ảnh quỳ gối rửa chân cho môn đệ của Giêsu Na-da-rét.
Từ quãng năm '42 đến 45, mặc dù tâm tư tôi đã nhấm nhuần khá sâu đậm một nền văn hoá Kitô giáo, thái độ của tôi là yêu mến Giêsu và đề phòng cảnh giác với Giáo hội Công giáo (có phần nào ghét và sợ). Cái hình ảnh không mấy tốt đẹp về Giáo hội (qua các cố Tây) dưới cặp mắt của tôi lúc ấy, là do tôi nhận xét thực tế mà kết luận như vậy hay do thành kiến được tô đậm qua dư luận của một vùng ảnh hưởng Văn Thân khá sâu sắc? Tôi nghĩ có lẽ là do cả hai! Mà hình như hiện nay và chưa biết đến bao giờ, đối với không ít anh em ngoại giáo, tâm trạng phân biệt giữa Giêsu Na-da-rét mà họ mến phục với Giáo quyền Công giáo mà họ đề phòng, lánh xa (nếu không nói ghét và sợ) và bị phần nào phê bình là đi ngược lại với tinh thần chân chính của Giêsu, vẫn còn là tâm trạng khá phổ biến. Mới cách đây không lâu, một người bạn thân của tôi tâm sự, sau khi trải qua một thời gian lao lung thử thách:
– Anh ạ, trong những ngày gian khổ của tôi, hình ảnh Đức Giêsu là một nguồn an ủi lớn đối với tôi. Thế nhưng lạ thật, mỗi khi vào nhà thờ, tôi chỉ thấy được an ủi khi tôi có một mình, chứ hễ có sự xuất hiện của ông Cha là tôi muốn rút lui!
Tâm trạng ấy sai hay đúng, và lý do tại đâu, ta chưa nói tới, nhưng thật đáng để làm đề tài cho những Kitô hữu có lòng nhiệt thành tông đồ suy nghĩ.
Do đó, tôi cũng như phần đông các anh em ngoại giáo khác, thường có cảnh tình với các dòng tu hơn là với các linh mục triều, vì đó là những cộng đoàn có tính không “Giáo quyền” mà nét khiêm tốn, phục vụ, không nhuốm bụi trần lộ rõ hơn. Tiếc rằng các tu sĩ (trừ những bà phước tại các bệnh viện, cô nhi viện) thường ít lộ diện, còn các Đức Cha Tây đi xe hơi ra vào tòa công sứ, tòa khâm sứ, và các cố làm cha sở có vẻ ít nhiều phách lối, la hét quát tháo ầm ĩ, lại thường phổ biến hơn! Sau tà áo đen của các vị giáo quyền như thấy có lập lòe ngọn lửa của các giàn hỏa thiêu của các tòa “trừng giáo” (inquisition) mà tôi được học qua lịch sử Âu Tây thời Trung cổ, mà điển hình nhất là hình ảnh vị nữ anh hùng cứu quốc Jeanne d’are bị chính một vị Giám Mục kết án hỏa thiêu.
Xin thú nhận rằng: Đã gần 40 năm là tín đồ Công Giáo tuyên xưng xác tín rằng Hội thánh Công giáo Rôma là chính thống tông truyền, nhưng trong tiềm thức tôi, những thành kiến, những hình ảnh, những cảm xúc ấy vẫn còn tiềm tàng trong tôi! Lắm khi chúng vẫn vùng chỗi dậy khiến tôi phải phấn đấu cầu nguyện nhiều mới lướt thắng nổi cái cám dỗ rơi vào bước đi của anh em Tin lành, mà tôi nghĩ rằng dù quá trớn cũng không phải không có những nguyên do mà chúng ta cần suy xét kĩ, rất kĩ để tìm phương xóa bỏ cho tận gốc! Phải tận gốc, vì nếu không thì chỉ trong một hoàn cảnh lịch sử nào đó những cành lá sâu ấy không có dịp lộ ra, chứ nếu hoàn cảnh lịch sử lại đặt vào Hội Thánh những quyền bính giống như thời Trung cổ, thì chúng lại có cơ xuất hiện. Một ví dụ cụ thể: Ngay ở thế kỉ 20 này dưới chế độ Franco tại Tây Ban Nha, các thánh lễ của quân đội đều buộc mọi binh sĩ phải tham dự và lúc dâng Mình Thánh ai không bái quì (dù không phải là tín hữu) thì bị kỉ luật. Ôi thánh lễ tạ ơn, tiệc cưới Con Chiên mà như vậy thì còn gì nữa! Quyền bính nào tự bản chất cũng là sa đọa! (Le pouvoir corrompt par essence). Và ta có thể rút ra hệ luận này: Thời đại nào mà Hội Thánh không có quyền bính nữa gì cả, có lẽ sẽ là thời đại thực sự huy hoàng nhất, đáng vui mừng nhất! Bởi vì lúc ấy khuôn mặt của chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng được tỏ rạng nhất! 2000 năm lịch sử Hội Thánh đã chứng minh rằng đẹp đẽ nhất là những thời đại mà Hội Thánh được hưởng mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám: “Phúc cho người nghèo khó” và “phúc cho các con khi các con bị bách hại vì danh Thầy” còn những lúc “nhân danh Thầy” mà hỏa thiêu người khác thì thôi!!
Tôi vẫn luôn tự hỏi: giả sử thực dân Pháp cứ tồn tại trên đất nước Việt Nam, thì có bao giờ tôi được thanh tẩy trong Hội Thánh Công giáo không? Hoặc giả nếu tôi là người không có đức tin mà sống dưới chế độ của Franco tại Tây Ban Nha thì cũng vậy! Và những tín hữu tân tòng lừng danh ở Pháp như Claudel, Péguy, Maritain, A. Carrel ... Nếu họ sống dưới triều đại của Louis 14 thì họ có theo đạo không? Và ngay cả Thánh Phaolô, nếu không chứng kiến cái chết của Thánh Tê-pha-nô, thì chưa chắc đã trở nên vị tông đồ số một của Hội Thánh! Nhiệm mầu thay mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám. Ngược lại hai mối phúc ấy thì chỉ là họa, đại nhục cho Hội Thánh. Nói quá lời một chút cho dễ hiểu: Thay vì căm hờn oán ghét những bàn tay bách hại, có lẽ ta nên quì gối hôn lên những bàn tay ấy mà tạ ơn Chúa, vì chúa đã dùng bàn tay ấy để giúp môn đệ của Ngài thực nên giống hình ảnh của Ngài, làm chứng về Ngài giữa các anh chị em chưa biết rõ chân tướng của Ngài, chân tướng đôi khi bị hoen ố vì những bàn tay lem luốc của ta!... Lẽ dĩ nhiên, ta cũng phải cầu nguyện cho họ, cầu nguyện trong thương yêu chứ không phải a tòng xu nịnh để cho họ nương tay.
Trên đây là những suy diễn có tính cách chủ quan, chứ không tham vọng nêu lên những nguyên lý phổ quát, không dám tự cho rằng nó là đúng, mà chỉ là những cảm nghĩ thành thực về phía bản thân, một trường hợp cụ thể của một con người đã gặp phải những gì vướng mắc trên đường trở về với Chúa mà thôi. Nhưng dầu sao, đối với bản thân cá nhân tôi thì trên thực tế lịch sử: năm 1945 là một khúc quanh vô cùng có ý nghĩa, vô cùng trọng đại: cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính được quét sạch, khởi từ cuộc đảo chính Nhật rồi tiếp đến là Cách mạng mùa thu. Cái vỏ “cố Tây” được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị “thừa sai” của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard chẳng hạn. Tôi thấy rõ như vậy qua hình ảnh một linh mục Pháp trước thuộc Ban Giám hiệu trường Thiên Hựu sau thuyên chuyển ra làm cha xứ ở Quảng Bình, đến năm 1945 được về tập trung tại thà thờ Cầu Rầm ở Vinh. Nếu trên kia, tôi có nói rằng: hình ảnh ông thầy đã phần nào cứu vớt hình ảnh ông quan nơi thân phụ tôi, thì ở đây có cái gì tương tự: hình ảnh vị “thừa sai ngoại quốc” rời bỏ quê nhà sang Việt Nam, đem Tin vui của Chúa Kitô và bị tập trung tại cầu Rầm đã cứu vớt hình ảnh vị “cố Tây” đã khá in sâu trong tâm trí người ngoại giáo trước 1945. Cũng như hình ảnh vị Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945.
Năm 1945 quả thật là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi.
Đây là một câu hỏi luôn luôn trở lại trong tâm trí tôi: nếu không có năm '45 thì tương quan của tôi với Hội Thánh sẽ như thế nào? cũng như có anh bạn tôi ở miền Nam, tòng giáo năm 1963, khi trao đổi thường đặt câu hỏi: nếu không có năm 1963 thì không biết tương quan giữa anh ấy với Hội thánh sẽ ra sao? Vì trước đó anh thấy các Giám Mục quá gần gũi với Tổng thống, bộ trưởng, tỉnh trưởng và quận trưởng. Còn đối với một số anh chị em khác thì năm 1975 cũng đem lại cái gì tương tự như năm 1945 đối với tôi!
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |