Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
LỜI KẾT
ĐƯỜNG CHÚA ĐƯA TÔI VỀ
Đã gọi là “mua vui” thì tôi xin mời các bạn, ta giả sử như sau: Thân phụ tôi đậu đại khoa, làm quan đến Nhất phẩm đời vua Minh Mạng (là thời thịnh trị nhất của nhà Nguyễn) và như thế thì tôi lúc 61 tuổi có thể cũng là một cụ Nghè, một cụ Thượng hồi hưu? có phong ấp giữa sự kính nể của nhân dân, con cháu sung vầy, sống trong một thời tạm gọi là có vài nét của Nghiêu Thuấn xa xưa! Đứng về mặt tâm lý tự nhiên, đó là giấc mơ thâm sâu nhất trong tiềm thức tôi, chảy trong huyết thống tôi, có lẽ bắt đầu từ cụ tổ Nguyễn Khắc Vặn, đời Lê Trung hưng, cả một cây gia phả Nho gia mà thân phụ tôi là đóa hoa cuối cùng, “nở bất phùng thời” như lời vua Thành Thái nói với người trong sân rồng, lúc thi Đình. Một giấc mơ tiêu biểu một sự tàn lụi, mà năm 1945 chỉ là giây phút cuối cùng chứ có lẽ đã bắt dầu từ khi vua Hàm Nghi bị bắt và cụ Phan Đình phùng mất đi, để lại một phong trào Cần Vương tan rã. Sau đó có lẽ đã nỗ lực bừng lên một lần nữa phong trào Kỳ ngoại hầu Cường Để, với hình ảnh đẹp đẽ của cụ Phan Bội Châu, nhưng hoàn toàn bị dập tắt hẳn dưới gót sắt của phát xít Nhật! Chiếu thoái vị của Bảo Đại chỉ là một dư âm của một bóng ma trên cửa Ngọ môn.
“Nghiêu Thuấn”, “tu tề trị bình”, “chí ư chi thiện”, đó là cái mầm lý tưởng đã được gieo vào đáy tâm hồn tôi! Nhưng khi biết suy nghĩ thì cái mầm ấy đã chết hẳn rồi. Tất cả những gì bi quan yếm thế tận đáy tâm hồn tôi có thể bắt nguồn từ đó. Thế giới lý tưởng của Nho giáo có thể ví như vườn địa đàng, mà người con của thân phụ tôi bị đuổi ra vĩnh viễn như A-đam vậy. Mà kẻ phạm tội phải chăng là triều thần thời Tự Đức đã không nghe lời cụ Nguyễn Trường Tộ? Cũng không chắc là nếu cụ Nguyễn Trường Tộ được nghe theo thì tại nước Việt Nam ngày nay có một nền văn hóa tổng hợp hài hòa được lý tưởng Nghiêu Thuấn và văn minh cơ giới Âu Tây hay không (không chắc lắm, vì xem như Nhật Bản bây giờ thì cuối cùng hoàn toàn là một dạng văn minh cơ giới hóa rơi vào quỹ đạo của tư bản Mỹ). Nhưng với sự suy vong của nhà Nguyễn, là nền văn hóa cơ giới Âu Tây hoàn toàn thắng. Cái tuyệt vọng của các nhà Nho trên nước Việt Nam này đã thấm vào hồn tôi qua giọng ngâm thơ trầm buồn của thân phụ tôi trong ánh hoàng hôn ở thành nội Huế. Tôi gần như hoàn toàn dị ứng với nền văn hóa Âu Tây. Chính vì thế mà Pascal trở nên lôi cuốn đối với tôi, và thái độ hờ hừng với thế cuộc cũng do đó mà ra. Bởi vì cái nền văn hóa Âu Tây hiện nay đang bành trướng khắp thế giới (dưới bất cứ dạng nào) thật khác hẳn với các nền văn hóa ngoại giáo (païen) như văn hóa cổ đại trước công nguyên, hay các nền văn hóa khác trước lúc chủ nghĩa thực dân và đế quốc lan rộng. Các văn hóa này có cái gì đó vô tội (innocent), trinh nguyên (vierge) có khi lên cao nhờ ánh sáng lý trí tự nhiên (Khổng, Lão, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Platon, Aristote) có giá trị lành mạnh (sain) một cách tự nhiên. Còn cái văn minh Âu Tây sau thế kỷ 16 là văn minh của thời Phục Hưng ở châu Âu, một nền văn minh đã phản Chúa, bỏ Chúa, trở lại với cổ đại, sau hơn 1000 năm được nuôi dưỡng bởi Kitô giáo. Nó không có sự hồn nhiên vô tội trinh nguyên (pré-adamique) như các văn hóa ngoại giáo tự nhiên (païen), nhưng ngược lại, nó có mầm mống phản thần (Anti-théisme) của một kẻ phản Chúa! Nó không còn là minh triết (sagesse) tự nhiên vô tội mà là cái “khôn ngoan” của ma quỷ, như thánh Phaolô đã mô tả! Phản ứng của các nhà Nho thời Tự Đức không phải là không có lý do của nó. Ngay cả vụ án Galilée cũng vậy. Bên trong cái khoa học kỹ thuật, có một chất độc như quả cấm vườn địa đàng là quả của sự biết, cái “biết” của Xảo Trí (intelligence satanique) chứ không phải của Trí Huệ Nhân loại tự nhiên (Sagesse naturelle humaine), lại càng không phải là Thánh Trí (Sagesse divine).
Sự thất bại của một ước mơ Nghiêu Thuấn, thật ra không phải đợi đến năm 45, năm 75 hay là bất cứ năm nào, bất cứ một biến cố nào mới làm thất vọng những tâm hồn vốn khát khao một cái gì hoàn hảo. Chỉ nói ngay tại Việt Nam, ngày trước các nhà Nho cuối triều Nguyễn có cả một chuỗi nhà nho rút lui ẩn dật vì thấy cuối cùng điều mơ ước của mình thấy không đạt: La Sơn Phu Tử, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An và Tô Hiến Thành (dưới một dạng nào đó), kể cả một người đã thành đạt lẫy lừng như Nguyễn Trãi. Và ngay từ ban đầu, cụ Khổng chu du khắp thiên hạ, thấy vương đạo chẳng ai chịu thi hành, cuối cùng đành rút lui về dạy học! Đối thoại giữa Mạnh Tử và Lương Huệ Vương về nghĩa và lợi có thể có một giá trị muôn đời. Xét theo thời thế hiện tượng bên ngoài thì cuối cùng, ở trần gian này, lợi vẫn thắng nghĩa, bạo tàn chà đạp nhân ái. Do đó, cả một dòng tư tưởng yếm thế mà hình ảnh là Sào Phủ và Hứa Do, ẩn dật lánh cõi đời ô trọc để ít là giữ lấy phẩm hạnh của bản thân mình: “Độc thiện kỳ thân”. Suy cho thật kỹ, có lẽ một nhà Nho bất dắc dĩ, sinh bất phùng thời, treo ấn từ quan, mây ngàn hạc nội mới là giấc mộng đầu tiên tự đáy tiềm thức của tôi: Đào Tiềm, Bạch Vân, Hạnh Am, Tố Như, các nhà Nho như Võ Liêm Sơn, Võ Bá Hạp, Nguyễn Mai (chắt đích tôn của cụ Nguyễn Du) và một số các cụ tú, cụ cử, cụ phó bảng, cụ nghè không ra làm quan vẫn như có sức hấp dẫn lôi cuốn tôi. Trước 45, các thày Tạ Quang Bửu, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh ở Huế, Đặng Thái Mai ở Hà Nội, không phải không có ít nhiều dáng nét nhà Nho (hiểu theo nghĩa rộng: kẻ sĩ) bất phùng thời ra dạy học. Và tôi tự hỏi, trừ 30 năm 45-75 mà dân tộc ta bước lên đài vinh quang của cuộc kháng chiến lẫy lừng trong đó kẻ sĩ được phùng thời (mà dại tướng Võ Nguyên Giáp có lẽ là tiêu biểu), nhưng từ 75 trở về sau rồi sẽ ra sao? Xin dành cho lịch sử trả lời. Tôi chỉ xin đặt câu hỏi thôi, và hình như hình ảnh Phạm Lãi là câu giải đáp!
Đó là nói về lý tưởng xã hội Nghiêu Thuấn với “vương đạo” còn lý tưởng con người cá nhân theo đạo thánh hiền thì: Khổng Tử, Chu Công là thuộc về quá khứ hoàng kim: còn suốt hơn 2000 năm qua, ở Viễn Đông chỉ có 2 vị là được hậu thế tôn vinh lên bậc “hiển thánh”: Quan Vân Trường ở Trung Quốc và Trần Quốc Tuấn ở Việt Nam. Cụ Khổng cuối cùng chỉ được hai người học trò giỏi mà thôi! Thế nhưng dưới gót ngựa của 2 vị hiển thánh ấy, suy cho cùng, bao nhiêu là xương máu! Có Vương Đạo, có Thánh hiền đi nữa, trần gian cũng đầy nước mắt mồ hôi và xương máu. Huống chi là khi bá đạo và tiểu nhân lên nắm mối giềng thiên hạ! Giấc mơ đại đồng của cụ Khổng phải chăng là giấc mơ địa đàng đã vĩnh viễn khép cửa, và chỉ mở ra khi Con Người trở lại? Xin thú thực ở đây rằng: hình ảnh nhà Nho bất phùng thời cũng làm cho tôi không mấy tin tưởng về tác dụng thiết thực của các thông điệp của các vị Giáo Hoàng về vấn đề xã hội trần thế. Khác nào lời rao giảng của Yoan Tiền hô giữa sa mạc. Thiên hạ không chặt đầu cho là may lắm rồi! Bởi vì phe nào cũng sẽ bất bình và đổ lỗi cho là người nằm vùng của phe kia. Cũng tựa như Tổng Giám mục Paris bị tử nạn khi liều thân ra can ngăn cuộc tương tàn trong biến cố Paris công xã.
Biết thế nhưng rồi, như trong bài thơ vịnh cuộc đời của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi đã có câu: “Tình dân nghĩa nước ai không nặng”. Cho mãi đến năm 75 tôi vẫn cứ bồn chồn về thời cuộc. Kể cũng thật vô tích sự! Bồn chồn một cách vô vọng, vô tác dụng, chỉ mong được tất cả không cảm cho rằng: ít nhất tôi cũng như nhân vật Trajan trong cuốn “Giờ thứ 25” thấy mọi người bị mưa tuyết dãi dầu, mình đứng yên dưới mái nhà không đành, nên cũng ra đứng ngoài trời, ít ra là cùng chung số phận với anh em. Năm 65 tôi về Việt Nam, hầu hết bạn bè ở Pháp, ngay cả vị giáo sư bảo trợ luận án tiến sĩ cũng bảo tôi là điên! Rõ ràng “Cây cao bóng mát không ngồi, em ra đứng nắng trách trời không im”. Thay vì an bình trong một viện tu trên bờ hồ Leman, hay một ghế dạy học ở Pháp hoặc một công tác ở Unesco như một số bạn bè, lại khăn gói về Việt Nam để chẳng làm nên tích sự gì cả về bất cứ bình diện nào! Có chăng là còn để lại cái gì trong hoài niệm của một vài sinh viên đang khuya gõ cửa vào xin trú ngụ qua đêm rồi sáng mai lại rũ áo ra đi, hay của một bạn cùng trại học tập, chia đôi miếng đường tán cuối cùng, một viên Tyfomycine cuối cùng (với một đêm nguyện cầu phấn đấu như đã thuật lại trên kia) và cuối hết là những dòng mua vui tẻ nhạt này? Paul Claudel hình như có lời kinh xin Chúa ban cho được như hạt bụi trên quãng đường xa khách hộ hành đạp chân lên, bước qua đi không hề hay. Đúng, miễn là không đến nỗi như cái gai hay viên đá nhọn đâm thủng chân khách qua đường là tạm được. Nếu Chúa ban cho như gốc cây quán nước, khách ghé lại dừng chân chốc lát rồi lại ra đi, thì cũng là quá sức hèn mọn của mình rồi, chỉ nhờ ơn Chúa ban mới được đó mà thôi.
Giấc mộng Nghiêu Thuấn không thành, và động Phi Lai cũng không cầm chân được, nên rồi lại lủi thủi rời khỏi thiên thai (giây phút rời bỏ dòng Biển Đức trở về cõi tục) để trở lại cuộc đời lưu lạc, để như Từ Thức thấy mình lạc lõng bơ vơ làm thân một “moine manqué”, - manqué: “lỡ tàu”, bất phùng thời. Nhưng thời ở đây là thời vạn kỷ thiên thu của một cõi trần đã tách lìa cùng Thiên Chúa, không còn mong một cuộc tao phùng nào nữa!
“Cửa động đầu non đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!”
Mà trần gian có gì lôi cuốn hấp dẫn tôi đâu? Tại sao tôi lại từ giã non tiên để trở về cõi tục như vậy? Hình ảnh Trajan trên kia chẳng qua chỉ là tự biện minh và tự an ủi! Âu cũng chỉ còn biết nhắm mắt phó thác cho Lượng từ bi vô cùng vô tận vô biên của Thiên Chúa mà thôi!
Rồi lại một giấc mộng thứ hai mà tôi tạm đặt tên là giấc mộng “Kim Kiều”. Đối với nhà Nho nào đó (và có lẽ đối thân phụ tôi cũng thế? ). Ái tình là zéro. Nhưng đối với cậu bé đã đọc trộm “tiểu thuyết thứ bảy” và các tiểu thuyết trữ tình của phong trào lãng mạn, từ “giọt lệ thu” của Tương Phố, cho đến “Bướm trắng” của Nhất Linh, đã khóc sướt mướt khi đi xem tuồng cải lương “Tắt lửa lòng” do nữ danh ca Năm Phỉ đóng vai Lan, đã thuộc từng đoạn dài của “Đoạn trường tân thanh”, cộng thêm vào những vần thơ của Lamartine, những đoạn văn của Chateaubriand, đã đọc đi đọc lại bao nhiêu lần “Paul et Virginie”. Atala et René” thì ái tình lại được tuyệt đối hóa dưới dạng “thất tình”, toàn là những mối tình bất khả; Ái tình là tất cả mà kết quả lại là zéro! Trong tiềm thức tự nhiên và ngoại giáo (païen) đã như in sâu cái cảm thức hôn nhân và tình yêu là mâu thuẫn! Đúng hay sai về phương diện tâm lý, thể lý, triết lý và thần học thì không nói tới, nhưng tâm hồn tôi là như vậy. Một cảm thức (đúng hơn là quan niệm) hoàn toàn platonique về ái tình! Tâm chứng của tôi có lẽ phần nào bắt nguồn từ đó. Lúc được tiếp cận với chân lý Kitô giáo về ái tình và hôn nhân trong bí tích hôn phối thì quá trễ, và hoàn cảnh gia đình, xã hội lại không thuận lợi cho việc lập gia đình, cho nên mãi đến nay - việc tôi sống độc thân cũng là một cái gì dang dở? không phải là tự nguyện hy sinh một hạnh phúc vì tình yêu Thiên Chúa, cũng không phải là sợ gánh nặng thê nhi (trái lại, nhiều lúc tôi hối tiếc không có kẻ thừa kế để dòng họ Nguyễn Khắc có kẻ thờ phượng Chúa mai sau); nhưng hình như trong tiềm thức (hay siêu thức?) vẫn có cảm thức rằng ở trần gian này không thể có tình yêu hoàn hảo, cũng tương tự như ở trần gian này không có vương đạo; Nghiêu Thuấn chỉ là huyền thoại, thì Kim-Kiều có tái hợp cũng chỉ là “đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ”. Lời reo vui của Adam phút đầu tiên được thấy Eva cuối cùng kết thúc là một lời đổ lỗi chối quanh: “Tại người nữ mà tôi ăn quả cây cấm”.
Bức ảnh Thánh Tâm với Yoan Tông đồ dựa ngực mà tôi được lãnh thưởng thuở 14, 15 khi còn là ngoại giáo, và mối tình giữa Phanxicô nghèo khó và Chúa Giêsu, giữa Têrêxa Hài Đồng với Chúa Giêsu, như chỉ cho tôi thấy mộng Kim-Kiều chỉ thực hiện được và đã được thực hiện trong trái tim của Con Người Nadaret đã bị lưỡi giáo đâm thâu. Và tôi học thuộc lòng đoạn cuối của bài “Hiến dâng cho tình yêu xót thương của Thiên Chúa” mà Têrêxa Hài Đồng đã đọc vào lễ Chúa Ba Ngôi năm l895; không phải tôi dám tự dâng mình như Thánh nhân, nhưng để ngước mắt nhìn lên một ánh đuốc soi đường. Và từ đó tôi luôn bị ám ảnh bởi một cuộc đời tu trì chiêm niệm và nguyện gẫm (oraison) là nền tảng cho linh đạo dòng Cát Minh; Đó là nguyên nhân của những bất ổn trong những năm ở dòng Phanxicô sau khi mãn thời gian nhà tập. Và đây là cả một sự lệch bước sa lầy kéo dài có thể nói là từ năm l951 đến năm 1984: trên 30 năm trời, mà trên đây tôi đã tạm gọi như là lệch bước “ngộ đạo” (gnosticisme) và đời thần hiệp (mystique) một cách ít nhiều vô thức!
Chúng ta biết rằng tình yêu lý tưởng (platonique) một mặt vẫn là duy kỷ (amour de concupiscence) vẫn là Eros, là một chuyển vận khao khát có vẻ hướng thượng từ dưới vươn lên cao, nhưng cuối cùng cũng chỉ là tìm thỏa mãn cho mình (dù là mình tâm linh cũng chỉ là mình bằng cách chiến hữu một đối tượng lấp đầy một khao khát của mình). Tình yêu này hoàn toàn duy kỷ và vị kỷ! Do đó, tính cách hướng thượng ở đây rất đáng đề phòng, chính vì nó có tính cách cao thượng. Như câu Ngọc nói với Lan trong “Hồn bướm mơ tiên”: “yêu trong tâm hồn trong lý tưởng”, nghe qua thì cao đẹp biết bao! Nhưng tình yêu ấy thật ra cuối cùng cũng chỉ là một “hưởng thụ” trong tinh thần nhưng vị kỷ. Xin dùng một từ hơi thô tục: là một cuộc “thủ dâm” tinh thần tay đôi mà đơn độc! “thủ dâm tinh thần” vì cuối cùng, đương sự tìm thoả mãn vị kỷ trong sự xúc cảm thiêng liêng đầy an ủi ngọt ngào (consolation spirituelle, douceur spirituelle) và luôn muốn được hưởng thụ (jouir) qua một sự cảm xúc tự thức thực nghiệm (expérience sentie, vécue, directe, consciente) cuối cùng trở thành một sự dính bén, ham hố, hưởng thụ, hoàn toàn là một dục vọng, cho dù là thiêng liêng cũng chỉ là dục vọng, là một sự “tham lam thiêng liêng” (gourmandise spirituelle). Tâm hồn cuối cùng cũng chỉ đi tìm khoái lạc dù là khoái lạc thiêng liêng. Tự nó thì không có gì là xấu, cũng như bất cứ khoái lạc vật chất nào, tự nó không là xấu: ăn ngon, hiếu tri, thẩm mỹ, khoái cảm ái ân – đều là do Thiên Chúa tạo ra cho con người sử dụng để tự thể hiện chính mình. Thế nhưng, nếu bám víu một cách ham hố, hưởng thụ một cách duy kỷ và vị kỷ thì đều là một thứ “thủ dâm” cả. Và còn nguy hiểm hơn cả thủ dâm phần xác, vì nó tế nhị, tinh vi khó lật tẩy cho lộ diện ra. Tham ăn, dâm dật thì ai cũng biết là xấu: còn tìm kiếm bám víu sự “ngọt ngào an ủi thiêng liêng” với thái độ hưởng thụ duy kỷ, thì khó lòng nhận diện. Tệ hơn lại còn bị lầm tưởng rằng vậy là yêu mến Chúa: Quả là thần sự tối khoác áo thần sự sáng một cách tinh vi.
Đọc Têrêxa Hài Đồng và Yoan Thánh giá, đáng lẽ ra tôi phải ý thức điều ấy mà cảnh giác, thế nhưng cái nếp “tình yêu lý tưởng” (amour platonique) đã quá ăn sâu vào tiềm thức nên có thể nói: tôi như bị một tấm màn che mắt không cho thấy. Tôi tự hỏi có phải vì tấm màn che mặt quá dầy mà Chúa phải để cho tôi “trầy da tróc vẩy” trên 30 năm trời, như dân Chúa lạc lõng 40 năm trong sa mạc, mới chọc thủng tấm màn ấy chăng? Tôi đã hiểu câu: “Ai khát hãy đến” một cách “xác thịt” (xác thịt được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh: chair et esprit, “charnelle” chứ không hiểu theo Platon: corps et âme). Do đó mà tôi gọi 30 năm ấy là một cuộc “mộng du”. Thay vì mộng Nghiêu Thuấn & Kim Kiều, tôi đã theo đuổi mộng “thiên thai” ngụy trang dưới tà áo của Đức Mẹ núi Cát Minh.
Nhưng đây lại là PHÉP LẠ VÔ CÙNG VĨ ĐẠI: Tà áo Đức Mẹ núi Cát Minh, dù bàn tay tội lỗi của tôi đã dùng làm ngụy trang, vẫn đủ quyền năng cứu rỗi hồn tôi. Những hoa hồng do bàn tay Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã ngắt từng đóa lót dưới chân Chúa Giêsu, từ những bước ngày thơ ấu cho đến chặng đường cuối lên núi Sọ, cuối cùng cũng mở mắt tôi ra cho tôi thấy mình đã lạc đường. Và giây phút ấy là đêm 30-3-1975 lúc tôi nằm dưới đường mương sau nhà Hòa Lạc, nhìn trường Võ Bị của chế độ cũ miền Nam: mìn nổ, đạn nổ, lửa bốc lưng trời, như một giờ tận thế. Do đó, tôi đã gọi năm 75 là cuộc “trở lại thứ hai” của tôi tưởng không quá lời! Và hình như đối với nhiều tâm hồn khác, năm 1975 cũng là năm của một cuộc trở lại thứ hai, và đồng thời cũng là năm của nhiều cuộc trở lại thứ nhất, như tôi đã được sống trong những năm 45-49 về trước (sau 75 cũng có nhiều người tòng giáo như tôi năm l949).
Có một điều rất lạ, là cuộc trở lại lần đầu của tôi đã do tự một mình tôi mò mẫm và nhờ biến cố khách quan như xô đẩy, thì cuộc trở lại lần thứ hai cũng vậy: tôi đã gặp nhiều Linh mục giàu kinh nghiệm về đời sống nội tâm, mà không có một vị nào nói cho tôi thấy điều tôi phân tích trên. Nói thế bởi lẽ chính tôi đã đọc Têrêxa Hài Đồng và Gioan Thánh giá cách đây trên 30 năm, đã bao nhiêu lần đọc đến đoạn các Ngài nói về “dính bén” những cái thiêng liêng, thế mà tôi đâu có nhận ra mình còn vương nặng phải cái tật ấy - cái “tật” làm cho đời sống thiêng liêng của tôi cứ “lợn cợn” mãi!
Cái “tật” bám víu ấy có thể giải thích được như sau: đối với những người đạo dòng, thì từ thuở bé đã được sinh sống trong một thế giới của “Đức tin” thuần túy, có thể nói không có màu sắc “thần hiệp” (mystique); rồi nếu được ơn gọi cách riêng mới từng bước đi vào đời thần hiệp, nếu không thì cũng vẫn sống trong thế giới đức tin thuần túy tin (phúc cho những người không thấy mà tin). Còn tôi thì có thể nói rằng sự tìm kiếm của tôi đã được Thiên Chúa đáp lại bằng một sự tỏ mình trực tiếp; cho nhận thấy Ngài, gặp được Ngài, nếu không phải là thần hiệp thực thụ, thì cũng được nếm một sự cảm thụ trực tiếp nào đó chứ không phải là đức tin thuần túy - trần trụi (foi pure toute nue). Tình trạng “Á-thần-hiệp” ấy được kéo dài trong những ngày tháng từ sau khi chịu phép Rửa cho đến hết năm nhà tập. Hết năm nhà tập, bị kéo ra khỏi môi trường ấp ủ để theo đuổi chương trình của học viện, tôi cảm thấy như bị “thôi nôi”, cứ nuối tiếc mãi cái thời kỳ trăng mật và cứ tìm kiếm khắp nơi, đúng là nạn nhân của cái tật tham ăn thiêng liêng! Sở dĩ mấy tháng sống ở tu viện nhỏ tại miền Bắc nước Pháp, trước lúc sang tu viện chính ở Thụy Sĩ, tôi cảm thấy được an ổn vì lòng tham lam thiêng liêng ấy được thỏa mãn! Nói cách khác tôi cứ muốn được thấy, được cảm xúc (sentir) được thực nghiệm (expérience directe) chứ không chịu bước vào thế giới đức tin thuần túy, sống trong sự chờ đợi và yêu mến hiến dâng (agape). Thời gian ấy, tôi cứ đi tìm tới từ linh đạo này sang linh đạo khác, chẳng qua là đi đuổi tìm một kỹ thuật, một cách thụ động gần như máy móc chắc ăn (méthode sure 100%) tự nó sẽ đưa tôi đến tình trạng “thần hiệp” trực tiếp ngay ở đời này và liên tục vĩnh viễn. Nói cách khác, tôi muốn phá cửa địa đàng để sống mãi cái tình trạng như trước thời tội tổ tông: chiều nào Chúa cũng ngự xuống vườn, cùng dạo chơi với tôi trong làn gió chiều mát nhẹ.
Có thể dùng hình ảnh sau đây để lý giải sự lệch bước của tôi: đôi tân hôn sau thời kỳ trăng mật thì phải đến lúc rời xa nhau để lo việc xây dựng gia đình: người chồng thì đi xa mưu sinh, người vợ thì tảo tần trưa sớm. Tôi không biết như vậy, mà cứ muốn kéo dài thời trăng mật trong phòng hoa chúc, kéo dài mãi mãi đêm tân hôn và ngày vui tiệc cưới, chứ không biết rằng: tình trạng ấy chỉ có khi nào Ngài trở lại đưa tất cả vào cõi trời mới đất mới, mới thể hiện một cách vẹn toàn, liên tục và vĩnh cửu. Có thể nói, tôi cũng như Madalena, sáng sớm Phục sinh, chỉ muốn nắm lấy, đeo đẳng lấy Chúa, mà không biết rằng, không được đụng tới Ngài (hoặc không được cầm Ngài lại) phải rời xa Ngài mà đi loan tin Phục sinh cho anh em (hoặc là đời hoạt động ở trần gian, hoặc là đời hiến dâng trong sự đợi chờ thuần túy tin-cậy-mến tình nguyện). Thái độ của dân Israen hay vòi vĩnh trong 40 năm lưu lạc ở hoang địa cũng vậy. Đó là xu hướng tự nhiên của bản năng thần hiệp nhân loại thuần túy, chưa được siêu nhiên hóa trong Đức Kitô (tendance mystique naturelle purement humaine, pas encore purifée, surnaturalisée dans le CHRIST).
Do đó ngày nay nhìn lại, tôi nhận định như sau: Đành rằng dạng các dòng tu cổ điển Tây phương không phù hợp với tâm hồn Á đông và Việt Nam của tôi, có làm cho sự không ổn của tôi thêm phần trầm trọng, nhưng nguyên nhân chính cho sự bất ổn của tôi là xu hướng “thần hiệp tự nhiên” nói trên; vì thế mà phải có một sự thanh lọc lâu dài mới hết lợn cợn khỏi những tật đã ăn sâu: Tình yêu lý tưởng (platonique), duy tâm cực đoan (désincarné), duy kỷ (égocentrique) tham ăn thiêng liêng (gourmandise spirituelle; érotisme spirituel), chủ nghĩa nội tại (immanentisme), chủ nghĩa kỹ thuật thiêng liêng (technicisme spirituel) thiếu hẳn chiều sâu siêu nhiên (surnaturel) và siêu việt tính (trancendance) và ân sủng tính (don gratuit) của đời chiêm niệm Kitô giáo đích thực. Khát vọng tu trì của tôi do đó không đạt kết quả như đáng lẽ phải có, và trở nên dang dở, không vẹn toàn triển nở mãi cho đến sau cuộc trở lại 1975.
Thế rồi tôi bị vất trở lại thế trần cùng với tình trạng dang dở và lợn cợn. Giả như tôi được vào Sorbonne ngay từ năm 1945-46 thì có thể tôi đã trở nên một trí thức vào hạng khá. Nhưng sau khi đã nếm qua cái hương vị đời tu trì mà trở lại trần tục, tôi khác nào như Từ Thức lúc rời khỏi thiên thai trở về trần thế, đi đâu cũng thấy mình lạc lõng mang thân phận “trích tiên”. Và đó là cũng một cảm thức, một quan điểm còn quá nặng mùi ngoại giáo. Trong cái nhân sinh và vũ trụ quan đa dạng, phong phú và biện chứng của Kitô giáo giữa các phạm trù “vật”-”tâm”, “thế gian”-”thiên quốc”; “thế gian”-”vĩnh cửu”; “hoạt động”-”chiêm niệm”, tôi đã có thái độ cắt chia (séparer) thay vì phân biệt (distinguer) đúng đắn để có một sự bổ túc hài hòa; tôi là kẻ có xu hướng “hoặc, hoặc” thay vì “vừa, vừa” (“aut, aut” thay vì “et, al”).
Cách sống tài tử của tôi trong những năm sinh viên và giáo sư là bắt nguồn từ một quan niệm bi quan nửa vời dựa trên một quan niệm “phi hóa vũ trụ” (acosmique) và cuối cùng gần như phủ nhận, nếu không nói là trách cứ vào chính sự sáng tạo của thiên Chúa, và kết quả có thể đi đến thái độ phản loạn “non serviam” tôi xin phân tích rõ như sau: trong những ngày tháng quá đau khổ trước lúc được chịu ơn Thánh tẩy tôi đã có lúc lồng lộn hét to: “Créateur! Si tu existes, je te hais!”: “Tạo Hóa, nếu ngươi có, ta căm thù Ngươi!” Nhân vật Ivan trong cuốn “Anh em nhà Karamazov” cũng có thái độ tương tự. Và mặc dù sau khi rửa tội, tôi tin rằng tạo vật được dựng nên là do tình yêu Ân tứ, và tự nó, mọi sự đều là tốt lành, nhưng tận đáy tiềm thức thì có phần nào vẫn còn sót lại khả năng cái cảm thức “Hữu là khổ thậm chí còn là cái ác, là sự dữ”. Thời gian 56-65, tuy phong trào dấn thân có phần nào lôi cuốn tôi, nhưng chỉ ở bình diện tri thức và có phần nào “đua đòi” anh em, chứ bản thân tôi thì vẫn rất nặng cái tâm thức coi đời là bể khổ, tình là giây oan, rũ áo phủi bụi, mặc cho thế sự xoay vần.
Tôi xin tạm phân tích hai quan niệm tu hành. Nói chung, quan niệm ngoại giáo cũng như Kitô giáo đền nhằm một mục đích là đưa con người từ một tình trạng sa dọa (chute) nào đó lên một tình trạng gọi là “nên Thánh”. Thế nhưng, quan niệm về sa đọa và về nên Thánh của hai bên có sự khác biệt nhau rất sâu xa. Theo các quan niệm ngoại giáo, thì:
Hoặc là cho rằng chỉ có cái Tự Tại (Le Soi - không nói Đấng Tự Tại, vì thực ra có thể nói chữ Đấng đã bao hàm một “Ngã vị chủ thể”) duy nhất và thuần túy; còn mọi hữu thể đa tạp, là kết quả của một sự sa đọa gần như là tất yếu, hoặc do một tai nạn tình cờ (accident) rơi rớt phân tán, và như thế đó là sự dữ, cho nên đi đến hậu luận là mọi hữu thể ngoài cái Tự Tại ra đều là không nên có, không đáng có; vậy tu hành là phải “giác ngộ”, ý thức sự sa đọa ấy để đi ngược lại chối bỏ, từ khước, phủ nhận cái hiện hữu đa tạp, ô trọc, để trở về cái Tự Tại Uyên Nguyên duy nhất thuần túy: Sinh là khổ!
Hoặc cho là thực ra chỉ có cái Tự Tại là có thật, mọi hữu thể khác chỉ là ảo giác, tu hành là tỉnh ngộ khỏi cái ảo giác ấy, do đó mà gọi là “giác ngộ” (illuminé). Như người ngủ mê nằm mơ, chỉ cần thức tỉnh là được.
Do đó tu hành gần như là kỹ thuật để đạt một kết quả tất yếu. Và như vậy, các hữu thể được phân loại từng lớp theo chiều ngang, kiểu như các tầng địa chất: cái ô trọc ở dưới, (ví dụ: các nhu cầu thể lý như dinh dưỡng, truyền sinh), cái thanh tao ở trên (ví dụ: trí thức, chiêm niệm vv.. ) tu hành là rời bỏ cái thấp vươn lên cái cao như kiểu kỹ thuật lọc nước hoặc cất tinh dầu! Và càng ngày càng thanh tao, thanh cao hóa đến như nước hoàn toàn bốc hơi, hòa tan, trở nên không, như hư vô hóa vào cái Tự Tại; tu hành là thoát khỏi cõi thế được coi như là nấm mồ khỏi trần gian được coi như là nhà tù.
Theo Kitô giáo nói riêng và các tôn giáo bắt nguồn từ Kinh Thánh thì khác hẳn: mọi hữu thể tự nó đều tốt lành, đều được sáng tạo theo mẫu Sự Hữu Tuyệt Đối, đều không dự cách nào đó vào những tuyệt hảo tính (perfections) của Thiên Chúa. Sự sa đọa là do sự lựa chọn sai lầm của cái hữu thể có ý thức tự do (thiên thần và con người), và từ đó kéo theo luôn cả mọi tầng hữu thể khác. Do đó, tu hành không phải là vươn từ các hữu thể ô trọc, giải thoát khỏi tù ngục, bay lên cõi thanh cao, mà là, bất cứ ở cấp hữu thể nào cũng phải xoay chiều, hướng về Thiên Chúa: có một cách ăn, ngủ, làm tình, nguyện gẫm tốt lành thánh thiện nếu hướng về Thiên Chúa và tha nhân; có một cách ăn, ngủ, làm tình, nguyện gẫm xấu xa tội lỗi nếu vo tròn đóng kín. Xin cụ thể hóa như sau: vào nơi hành lạc, đó là tội lỗi thì đã rõ, mà ngay cả mải mê cầu kinh nguyện gẫm để tìm an ủi dịu ngọt thiêng liêng vị kỷ trong lúc bổn phận là phải lau chùi, băng bó những vết thương đầy máu mủ hôi thối đến lợm tởm, ói mửa, cũng là tội lỗi! Thế nhưng, sự trao xương gửi thịt trong bí tích Hôn phối, theo gương sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để cùng với Thiên Chúa tạo nên những linh hồn theo hình ảnh Ngài để muôn đời thờ phượng Thiên Chúa, lại là thánh thiện! Cũng như, nguyện gẫm để dâng lòng mình lên kết hợp với Thánh Tâm Chúa âu sầu phiền não trong vườn Giệt-si-ma-ni, để an ủi Chúa, để đền bồi phạt tạ thay cho các linh hồn tội lỗi, đó là thánh thiện! Theo Kitô giáo, không có trạng thái nào là thấp, là ô trọc (bas, impur). Tự nó, cái gì cũng tốt cả, nhưng đặt vào tay con người có tự do thì tùy theo sự sử dụng tự do, hoặc hướng về Thiên Chúa và tha nhân, hoặc quy về mình một cách vị kỷ, mà trở nên tốt hay xấu.
Tôi đã tin rằng Thiên Chúa là Cha Từ ái tạo nên mọi vật trong “tình yêu”: Ngài yêu thế gian đến nỗi phó Con Một của Ngài cho thế gian và Ngôi Hai đã mang lấy nhục thể, tôi cũng tin rằng Nước Trời là muối là men thấm nhuần vào thế gian thụ tạo; thế nhưng, tất cả mới chỉ là trên bình diện lý trí và ý thức; chứ trong tiềm thức sâu xa thì con người của tôi vẫn còn sót lại nhiều nếp gấp của quan niệm tu hành theo mẫu ngoại giáo, có thể tạm gọi là “phi vũ trụ” (acosmique), phản sáng tạo (anti-création), phi nhập thể (désincarné). Do đó mà tôi có dị ứng với mọi sinh hoạt thế trần: lập gia đình, sinh hoạt xã hội (ngay cả suy tư triết lý cũng vậy!); thậm chí cơ cấu Giáo Hội, giáo luật và cả hình thức phụng vụ, các á bí tích và các bí tích, bí tích Thánh Thể, cũng đều gặp nơi tôi một sự dị ứng nào đó! Tôi đã hiểu những lời: “Nước Trời ở trong các con”, “Thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý” theo một xu hướng duy tâm hướng nội cực đoan! Và cũng xin thú thật rằng mãi đến nay, mỗi lần tỉnh ngủ dậy, cái bản năng phi vũ trụ và bi quan ấy vẫn như còn đè nặng, tôi phải vận dụng lý trí và ý chí để điều chỉnh lại theo đúng tín lý của Kitô giáo là “hiếu sinh” và “hiếu hữu”. Về phương diện này, có lẽ Khổng giáo lại gần với Kitô giáo hơn bất cứ triết lý ngoại giáo nào: từ quan niệm “vạn vật bản hồ thiện” quan niệm Trời là hiếu sinh và hóa dục vạn vật; đạo Hiếu cũng bao hàm một quan niệm “được sinh ra cho có” là một ân sủng chứ không phải là oan trái hay nghiệp chướng. Tuy nhiên theo tôi nghĩ, trong triết lý Khổng giáo, vấn đề sự dữ không được đào sâu và lý giải thâm thúy; trái lại còn như tránh né, đảnh trống lảng! Tôi còn nhớ thuở bé: bị thân phụ tôi cấm ngặt không được nói những chuyện buồn, chuyện xấu, ngay cả những chữ như “chết”, “thối”… cũng phải hạn chế! Ví dụ: phải nói đồng hồ đứng, không chạy, chứ không được nói “đồng hồ chết”.
Cái lựa chọn cuối cùng là cái méo mó nghề nghiệp của việc “dạy triết”. Tuy trong bản chất tôi học triết với tinh thần là “tầm sư học đạo”, Triết học trở thành môn học như bất cứ môn học nào, dạy triết cũng trở thành một môn “chuyên biệt” thiên về tri thức, đặt vấn đề “sống” vào trong hai dấu ngoặc: giáo sư triết, thi triết, chương trình triết, cũng như giáo sư vật lý, thi vật lý, chương trình vật lý, thế thôi! Thầy trò rời khỏi giảng đường, rời khỏi phòng thi, sống ra sao không cần biết đến. Các nhóm môn sinh chung quanh Khổng Tử, Lão Tử, Socrate, Pythagore đâu có như vậy. Cái méo mó hàn lâm ấy có chi phối lên đời sống thiêng liêng của tôi khá nặng; vô hình chung tôi nghiên cứu về đời sống thiêng liêng, bình luận và có khi giảng giải về đời sống thiêng liêng như giảng bài học bài, để biết để thi vậy. Tôi đã hơi thiên về nghiên cứu “thần nhiệm học” hơn là thực sự sống “thần nhiệm”, học “Théologie mystique” hơn là “réaliser la vie mystique”: tôi là giáo sư hơn là tu sĩ, ngay cả trong lãnh vực thần nhiệm, có xu hướng trở thành “thức giả” (savant) về khoa thần nhiệm (science mystique) hơn là “thánh” thần nhiệm (“saint” mystique)!
Với bao nhiêu là lợn cợn đủ loại, cộng với chìm nổi của cuộc đời do ngoại cảnh, do thế sự chi phối: lý lịch của tôi về mặt nào quả cũng là một “tạp pí lù” phải dày công gạn lọc nhiều năm cũng là dễ hiểu các vị linh hướng của tôi cũng đã phải hao tốn nhiều công lao và thì giờ trong việc giúp tôi tìm và thực hiện ý Chúa. Thế nhưng tạ ơn Chúa muôn ngàn trùng, Ngài không nỡ bỏ tôi và Ngài đã ban cho tôi hai ngôi sao sáng để rọi lên cái biển đời đầy hỗn tạp của tôi, đó là Mẹ Maria và thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu. Tôi nghĩ rằng quá hỗn tạp như tôi thì Chúa phải đặt nhiều trung gian; cũng như nước quá ô nhiễm thì phải qua nhiều màng lọc! Nếu nội tâm tôi như đã được phân tích sơ lược ở trên, có thể ví như một mặt biển luôn sóng gió và dồn ứ quá nhiều lợn cợn, thì trái lại, Đức Maria khác nào như một dòng suối mát trong, luôn tưới lên tâm hồn tôi một cái gì đó đơn sơ lành mạnh (sain). Ở Paris, nguyện đường Đức Mẹ mẫu ảnh làm phép lạ (chapelle de la médaille miraculeuse) ở Rue du Bac rất bình dân, rất dung dị với chiếc ghế dựa bọc nhung xanh nơi Đức Mẹ ngồi khi hiện ra với Thánh nữ Catherine Labouré, là nơi tôi đến để được như lắng dịu mọi xôn xao bất cứ về mặt gì: lý trí, cảm xúc hay luận lý: có nhiều lúc, tôi không dám đến với Chúa, nhưng Đức Mẹ thì gần như luôn luôn hiện diện. Không hiểu khi Ma-da-lê-na gần như bị Chúa đẩy lui, không cho đụng tới Ngài buổi sáng Phục sinh, có chạy tới tìm Đức Mẹ hay không, chứ tôi thì vậy đó! Nói quá đi một ít nhiều để cho dễ hiểu: có nhiều lúc, tôi chỉ còn tin vào Đức Mẹ, rồi qua Đức Mẹ dần dần, Chúa mới trở lại trong gầm trời thiêng liêng của tôi! Trong những lúc tối tăm mù mịt, Đức Mẹ là ngôi sao hướng dẫn, trong những lúc ngã quỵ, Đức Mẹ là nơi tôi nương tựa và lồm cồm bò dậy và vươn lên, trong những lúc hầu như tuyệt vọng về mặt này mặt khác (vật chất cũng như tinh thần, xã hội, luân lý, thiêng liêng), Đức Mẹ là niềm cậy trông còn sót lại, như đồng vốn cuối cùng cho tôi gây dựng lại sự nghiệp đã tiêu tan.
Tôi xin đính chính ngay rằng: Đức Mẹ của tôi không phải là một sự an ủi tình cảnh có tính cách ủy mị nhi nữ đâu! hình ảnh của người nữ đạp đầu rắn dữ, tiến lên như đạo binh hùng dũng, có mặt trời mặt trăng và tinh tú chầu quanh, dự trận cam go và chiến thắng rồng dữ trong sách Khải huyền: đó là Đức Mẹ của tôi, đã giúp tôi thoát được bàn tay thâm độc của ác thần. Có lẽ tôi cũng như người nữ bị 7 thần dữ chiếm ám, chúng bị phép rửa trục xuất rồi lại rủ thêm tiếp viện tấn công dữ dội, nên Thiên Chúa đã giao cho vị nữ nguyên soái các đạo binh thiên quốc đến giải thoát tôi. Dùng đến hình ảnh người nữ oai hùng trong sách Khải huyền, là để nói lên rằng đến với Đức Mẹ cũng như đến với Chúa không phải tìm thuốc mê, thuốc phiện, như người ta lầm tưởng rằng tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng; nhưng là được thuộc về một số ít người mà thiên Chúa chọn cho tham dự vào một cuộc giao tranh khốc liệt (nhìn Đức Mẹ đứng dưới cây thập giá thì rõ). Tuy nhiên dể tránh cái sa lầy “phô trương lực lượng” (triomphalisme), đừng quên rằng cuộc giao tranh ác liệt này là giao tranh giữa thần kiêu ngạo với Đức Mẹ là hình ảnh kiểu mẫu của đức khiêm nhường; Chúa dùng một thiếu nữ mong manh để đạp dập đầu kẻ hung hăng kiêu ngạo, cũng như Đa-vít thắng Gô-li-át và Chiên Con thắng sư tử. Đừng quên rằng tính cách biện chứng ấy của linh đạo Kitô giáo, của cuộc chiến đấu Kitô giáo (combat spirituel): dũng lực mà không oai hùng (don de force chứ không phải courage humain).
Bên cạnh vị nữ nguyên soái ấy, có một nữ tùy tướng đó là Tê-rê-sa Hài Đồng. Xét về một mặt, tôi cũng bị lệch đường một phần nào do hiểu lầm về Thánh nữ: qua trung gian Thánh nữ, tôi tiếp cận với thánh Gioan Thánh Giá, từ đó tôi cứ ngộ nhận là có lẽ tôi được kêu gọi đưa dòng Cát Minh ngành nam vào vườn nho Hội Thánh Việt Nam, do đó sinh ra bất ổn trong suốt thời kỳ tu học. Nhưng nay thì thấy rõ: vì đời sống của tôi quá nhiều nỗi gian truân, nên Thiên Chúa đã dùng Thánh Nữ Tê-rê-xa Hài Đồng để dạy cho tôi bài học “hoàn toàn phó thác”, khác nào cái neo cuối cùng cắm sâu xuống lòng biển, khi mà chèo, lái, buồm thậm chí cả la bàn cũng đều hư hỏng, mà sóng gió tứ bề! Đời thiêng liêng của tôi thật rất nhiều giai đoạn như vậy, không có cái neo cuối cùng là “động tác hoàn toàn phó thác ấy”, chắc đã chìm dưới vực sâu của mọi thứ cám dỗ, dọa dẫm, lừa lọc, mà sự khờ dại và tính nhát đảm (poltron chứ không lâche) của tôi khó lòng đương dầu nổi. Và “động tác phó thác hoàn toàn ấy của Thánh Nữ Tê-rê-xa cũng là một dạng thức hiện đại của phương pháp “thần phi (voie analogique) mà Thánh Gioan Thánh Giá phát minh, giúp các linh hồn vươn bay thoát khỏi mọi cuộc thử thách cam go trong đêm dày đặc của cảm giác và tâm linh (nuit des sens et nuit de I’esprit). Tôi không dám nói tôi được đưa vào đêm dày thần nhiệm ấy, nhưng bề mặt hiện tượng tâm lý tự nhiên, thì quả linh hồn tôi bị quá nhiều bóng đêm dày đặc bao phủ, và sau hết là lòng sùng kính các thánh; có lẽ là lòng sùng kính này cũng là qua sự tiếp cận với Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng. Trước hết, chính Thánh Nữ có hứa rằng lên trời, thánh Nữ sẽ lại trở về trần gian, giúp đỡ những anh chị em còn ở nội chiến địa. Thánh Nữ cũng kể lại câu chuyện “Thánh Nữ nằm mơ thấy Nữ phúc lộc Anne de Jésus, vị sáng lập dòng nữ Cái Minh tại Pháp hiện ra an ủi, mà Thánh Nữ thì xưa nay không bao giờ nghĩ đến vị nữ phúc lộc ấy cả. Một vị Phúc Lộc gần như xa lạ với Thánh Nữ cũng còn có lòng ưu ái với Thánh Nữ như vậy thì bất cứ vị thánh nào đã được vào nơi vinh hiển, ắt cũng đều gần gũi với chúng ta. Cầu xin các Ngài không cần nghe ta kể lể cũng biết ta cần gì là vẫn sẵn sàng giúp ta. Cầu xin là để đón nhận, là để tiếp cận, để ý thức mình không cô đơn mà chiến đấu, là sống mầu nhiệm các Thánh cùng thông công trong nhiều hướng: trên xuống, dưới lên; cầu xin thực ra là cộng tác tích cực với các Ngài vì sự nghiệp cứu độ là sự nghiệp chung cần sự cộng tác của nhiều người (Giêsu Nazaret, Maria đều là người cả) trong sự tương giao cộng tác từ đó!
Tôi lại có cái may mắn không bị hạn chế trong một dòng tu nào, được đọc rất nhiều tiểu sử các vị lập dòng, các vị đổi mới dòng, các Thánh nam nữ khá nhiều thuộc nhiều dân tộc, nhiều triều đại, nên luôn cảm thấy như là đứa con cưng (tuy là hư hỏng) của một đại gia đình luôn luôn được số đông anh chị chắt chiu đùm bọc và nêu gương; từ Thánh An Tôn ẩn cư cho đến nữ danh ca Eve Lavallière, từ hoàng đế Lu-y IX cho đến cụ già (tuy vậy mà lõi đời) Gioan XXIII, từ Thánh Sy-ry-lô và Mê-tô-đô ở vùng cận đông, cho đến Thánh Mác-ti-nô de Po-rê ở châu Mỹ, từ vị tông đồ mòn gót chân tryền giáo cho đến Thánh Nữ Lidwine liệt giường nan y mấy chục năm, rồi các tín hữu danh nhân như Dante, Benanos, Péguy, Nguyễn Trường Tộ, Hàn Mặc Tử, Marie Noel, Jacques Maritain, Emmanuel Monier và cuối cùng là các Linh mục, tu sĩ, giáo dân tôi đã từng gặp mà nay đã qua đời; lẽ nào họ chẳng cúi xuống trên chúng ta, với trăm ngàn yêu mến phù trợ! (Tuy nhiên, đừng quên rằng họ phù trợ khác hơn điều ta chờ đợi theo cái nhìn phàm tục). Tôi đến với họ như đến với những người còn sống, như lúc tắt đèn thì hỏi người láng giềng xin mượn đốm lửa que diêm! Và lắm lúc tôi cảm thấy rõ ràng những con người ấy đã bước qua sự phân cách của không gian và thời gian, nên rất gần gũi, mà là sự hiện diện thông cảm của họ rất sâu xa và bền vững.
Ví dụ trong lúc viết lên những giòng này, tôi nghe một em bé khóc ngoài cửa, íl nhất tôi cũng ngưng viết, mở cửa ra xem sao! Tôi là kẻ phàm tục tội lỗi thà còn vậy huống hồ là bất cứ một chi thể nào của Đức Kitô đã đi vào vinh hiển! Đến với họ trong sự thông hiệp vào mầu nhiệm “Các thánh thông công” là như cành nho cùng chung một nguồn nhựa sống, phát xuất từ một gốc nho duy nhất là Đức Kitô; tôi nghĩ mỗi bông hoa như Tê-rê-sa Hài Đồng là kết quả của cả giòng họ Martin, của dòng Cát Minh Pháp (cho nên nữ Phúc Lộc Anne de Jésus mới tỏ mình ra), của Hội Thừa sai Paris (qua chân phúc Théophane Vénard) v.v… Mà quả vậy thánh Nữ Clara, thánh Phêrô Acantaca, đã nhiều lần tỏ mình khích lệ Tê-rê-sa thành Avila trong sự nghiệp cải tổ dòng nữ Cát Minh.
Từ cuối năm 1956 đến nay và có lẽ đến ngày tôi từ giã cõi đời, hầu hết mọi dêm, từ 10 giờ đến 6 giờ sáng, sau khi đóng cửa phòng là tôi chỉ có một mình; thế nhưng tôi có cảm tưởng tôi được sống như những ngày thơ ấu, mỗi buổi tối được vui vầy trong bầu không khí của cha mẹ, anh chị em sum vầy đoàn tụ, vui buồn san sẻ, lo âu hy vọng chung chia! Tôi thấy được ấm cúng, được đùm bọc, ngược hẳn với cảnh bị xô đẩy chen chúc giữa một đám đông vô danh, vô ngã vị mà con người chỉ ở sát nhau, như đá xếp cạnh nhau, chứ không sống với nhau, nịnh bợ nhau, phỉnh lừa nhau, lợi dụng nhau, đề phòng nhau, lánh mặt nhau! Và tôi có cảm tưởng đã quen sống với nhau trong sự thông dự mầu nhiệm thiêng liêng vô hình ấy, đến nỗi lúc bị ném vào giữa đám đông vô danh, vẫn như có mang theo cái khí quyển với nhau ấy, thành ra nhờ đó mà dễ tạo ra sự thông cảm, để thiết lập những tương quan liên ngã vị bất cứ ở môi trường nào, làm cho bầu không khí bớt bị ngộp thở! Louis Lavelle có phân biệt sự “cô tịch” (solitude) và “cô lập” (isolement). Lòng sùng kính các thánh đã giúp tôi sống hơn 30 năm trong sự “cô tịch” và phần nào giúp tôi khi chung đụng với mọi người ở mọi nơi, dễ dàng và nhanh chóng tạo ra sự sống với bất cứ trạng huống nào! Tất cả đều trở nên có “sự hiệp thông các thánh”, bởi lẽ, trừ ra những linh hồn đã rơi vào hỏa ngục (mà là những linh hồn nào, nào ai hiểu được!), còn đã là người thì hoặc đã hiển thánh (đã hoặc chưa hoặc không được phong), hoặc là đang có khả năng nên thánh (xem kẻ trộm lành, tử tội ra Prazini). Sự hiệp thông ấy vô giới hạn, giữa những người sống với nhau, cũng như giữa những người đã qua đời và những nguời đang sống ở trần gian. Tôi bỗng nhiên liên tưởng đến Quan Công và Trần Hưng Đạo, và những ai đã chết vì “Đại nghĩa”. Tôi không giấu diếm ai rằng trước 75, đêm giao thừa, tôi thường đến Đền thờ Đức Thánh Trần cầu xin Ngài phù hộ cho con cháu Tiên Rồng sớm chấm dứt cảnh tương tàn, và có dịp ra Huế tôi vẫn đến viêng mộ cụ Phan Bội Châu với tâm tình như vậy. Và tôi vẫn tin rằng trong các tiền nhân nội ngoại của tôi, những ai thực hiện được phần nào “đạo thánh hiền với nhân-nghĩa-lễ-trí-tín”, đều có sự gần gũi phù trợ nào đó đối với đứa con cháu này. Còn lòng ái mộ đối với thánh M. Gandhi, đối với Đức Thích Ca và chư liệt thánh kim cổ-đông tây cũng như gần như với các thánh Tiên tri và Tổ phụ thời cựu ước vậy! Tôi nghĩ các ngài đều là tác phẩm của một Thánh Thần duy nhất mà thôi. Cái hoa nở đẹp, con bướm sặc sỡ, tiếng chim lảnh lót, quả ngọt thơm tho còn do bàn tay Thiên Chúa tác thành; huống chi là những bậc thánh nhân-quân tử, anh hùng, liệt nữ, đáng cho thiên hạ noi gương.
Trong các đại gia đình ấy, ở vị trí trưởng ban Triết học một viện Đại học Công giáo, đáng lý tôi phải thấy gần gũi với các bậc như Tô-ma A-qui-nô, Bellarmin, Albert Cả, Lacordaire, Bonaventure, Duns Scotus… Nhưng vì Pascal đã dẫn tôi gặp Chúa Giêsu lần đầu tiên trong lúc Ngài vất vả quằn quại dưới cây dầu, toát mồ hôi máu, xin môn đệ hợp ý cầu nguyện, cho nên tôi thường hay tưởng đến những linh hồn được Chúa mời gọi thông dự vào cơn hấp hối của Ngài, mà cũng theo như lời Pascal, còn sẽ kéo dài mãi cho đến ngày tận thế, trong số đó, dĩ nhiên là có các vị như Ma-ga-ri-ta A-la-cốc, Ma-da-lê-na Xô-phi-a, Ma-da-lê-na dệ Pát-di; nhưng cách riêng tôi quan tâm hơn tới những vị gần với thời đại, với tâm hồn tôi.
Thứ nhất, xét về gần gũi trong thời gian, tôi vẫn thường tưởng nhớ đến những người có ít nhiều liên hệ với giai đoạn hiện dại của lịch sử đầy máu và nước mắt của chúng ta với hai cuộc đại chiến và những cuộc đổ máu phụ cận, gần như liên tục mãi cho đến nay và chưa biết rồi sẽ ra sao: Charles de Foucauld bị sát hại năm l916, linh mục Ives de Moncheuil bị Đức quốc xã xử giảo, Lm. Maximilien Kolbe bị Đức quốc xã xử tử, mục sư Boenhofer cũng thế, nữ tu Bênedicte de la Croix cũng thế (có lẽ bị hỏa thiêu). Bên tai tôi như luôn văng vẳng lời cảnh cáo Đức Mẹ đã nói với Gia-xin-ta và Phan-xi-cô, với Berthe Petit, với Joseph Menendez. “Nos civilisations, nous sommes mortelles!”, lời nhận định của Paul Valéry, tôi nghĩ rằng hoàn toàn chí lý! Không có gì bảo đảm rằng Luân Đôn, Pa-ri, Nữu Ước, Tokio, Bá Linh sẽ không như Ni-ni-vê và Ba-by-lon. Văn minh ư? Tiến bộ ư? Các trại tập trung, các lò hỏa thiêu phi bác sự lạc quan trên! Quả như nhà tâm lý học Etienne de Greeff đã nhận xét, cái gọi là “văn minh tiến bộ” chỉ là một lớp sơn hào nhoáng, mỏng manh chỉ thổi nhẹ cạo sơ là bay, còn bản chất con người vẫn là “luật rừng”! Ca-in và A-ben vẫn là chiều kích muôn đời của Nhân loại. Chúa Giêsu vẫn không ngừng… quằn quại, bị xử oan, bị giết nơi những người bị đàn áp, cầm tù, tra tấn, đe dọa, kỳ thị, khủng bố, gạt ra ngoài lề xã hội gọi là “văn minh tiến bộ” này! Cái dị ứng gần như “thâm căn cố đế” đối với cái văn minh duy khoa học kỹ thuật cực đoan, phi nhân bản, phản thiện căn, phát tích từ sự phản loạn chống lại Thiên Chúa được mệnh danh là “Phục Hưng” ở thế kỷ 16 của Tây phương bắt nguồn từ những suy tư và nhận xét nói trên!
Quả như nhà bác học Alexis Carrel đã nói: “Rồi chúng ta sẽ phải trả (và đã bắt đầu trả rồi) với cái giá đắt cho những sai lầm nghiêm trọng của phong trào Phục Hưng”. Một thứ man rợ mới (trang bị bom hạt nhân!!!) đang ra đời và sẽ phá vỡ hủy hoại những giá trị văn minh chân chính, nếu không có gì ngăn chận lại. Và có gì ngăn chận được đây??!! Tôi nghĩ chỉ có Thánh giá Chúa Giêsu mà thôi! Như nữ triết gia (và sau là nữ tu dòng kín Cát Minh) Edith Stein đã nói: “Không phải những thành đạt nhân loại sẽ cứu chữa được chúng ta, mà chỉ có cây Thánh giá Chúa. Tôi ước ao được thông dự vào cây Thánh giá ấy!” Jacques Maritain đã bình giải như sau: “Sự dữ đã lên đến mức độ không còn gì cứu vãn được nữa, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu, cho nên những tâm hồn ưu việt đã say sưa từ bỏ tất cả (cả những điều được phép và những điều tốt) để ôm lấy cây Thánh giá trần trụi đi theo chân Chúa”. Lời cảnh báo kêu gọi của Đức Mẹ, không phải chỉ có đàn bà con nít nghe theo mà ngay cả những bậc đại trí của thời đại cũng hình như vọng lại một cách bi thiết: Gabriel Marcel, Marcel Cortez, Unanumo, Bernanos, Georghiu, và trước đó, Dostoievski, Kierkegaard hình như cũng đã có cái nhìn tiên tri nào đó về cái lịch sử đầy máu lửa và nước mắt này của cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đó là nghĩ tới vận mạng Nhân loại, còn…
Thứ hai, nghĩ về bản thân thì:
– Eve Lavallière, nữ danh ca, sau một đời phấn thải hương thừa, với bao vương tôn công tử, ong qua bướm lại, đã được Chúa ban cho ơn hối cải, là một là một hình ảnh giúp tôi nhìn vào như một tấm gương để soi rọi chính cái mặt thật hoen ố của mình, khi phấn son loè loẹt, được rửa trôi đi! (trí thức, danh thơm tiếng tốt, hợm mình cũng chỉ là son phấn loè loẹt mà thôi!)
– Benoit Joseph Labre với cuộc đời lữ thứ hành hương, lại là phản diện để giúp tôi, sau khi đã cùng với Eve Lavallière lặn xuống đáy vực sâu của linh hồn mình, được đưa mắt ngước nhìn lên như một chân trời xa định hướng cho tôi bước tới, mặc dù cái dở dang của ngài là do tự nguyện lang thang hành hương trong sự thảnh thơi tuyệt vời; còn sự dang dở của tôi một phần nhỏ là do biến cố khách quan, mà phần lớn là do tôi lạc bước lang thang và lợn cợn.
– Còn Edith Stein (nữ tu Bénédicte de la Croix) thì như một ngọn lửa của lễ vật toàn thiêu, nhắc tôi nhớ rằng Nhân loại đang rên rỉ quằn quại dưới những sự bạo tàn, man rợ, từ nhiều phía, dưới nhiều dạng.
– Và Chales de Foucauld thì nhắc nhớ tôi rằng phần đông anh em, chị em còn đang ngụp sâu trong những điều kiện sống túng nghèo: vất vả lam lũ, đến tận cùng cực vì miếng cơm manh áo hàng ngày, khiến rất dễ quên đi rằng sống là còn cần phải có Lời Chúa!
– Jacintha và Phanxicô ở Fatima, Berthe Petit giúp tôi nhớ đến lời kêu xin tha thiết của Đức Mẹ đang chờ đợi các con cái Mẹ góp phần nhỏ mọn của mình, giúp Mẹ nâng cánh tay Chúa đã quá nặng trĩu vì tội lỗi thế gian, gần như phải trút cơn thịnh nộ thanh luyện đến cùng dưới một dạng Hồng Thủy nào đó.
– Josept Mermendez thì giúp tôi hoàn toàn cậy trông rằng cuối cùng, lòng thương xót của Trái tim Chúa Giêsu sẽ cùng với trái tim Đức Mẹ làm cho “Yêu thương” thắng “hận thù”, và Ơn Cứu độ sẽ gỡ ta khỏi án phạt vì “muôn đời vẫn một lòng thương!”, “vì lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia hằng bao bọc những ai kính sợ Chúa!”
– Và cuối cùng với các thánh: Gioan Thánh Giá, Têrêxa Hài Đồng, với Thomas Merton, Ives de Montchanin và Elisabeth de la Trinité, tôi quên đi tất cả (mà nhất là quên chính mình tôi) bằng cách ném tất cả vào hai Trái Tim Cực Thánh, trong thánh lễ được dâng lên mọi lúc mọi nơi, như giọt nước nhỏ vào một Trùng Dương, dắt dìu Tình yêu Muôn Thuở của chính Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng hóa với Ngôi Hai, hiệp thông cùng Ngôi Ba, trở về trong lòng Ngôi Nhất là Cha, Cội nguồn và Cứu cánh của muôn loài như đã đi vào nơi Bình an Phúc lạc muôn đời, miệng thì thầm, tai văng vẳng lời kinh Lạy Cha, với hai dòng kinh phụ lưu là 150 Thánh Vịnh và 150 kinh Kính Mừng của chuỗi hạt Mân Côi, cất bước hành hương tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, nơi cả triều thần đang liên hoan tiệc cưới Chiên Con, nơi cả Triều thần Thiên quốc đang thờ lạy tung hô: “Sanctus! Sanctus! Sanctus! Dominus sabaoth, pleni sunt coeli et terra Gloria tua; Gloria Patri et Filio et Spiritu Sancto, nunc et in semper et in saecula saeculorum. Amen” (Thánh! Chí thánh! Ngàn trùng chí thánh! Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh; Vinh quang dâng lên Chúa Cha chúa Con và Chúa Thánh Thần, bây giờ, luôn mãi và cho đến muôn thuở muôn đời. Amen. )
Niềm hạnh phúc ấy thật ra đã bắt đầu từ cái hôm nay của cuộc đời này. Có lúc tôi cảm thấy mình như hòa tan trong Nhiệm Thể Chúa Kitô (bao gồm cả Nhân loại và toàn thể Vũ trụ), nhưng có lúc tôi cảm thấy như chính toàn thể Nhiệm Thể Chúa Kitô: sinh động trong con tim bé nhỏ của tôi! Giọt nước với Trùng Dương tuy hai mà một, rồi tuy một mà lại là hai: cái ngã tý hon của tôi, cái ngã tý hon của mỗi tâm linh, cái Tam Ngã Nhất Thể vô cùng vô tận vô biên của Thiên Chúa như triền miên trong một sự hiệp thông dìu dắt, trong an lạc muôn đời (chứ không phải là hòa tan trong cái Tự Thể cô đơn hay cái Tịch Diệt hư vô quạnh quẽ hoang liêu).
Nhân dịp đây xin ghi lại một nhận xét: nơi các thánh hiền ngoại giáo, những người theo cùng một vị sáng lập thường chỉ tạo nên một khuôn mẫu thánh thiện duy nhất na ná như nhau: mẫu người “trung hiếu” của Khổng giáo, mẫu người “thanh thoát” của Lão giáo, mẫu người “khắc kỷ” của phái Stoicien, mẫu người “từ bi” của Phật giáo; còn các Thánh Kitô giáo thì thật là thiên hình vạn trạng, đôi khi gần như tương phản nhau: Phanxicô nghèo khó, Phanxicô Xaviê, Têrêsa Hài Đồng, Vinh-sơn Phaolô. Benoit Joseph Labre, Lu-y Gon-da-ga, Charles de Foucauld, Clara, Marguerite de Cortonne, Phê-rô Alcantara, Phi-lip-phê Nê-ri v.v và v.v…
Điều ấy cũng nhắc ta nhớ rằng dù ta có yêu mến noi theo vị thánh nào đi nữa, họ cũng chỉ là những ngọn đuốc, ánh sao chiếu sáng, chứ trên đường hành hương thì cuối cùng vẫn là chính mình phải đi theo bước đi riêng của mình; bởi vì, tương quan giữa mỗi một linh hồn với Thiên Chúa là một tương quan duy nhất, độc đáo, đặc thù, Thánh Gio-an Thánh giá đã dặn (và Đức Gioan XXIII đã nhắc lại) rằng không nên và không thể bắt chước y hệt một vị thánh nào cả! Riêng tôi thì… sau tháng 5-1975, tôi như đột nhiên băng qua 25 năm trời, trực tiếp nối lại cuộc đời tín hữu của những năm 49-50 ở Nghệ Tĩnh. Do đó, như có một sự “hồi xuân”, một sự “hoàn đồng” đáng phấn khởi. Quả vậy, từ năm 51 đến năm 75, Hội Thánh Công giáo ở Pháp cũng như ở Việt Nam tại những vùng thuộc thế giới không-xã-hội-chủ-nghĩa, đều còn mang nhiều tính cách của một xã hội Kitô-chế (Chrétienté) với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó. Và có thể gọi đó là xã hội hậu-Constantin là xã hội mà Kitô giáo nếu không được nhìn nhận như là quốc giáo. Thì cũng được xem là bình thường, trở nên như một yếu tố văn hóa tự nhiên vì quá thấm nhuần mọi cơ chế xã hội. Do đó, tính cách có thể nói là “quái dị” (étrange) có thể gây “xì-căng-đan” (như vụ Phaolô gây ra khi rao giảng tại quảng trường đồi A-rê-ô-pa ở A-tê-na! ), cái tính cách “điên rồ” của thập giá bị xóa mờ đi. Quả vậy, đáng lẽ bàn dân thiên hạ ngoài Kitô-giáo phải la ó lên hoặc ít là nhún vai tẩy chay khi rằng một đầu óc như Teilhard de Chardin mà tin có thịt và máu người thật sự trong bánh và rượu sau khi truyền phép, và sẵn sàng quỳ chầu hàng giờ như quan chầu vua! Sự yên ổn của Hội Thánh trong sự bình thường hóa ấy, thật ra có bao hàm một sự “nhạt nhẽo hóa” (affadir) của những Chân lý mà nếu suy nghĩ cho kỹ phải là “long trời lở đất”!: Đồng trinh mà sinh con! Chết rồi sống lại!
Tại khu 4 từ năm 1945 trở đi và trên toàn cõi Việt Nam, thì từ sau 1975, Kitô giáo hình như được trở lại cái thời đại còn là một “xì- căng-đan” một cái gì quái gỡ. (Và tôi nghĩ các cụ nhà Nho cho rằng Gia-tô-giáo là tà đạo, thật ra đã có lý 100%, và có chủ trương bách hại cũng là đóng dúng vai trò của những kẻ có trọng trách duy trì đạo thánh hiền; cũng như các vị Thượng tế Do thái giáo cũng đã có lý 100% khi kết án tử hình Chúa Giêsu dám tự xưng là “Thiên Chúa” chính là điều phải làm để chu toàn hổn phận bảo vệ truyền thống “độc thần” của cha ông họ để lại!!!). Lắm lúc tôi nghĩ rằng, suy cho cùng, những người bách hại Kitô giáo dù là những người thành tâm trung thực đã không thỏa hiệp ỡm ờ đáng nghi. Đồng thời, làm như thế là họ đã đặt Kitô giáo vào đúng vị trí của nó, và đem lại sinh khí “hồi xuân” cho nó. Vì vậy từ 1949-50 và từ sau ‘75, tôi bỗng thấy mình như được sống lại thời Công vụ các Tông đồ có cái gì rất sinh động, rất hứa hẹn, rất khích lệ (stimulant) và hình như, tôi chỉ cảm thấy mình quả thật được sống Kitô giáo thật là trọn vẹn trong hoàn cảnh như vậy, bởi vì tôi thấy trong trạng huống như vậy, Lời Chúa mới ứng nghiệm, theo đó, được theo Chúa là được chọn lựa giữa bao người khác để làm thành dân riêng của Chúa, có ấn tín riêng (như cóc bôi vôi lồ lộ trên trán, đi đâu lòi ra đấy! Còn trong các môi trường xã hội mang dấu vết Kitô-chế, thì y như đã bị hòa loãng, nhạt nhẽo làm sao!) Người tín hữu như được cởi khỏi không biết bao nhiêu là lớp áo đã bị phủ lên qua nhiều thế hệ thỏa hiệp với mọi giá trị trần gian! Ví dụ, lễ tấn phong Giám mục Việt Nanh Tiên khởi của giáo phận Vinh năm 51 tại Thanh Hóa, chắc chắc là gần với việc các “Tông đồ đặt tay lên các vị được sai đi, hơn là lễ tấn phong Giám mục Saigon người việt Nam Tiên khởi cùng thời. Một số cuộc cử hành phụng vụ Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, nhất là ở những vùng hẻo lánh xa xôi sau ngày… 1975 (đôi khi không có linh mục, hoặc có Lm mà linh mục lại quỳ ở hàng ghế giáo dân) quả là gần gũi với các thánh lễ trong hang toại đạo hơn là thánh lễ tại dinh tổng thống chế độ cũ ở miền Nam! Một số người sau ‘75 tìm học đạo và theo đạo, chắc chắn là gần Ni-cô-dê-mô hơn là hàng ngàn người theo đạo ở giáo phận Qui Nhơn thời trước năm 1963. Thời Công Vụ Tông đồ! Đó là bầu khí mà tôi sống từ năm 1976 và có lẽ đến cuối đời! Xét về một mặt nào đó, linh đạo tôi theo hiện nay là linh đạo của Công Vụ Tông đồ. Có thể là phạm tội bất kính với tiền nhân. Nhưng tôi cảm thấy như vượt qua (kể cả Charles de Foucauld, cho đến kể cả An-tôn ẩn tu, kể cả Teilhard de Chardin, Ives Congar, Henri Lubac, cho đến cả Giút-ti-nô, I-re-ne) trở về trạng thái nguyên sơ của các tín hữu nguyên khởi, với Tê-pha-nô, Clê-ô-pha, với A-qui-la và Prít-xi-la, với Ti-mô-tê-ô, với Co-nê-li-ô v. v…; Cho nên, hình như tôi không nguyện gẫm theo kiểu của bất cứ vị thánh nào, kể cả Tê-rê-sa thành A-vi-la, hay cấm phòng 30 ngày kiểu I-nhã Loi-yô-la, mà chỉ sống như hai môn đệ trên đường Em-mau mà thôi! Lắm lúc đọc sách thần học tín lý (dogmatique) luân lý (morale), thần nhiệm (spirituelle) bất cứ của vị nào, tôi cũng thấy loang loãng làm sao ấy! Tôi chỉ sống với những Sự Kiện và những Việc Làm của Thiên Chúa (Faits et Actes divins) trực tiếp tác động lên đời tôi, lên lịch sử nhân loại và vũ trụ:
Sáng tạo vũ trụ.
Chọn dân Ít-ra-en
Chọn bà Maria
Nhập thể
Tử nạn và Phục sinh (lập Thánh Thể và giáo phẩm)
Lên trời
Lập Hội Thánh (Thánh Linh giáng lâm)
Sai đi làm chứng các sự kiện và hành vi của Thiên Chúa (chứ không phải giảng đạo lý)
Dân canh thức chờ đợi sự kiện “tái lâm bất thình lình” như kẻ trộm.
Và tôi hiểu tại sao Tê-rê-sa Hài Đồng về cuối đời đã nói rằng: “Đọc sách gì cũng nhức đầu, ngoại trừ Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng!” Và nếu ai hỏi linh đạo hiện nay của tôi là gì. Tôi xin được trả lời: Tin Mừng (nhất là đoạn về Em-mau) và Công Vụ Tông Đồ (nhất là đoạn Thánh Tê-pha-nô bị giết chết. Đây là vị thánh quan thầy của tôi). Quyết định chịu phép rửa đến với tôi đúng vào ngày lễ của ngài, ngày 26-12- l948, lúc tôi dự lễ tại nhà thờ xứ Nghĩa Yên, giáo phận Vinh, cơ chế, cơ sở, tư duy thần học chỉ là lớp áo che chở giữ gìn (đôi khi còn che khuất, bóp nghẹt) những sự kiện, những tác động đích thực của Thiên Chúa. Hai năm 1949-50 và sau ’75, tôi cảm thấy không phải là theo một đạo lý, nhưng là được tiếp cận, dự nhập vào một hành vi của Thiên Chúa, một hành vi đang thực sự tác động qua những sự kiện cụ thể, đã được hội nhập vào trong dòng sống thực của mối hữu thể nhân linh bằng xương bằng thịt đã sinh ra, đã chịu đau khổ, đã làm việc (hết sức vất vả) và sẽ chết giống như Đức Giêsu người Na-da-rét và Đức Maria, mẹ Ngài và là hành vi đang tác động nhờ trung gian của Bí tích lớn và thật là “Hội Thánh Công giáo”: duy nhất, thánh thiện, tông truyền mà các cửa Hỏa ngục sẽ không thắng nổi, đó là hành vi thiên Chúa đang dùng để cứu vớt và thâu gom mọi sự trong Đức Kitô, Đấng đang xây dựng Nhiệm Thể của mình (gồm cả vũ trụ) qua thời gian, mà chính thời gian cũng là một thụ tạo sẽ tuôn chảy vào cõi đời đời.
Do đó, hai năm l949-50 và sau năm l975, tôi như tắm gội trong nguồn nước tươi trẻ muôn đời của Hội Thánh (La jeunesse éternelle de l’Eglise) mà những cơ chế, những cơ sở, những pho sách dù là cần thiết (indispensable) nhưng không phải là thiết yếu (essentiel), lắm lúc dưới khía cạnh nào đó còn là những nét nhăn cần tô điểm lại để “tìm lại má hồng như xưa” cho đẹp mắt Quân Vương (Kh l9, 7-8). Amen.
Cơn cám dỗ thường có hiện nay của tôi và có lẽ sẽ là “cơn cám dỗ cuối cùng” là tôi thấy có lẽ tôi đã mất “ơn kêu gọi”: nhưng không rõ ơn kêu gọi gì: tu dòng Phan-xi-cô? Tu dòng Biển Đức? Lập gia đình? Hoạt động chính trị? Văn hóa?… Nhưng đã mất ơn kêu gọi! Nhưng dù vậy, có vậy đi nữa (mà chắc là vậy! ) thì tấm áo Đức Bà tôi đã được linh mục rửa tội khoác lên đầu lúc tôi quỳ trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp sau khi chịu phép rửa tội ngày 09-1-1949 tại nhà thờ xứ Nghĩa Yên và động tác phó thác hoàn toàn của Thánh nữ Tê-rê-sa thành Li-di-ơ với lời: “Dù một mình tôi có phạm tất cả tội lỗi của toàn thể Nhân loại, từ A-đam cho đến người cuối cùng (tôi nghĩ có cả Yu-da), tôi cũng cứ cậy trông vào lòng xót thương vô cùng của Chúa!”, vẫn đối lại mọi phù phép của kẻ thù. Và vị thánh cuối cùng mà tôi trông nhờ lời bầu cử là Thánh “Kẻ Trộm Lành” đã được chính Chúa phong thánh ngay từ trên ngai Thánh giá buổi chiều thứ Sáu Tuần thánh đầu tiên. Và ơn kêu gọi của tôi có phải chăng là làm chứng rằng dù có lỡ mất ơn kêu gọi đi nữa, thì cũng không mất lòng cậy trông vào Lòng thương xót vô cùng và Quyền năng vô hạn của Thiên Chúa, và vào sức phù trợ của Mẹ Maria, vào sự cầu bầu của các Thánh Nam Nữ trong mầu nhiệm của các Thánh thông công.
Mất ơn kêu gọi, đó là thân phận của A-đam đã dại dột ăn quả cấm nên mất ơn kêu gọi, nhưng cả cuốn Kinh Thánh cũng chỉ cốt làm chứng điều kỳ diệu này: Ơn kêu gọi mà A-dam đã đánh mất, thì Đức Kitô và Mẹ Ngài đã tìm lại được, và sau khi phân phát cho những ai muốn đến lãnh (gratuit) trong một chế độ “ân sủng” mà Đấng Đầy Ân Sủng là người được hưởng đầu tiên hoàn toàn không do công lênh gì cả, với ơn “Vô Nhiễm”; Cho nên những dòng kể chuyện đời mình của tôi cũng không có cách kết thúc nào hơn là bằng cách mượn lời Ngài để dâng lên THIÊN CHÚA - TÌNH YÊU lời tán tụng tung hô:
MAGNIFICAT ANIMA MEA DOMINUM!
Ngày thứ Bảy đầu tháng Đức Mẹ
Năm ân sủng 1986
(03-5-l986 nhằm ngày 25 tháng Ba - Bính Dần)
Tất cả những dòng trên đây tôi chỉ bảo đảm là tôi một lòng chân thành. Còn sai đúng, dở hay tốt xấu, tôi hoàn toàn tuân theo sự phán quyết thẩm lượng của quý vị thẩm quyền của Hội Thánh Công giáo mà tôi dành trọn vẹn lòng con hiếu – tôi trung cho đến hơi thở cuối cùng. Tôi cũng cậy trông vào lượng bao dung thông cảm của Hội Thánh vốn là Mẹ Hiền của những người con vụng dại lỡ lầm.
TÊPHANÔ
Thế Tâm NGUYỄN KHẮC DƯƠNG
Đã gọi là “mua vui” thì tôi xin mời các bạn, ta giả sử như sau: Thân phụ tôi đậu đại khoa, làm quan đến Nhất phẩm đời vua Minh Mạng (là thời thịnh trị nhất của nhà Nguyễn) và như thế thì tôi lúc 61 tuổi có thể cũng là một cụ Nghè, một cụ Thượng hồi hưu? có phong ấp giữa sự kính nể của nhân dân, con cháu sung vầy, sống trong một thời tạm gọi là có vài nét của Nghiêu Thuấn xa xưa! Đứng về mặt tâm lý tự nhiên, đó là giấc mơ thâm sâu nhất trong tiềm thức tôi, chảy trong huyết thống tôi, có lẽ bắt đầu từ cụ tổ Nguyễn Khắc Vặn, đời Lê Trung hưng, cả một cây gia phả Nho gia mà thân phụ tôi là đóa hoa cuối cùng, “nở bất phùng thời” như lời vua Thành Thái nói với người trong sân rồng, lúc thi Đình. Một giấc mơ tiêu biểu một sự tàn lụi, mà năm 1945 chỉ là giây phút cuối cùng chứ có lẽ đã bắt dầu từ khi vua Hàm Nghi bị bắt và cụ Phan Đình phùng mất đi, để lại một phong trào Cần Vương tan rã. Sau đó có lẽ đã nỗ lực bừng lên một lần nữa phong trào Kỳ ngoại hầu Cường Để, với hình ảnh đẹp đẽ của cụ Phan Bội Châu, nhưng hoàn toàn bị dập tắt hẳn dưới gót sắt của phát xít Nhật! Chiếu thoái vị của Bảo Đại chỉ là một dư âm của một bóng ma trên cửa Ngọ môn.
“Nghiêu Thuấn”, “tu tề trị bình”, “chí ư chi thiện”, đó là cái mầm lý tưởng đã được gieo vào đáy tâm hồn tôi! Nhưng khi biết suy nghĩ thì cái mầm ấy đã chết hẳn rồi. Tất cả những gì bi quan yếm thế tận đáy tâm hồn tôi có thể bắt nguồn từ đó. Thế giới lý tưởng của Nho giáo có thể ví như vườn địa đàng, mà người con của thân phụ tôi bị đuổi ra vĩnh viễn như A-đam vậy. Mà kẻ phạm tội phải chăng là triều thần thời Tự Đức đã không nghe lời cụ Nguyễn Trường Tộ? Cũng không chắc là nếu cụ Nguyễn Trường Tộ được nghe theo thì tại nước Việt Nam ngày nay có một nền văn hóa tổng hợp hài hòa được lý tưởng Nghiêu Thuấn và văn minh cơ giới Âu Tây hay không (không chắc lắm, vì xem như Nhật Bản bây giờ thì cuối cùng hoàn toàn là một dạng văn minh cơ giới hóa rơi vào quỹ đạo của tư bản Mỹ). Nhưng với sự suy vong của nhà Nguyễn, là nền văn hóa cơ giới Âu Tây hoàn toàn thắng. Cái tuyệt vọng của các nhà Nho trên nước Việt Nam này đã thấm vào hồn tôi qua giọng ngâm thơ trầm buồn của thân phụ tôi trong ánh hoàng hôn ở thành nội Huế. Tôi gần như hoàn toàn dị ứng với nền văn hóa Âu Tây. Chính vì thế mà Pascal trở nên lôi cuốn đối với tôi, và thái độ hờ hừng với thế cuộc cũng do đó mà ra. Bởi vì cái nền văn hóa Âu Tây hiện nay đang bành trướng khắp thế giới (dưới bất cứ dạng nào) thật khác hẳn với các nền văn hóa ngoại giáo (païen) như văn hóa cổ đại trước công nguyên, hay các nền văn hóa khác trước lúc chủ nghĩa thực dân và đế quốc lan rộng. Các văn hóa này có cái gì đó vô tội (innocent), trinh nguyên (vierge) có khi lên cao nhờ ánh sáng lý trí tự nhiên (Khổng, Lão, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Platon, Aristote) có giá trị lành mạnh (sain) một cách tự nhiên. Còn cái văn minh Âu Tây sau thế kỷ 16 là văn minh của thời Phục Hưng ở châu Âu, một nền văn minh đã phản Chúa, bỏ Chúa, trở lại với cổ đại, sau hơn 1000 năm được nuôi dưỡng bởi Kitô giáo. Nó không có sự hồn nhiên vô tội trinh nguyên (pré-adamique) như các văn hóa ngoại giáo tự nhiên (païen), nhưng ngược lại, nó có mầm mống phản thần (Anti-théisme) của một kẻ phản Chúa! Nó không còn là minh triết (sagesse) tự nhiên vô tội mà là cái “khôn ngoan” của ma quỷ, như thánh Phaolô đã mô tả! Phản ứng của các nhà Nho thời Tự Đức không phải là không có lý do của nó. Ngay cả vụ án Galilée cũng vậy. Bên trong cái khoa học kỹ thuật, có một chất độc như quả cấm vườn địa đàng là quả của sự biết, cái “biết” của Xảo Trí (intelligence satanique) chứ không phải của Trí Huệ Nhân loại tự nhiên (Sagesse naturelle humaine), lại càng không phải là Thánh Trí (Sagesse divine).
Sự thất bại của một ước mơ Nghiêu Thuấn, thật ra không phải đợi đến năm 45, năm 75 hay là bất cứ năm nào, bất cứ một biến cố nào mới làm thất vọng những tâm hồn vốn khát khao một cái gì hoàn hảo. Chỉ nói ngay tại Việt Nam, ngày trước các nhà Nho cuối triều Nguyễn có cả một chuỗi nhà nho rút lui ẩn dật vì thấy cuối cùng điều mơ ước của mình thấy không đạt: La Sơn Phu Tử, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An và Tô Hiến Thành (dưới một dạng nào đó), kể cả một người đã thành đạt lẫy lừng như Nguyễn Trãi. Và ngay từ ban đầu, cụ Khổng chu du khắp thiên hạ, thấy vương đạo chẳng ai chịu thi hành, cuối cùng đành rút lui về dạy học! Đối thoại giữa Mạnh Tử và Lương Huệ Vương về nghĩa và lợi có thể có một giá trị muôn đời. Xét theo thời thế hiện tượng bên ngoài thì cuối cùng, ở trần gian này, lợi vẫn thắng nghĩa, bạo tàn chà đạp nhân ái. Do đó, cả một dòng tư tưởng yếm thế mà hình ảnh là Sào Phủ và Hứa Do, ẩn dật lánh cõi đời ô trọc để ít là giữ lấy phẩm hạnh của bản thân mình: “Độc thiện kỳ thân”. Suy cho thật kỹ, có lẽ một nhà Nho bất dắc dĩ, sinh bất phùng thời, treo ấn từ quan, mây ngàn hạc nội mới là giấc mộng đầu tiên tự đáy tiềm thức của tôi: Đào Tiềm, Bạch Vân, Hạnh Am, Tố Như, các nhà Nho như Võ Liêm Sơn, Võ Bá Hạp, Nguyễn Mai (chắt đích tôn của cụ Nguyễn Du) và một số các cụ tú, cụ cử, cụ phó bảng, cụ nghè không ra làm quan vẫn như có sức hấp dẫn lôi cuốn tôi. Trước 45, các thày Tạ Quang Bửu, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh ở Huế, Đặng Thái Mai ở Hà Nội, không phải không có ít nhiều dáng nét nhà Nho (hiểu theo nghĩa rộng: kẻ sĩ) bất phùng thời ra dạy học. Và tôi tự hỏi, trừ 30 năm 45-75 mà dân tộc ta bước lên đài vinh quang của cuộc kháng chiến lẫy lừng trong đó kẻ sĩ được phùng thời (mà dại tướng Võ Nguyên Giáp có lẽ là tiêu biểu), nhưng từ 75 trở về sau rồi sẽ ra sao? Xin dành cho lịch sử trả lời. Tôi chỉ xin đặt câu hỏi thôi, và hình như hình ảnh Phạm Lãi là câu giải đáp!
Đó là nói về lý tưởng xã hội Nghiêu Thuấn với “vương đạo” còn lý tưởng con người cá nhân theo đạo thánh hiền thì: Khổng Tử, Chu Công là thuộc về quá khứ hoàng kim: còn suốt hơn 2000 năm qua, ở Viễn Đông chỉ có 2 vị là được hậu thế tôn vinh lên bậc “hiển thánh”: Quan Vân Trường ở Trung Quốc và Trần Quốc Tuấn ở Việt Nam. Cụ Khổng cuối cùng chỉ được hai người học trò giỏi mà thôi! Thế nhưng dưới gót ngựa của 2 vị hiển thánh ấy, suy cho cùng, bao nhiêu là xương máu! Có Vương Đạo, có Thánh hiền đi nữa, trần gian cũng đầy nước mắt mồ hôi và xương máu. Huống chi là khi bá đạo và tiểu nhân lên nắm mối giềng thiên hạ! Giấc mơ đại đồng của cụ Khổng phải chăng là giấc mơ địa đàng đã vĩnh viễn khép cửa, và chỉ mở ra khi Con Người trở lại? Xin thú thực ở đây rằng: hình ảnh nhà Nho bất phùng thời cũng làm cho tôi không mấy tin tưởng về tác dụng thiết thực của các thông điệp của các vị Giáo Hoàng về vấn đề xã hội trần thế. Khác nào lời rao giảng của Yoan Tiền hô giữa sa mạc. Thiên hạ không chặt đầu cho là may lắm rồi! Bởi vì phe nào cũng sẽ bất bình và đổ lỗi cho là người nằm vùng của phe kia. Cũng tựa như Tổng Giám mục Paris bị tử nạn khi liều thân ra can ngăn cuộc tương tàn trong biến cố Paris công xã.
Biết thế nhưng rồi, như trong bài thơ vịnh cuộc đời của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi đã có câu: “Tình dân nghĩa nước ai không nặng”. Cho mãi đến năm 75 tôi vẫn cứ bồn chồn về thời cuộc. Kể cũng thật vô tích sự! Bồn chồn một cách vô vọng, vô tác dụng, chỉ mong được tất cả không cảm cho rằng: ít nhất tôi cũng như nhân vật Trajan trong cuốn “Giờ thứ 25” thấy mọi người bị mưa tuyết dãi dầu, mình đứng yên dưới mái nhà không đành, nên cũng ra đứng ngoài trời, ít ra là cùng chung số phận với anh em. Năm 65 tôi về Việt Nam, hầu hết bạn bè ở Pháp, ngay cả vị giáo sư bảo trợ luận án tiến sĩ cũng bảo tôi là điên! Rõ ràng “Cây cao bóng mát không ngồi, em ra đứng nắng trách trời không im”. Thay vì an bình trong một viện tu trên bờ hồ Leman, hay một ghế dạy học ở Pháp hoặc một công tác ở Unesco như một số bạn bè, lại khăn gói về Việt Nam để chẳng làm nên tích sự gì cả về bất cứ bình diện nào! Có chăng là còn để lại cái gì trong hoài niệm của một vài sinh viên đang khuya gõ cửa vào xin trú ngụ qua đêm rồi sáng mai lại rũ áo ra đi, hay của một bạn cùng trại học tập, chia đôi miếng đường tán cuối cùng, một viên Tyfomycine cuối cùng (với một đêm nguyện cầu phấn đấu như đã thuật lại trên kia) và cuối hết là những dòng mua vui tẻ nhạt này? Paul Claudel hình như có lời kinh xin Chúa ban cho được như hạt bụi trên quãng đường xa khách hộ hành đạp chân lên, bước qua đi không hề hay. Đúng, miễn là không đến nỗi như cái gai hay viên đá nhọn đâm thủng chân khách qua đường là tạm được. Nếu Chúa ban cho như gốc cây quán nước, khách ghé lại dừng chân chốc lát rồi lại ra đi, thì cũng là quá sức hèn mọn của mình rồi, chỉ nhờ ơn Chúa ban mới được đó mà thôi.
Giấc mộng Nghiêu Thuấn không thành, và động Phi Lai cũng không cầm chân được, nên rồi lại lủi thủi rời khỏi thiên thai (giây phút rời bỏ dòng Biển Đức trở về cõi tục) để trở lại cuộc đời lưu lạc, để như Từ Thức thấy mình lạc lõng bơ vơ làm thân một “moine manqué”, - manqué: “lỡ tàu”, bất phùng thời. Nhưng thời ở đây là thời vạn kỷ thiên thu của một cõi trần đã tách lìa cùng Thiên Chúa, không còn mong một cuộc tao phùng nào nữa!
“Cửa động đầu non đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!”
Mà trần gian có gì lôi cuốn hấp dẫn tôi đâu? Tại sao tôi lại từ giã non tiên để trở về cõi tục như vậy? Hình ảnh Trajan trên kia chẳng qua chỉ là tự biện minh và tự an ủi! Âu cũng chỉ còn biết nhắm mắt phó thác cho Lượng từ bi vô cùng vô tận vô biên của Thiên Chúa mà thôi!
Rồi lại một giấc mộng thứ hai mà tôi tạm đặt tên là giấc mộng “Kim Kiều”. Đối với nhà Nho nào đó (và có lẽ đối thân phụ tôi cũng thế? ). Ái tình là zéro. Nhưng đối với cậu bé đã đọc trộm “tiểu thuyết thứ bảy” và các tiểu thuyết trữ tình của phong trào lãng mạn, từ “giọt lệ thu” của Tương Phố, cho đến “Bướm trắng” của Nhất Linh, đã khóc sướt mướt khi đi xem tuồng cải lương “Tắt lửa lòng” do nữ danh ca Năm Phỉ đóng vai Lan, đã thuộc từng đoạn dài của “Đoạn trường tân thanh”, cộng thêm vào những vần thơ của Lamartine, những đoạn văn của Chateaubriand, đã đọc đi đọc lại bao nhiêu lần “Paul et Virginie”. Atala et René” thì ái tình lại được tuyệt đối hóa dưới dạng “thất tình”, toàn là những mối tình bất khả; Ái tình là tất cả mà kết quả lại là zéro! Trong tiềm thức tự nhiên và ngoại giáo (païen) đã như in sâu cái cảm thức hôn nhân và tình yêu là mâu thuẫn! Đúng hay sai về phương diện tâm lý, thể lý, triết lý và thần học thì không nói tới, nhưng tâm hồn tôi là như vậy. Một cảm thức (đúng hơn là quan niệm) hoàn toàn platonique về ái tình! Tâm chứng của tôi có lẽ phần nào bắt nguồn từ đó. Lúc được tiếp cận với chân lý Kitô giáo về ái tình và hôn nhân trong bí tích hôn phối thì quá trễ, và hoàn cảnh gia đình, xã hội lại không thuận lợi cho việc lập gia đình, cho nên mãi đến nay - việc tôi sống độc thân cũng là một cái gì dang dở? không phải là tự nguyện hy sinh một hạnh phúc vì tình yêu Thiên Chúa, cũng không phải là sợ gánh nặng thê nhi (trái lại, nhiều lúc tôi hối tiếc không có kẻ thừa kế để dòng họ Nguyễn Khắc có kẻ thờ phượng Chúa mai sau); nhưng hình như trong tiềm thức (hay siêu thức?) vẫn có cảm thức rằng ở trần gian này không thể có tình yêu hoàn hảo, cũng tương tự như ở trần gian này không có vương đạo; Nghiêu Thuấn chỉ là huyền thoại, thì Kim-Kiều có tái hợp cũng chỉ là “đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ”. Lời reo vui của Adam phút đầu tiên được thấy Eva cuối cùng kết thúc là một lời đổ lỗi chối quanh: “Tại người nữ mà tôi ăn quả cây cấm”.
Bức ảnh Thánh Tâm với Yoan Tông đồ dựa ngực mà tôi được lãnh thưởng thuở 14, 15 khi còn là ngoại giáo, và mối tình giữa Phanxicô nghèo khó và Chúa Giêsu, giữa Têrêxa Hài Đồng với Chúa Giêsu, như chỉ cho tôi thấy mộng Kim-Kiều chỉ thực hiện được và đã được thực hiện trong trái tim của Con Người Nadaret đã bị lưỡi giáo đâm thâu. Và tôi học thuộc lòng đoạn cuối của bài “Hiến dâng cho tình yêu xót thương của Thiên Chúa” mà Têrêxa Hài Đồng đã đọc vào lễ Chúa Ba Ngôi năm l895; không phải tôi dám tự dâng mình như Thánh nhân, nhưng để ngước mắt nhìn lên một ánh đuốc soi đường. Và từ đó tôi luôn bị ám ảnh bởi một cuộc đời tu trì chiêm niệm và nguyện gẫm (oraison) là nền tảng cho linh đạo dòng Cát Minh; Đó là nguyên nhân của những bất ổn trong những năm ở dòng Phanxicô sau khi mãn thời gian nhà tập. Và đây là cả một sự lệch bước sa lầy kéo dài có thể nói là từ năm l951 đến năm 1984: trên 30 năm trời, mà trên đây tôi đã tạm gọi như là lệch bước “ngộ đạo” (gnosticisme) và đời thần hiệp (mystique) một cách ít nhiều vô thức!
Chúng ta biết rằng tình yêu lý tưởng (platonique) một mặt vẫn là duy kỷ (amour de concupiscence) vẫn là Eros, là một chuyển vận khao khát có vẻ hướng thượng từ dưới vươn lên cao, nhưng cuối cùng cũng chỉ là tìm thỏa mãn cho mình (dù là mình tâm linh cũng chỉ là mình bằng cách chiến hữu một đối tượng lấp đầy một khao khát của mình). Tình yêu này hoàn toàn duy kỷ và vị kỷ! Do đó, tính cách hướng thượng ở đây rất đáng đề phòng, chính vì nó có tính cách cao thượng. Như câu Ngọc nói với Lan trong “Hồn bướm mơ tiên”: “yêu trong tâm hồn trong lý tưởng”, nghe qua thì cao đẹp biết bao! Nhưng tình yêu ấy thật ra cuối cùng cũng chỉ là một “hưởng thụ” trong tinh thần nhưng vị kỷ. Xin dùng một từ hơi thô tục: là một cuộc “thủ dâm” tinh thần tay đôi mà đơn độc! “thủ dâm tinh thần” vì cuối cùng, đương sự tìm thoả mãn vị kỷ trong sự xúc cảm thiêng liêng đầy an ủi ngọt ngào (consolation spirituelle, douceur spirituelle) và luôn muốn được hưởng thụ (jouir) qua một sự cảm xúc tự thức thực nghiệm (expérience sentie, vécue, directe, consciente) cuối cùng trở thành một sự dính bén, ham hố, hưởng thụ, hoàn toàn là một dục vọng, cho dù là thiêng liêng cũng chỉ là dục vọng, là một sự “tham lam thiêng liêng” (gourmandise spirituelle). Tâm hồn cuối cùng cũng chỉ đi tìm khoái lạc dù là khoái lạc thiêng liêng. Tự nó thì không có gì là xấu, cũng như bất cứ khoái lạc vật chất nào, tự nó không là xấu: ăn ngon, hiếu tri, thẩm mỹ, khoái cảm ái ân – đều là do Thiên Chúa tạo ra cho con người sử dụng để tự thể hiện chính mình. Thế nhưng, nếu bám víu một cách ham hố, hưởng thụ một cách duy kỷ và vị kỷ thì đều là một thứ “thủ dâm” cả. Và còn nguy hiểm hơn cả thủ dâm phần xác, vì nó tế nhị, tinh vi khó lật tẩy cho lộ diện ra. Tham ăn, dâm dật thì ai cũng biết là xấu: còn tìm kiếm bám víu sự “ngọt ngào an ủi thiêng liêng” với thái độ hưởng thụ duy kỷ, thì khó lòng nhận diện. Tệ hơn lại còn bị lầm tưởng rằng vậy là yêu mến Chúa: Quả là thần sự tối khoác áo thần sự sáng một cách tinh vi.
Đọc Têrêxa Hài Đồng và Yoan Thánh giá, đáng lẽ ra tôi phải ý thức điều ấy mà cảnh giác, thế nhưng cái nếp “tình yêu lý tưởng” (amour platonique) đã quá ăn sâu vào tiềm thức nên có thể nói: tôi như bị một tấm màn che mắt không cho thấy. Tôi tự hỏi có phải vì tấm màn che mặt quá dầy mà Chúa phải để cho tôi “trầy da tróc vẩy” trên 30 năm trời, như dân Chúa lạc lõng 40 năm trong sa mạc, mới chọc thủng tấm màn ấy chăng? Tôi đã hiểu câu: “Ai khát hãy đến” một cách “xác thịt” (xác thịt được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh: chair et esprit, “charnelle” chứ không hiểu theo Platon: corps et âme). Do đó mà tôi gọi 30 năm ấy là một cuộc “mộng du”. Thay vì mộng Nghiêu Thuấn & Kim Kiều, tôi đã theo đuổi mộng “thiên thai” ngụy trang dưới tà áo của Đức Mẹ núi Cát Minh.
Nhưng đây lại là PHÉP LẠ VÔ CÙNG VĨ ĐẠI: Tà áo Đức Mẹ núi Cát Minh, dù bàn tay tội lỗi của tôi đã dùng làm ngụy trang, vẫn đủ quyền năng cứu rỗi hồn tôi. Những hoa hồng do bàn tay Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã ngắt từng đóa lót dưới chân Chúa Giêsu, từ những bước ngày thơ ấu cho đến chặng đường cuối lên núi Sọ, cuối cùng cũng mở mắt tôi ra cho tôi thấy mình đã lạc đường. Và giây phút ấy là đêm 30-3-1975 lúc tôi nằm dưới đường mương sau nhà Hòa Lạc, nhìn trường Võ Bị của chế độ cũ miền Nam: mìn nổ, đạn nổ, lửa bốc lưng trời, như một giờ tận thế. Do đó, tôi đã gọi năm 75 là cuộc “trở lại thứ hai” của tôi tưởng không quá lời! Và hình như đối với nhiều tâm hồn khác, năm 1975 cũng là năm của một cuộc trở lại thứ hai, và đồng thời cũng là năm của nhiều cuộc trở lại thứ nhất, như tôi đã được sống trong những năm 45-49 về trước (sau 75 cũng có nhiều người tòng giáo như tôi năm l949).
Có một điều rất lạ, là cuộc trở lại lần đầu của tôi đã do tự một mình tôi mò mẫm và nhờ biến cố khách quan như xô đẩy, thì cuộc trở lại lần thứ hai cũng vậy: tôi đã gặp nhiều Linh mục giàu kinh nghiệm về đời sống nội tâm, mà không có một vị nào nói cho tôi thấy điều tôi phân tích trên. Nói thế bởi lẽ chính tôi đã đọc Têrêxa Hài Đồng và Gioan Thánh giá cách đây trên 30 năm, đã bao nhiêu lần đọc đến đoạn các Ngài nói về “dính bén” những cái thiêng liêng, thế mà tôi đâu có nhận ra mình còn vương nặng phải cái tật ấy - cái “tật” làm cho đời sống thiêng liêng của tôi cứ “lợn cợn” mãi!
Cái “tật” bám víu ấy có thể giải thích được như sau: đối với những người đạo dòng, thì từ thuở bé đã được sinh sống trong một thế giới của “Đức tin” thuần túy, có thể nói không có màu sắc “thần hiệp” (mystique); rồi nếu được ơn gọi cách riêng mới từng bước đi vào đời thần hiệp, nếu không thì cũng vẫn sống trong thế giới đức tin thuần túy tin (phúc cho những người không thấy mà tin). Còn tôi thì có thể nói rằng sự tìm kiếm của tôi đã được Thiên Chúa đáp lại bằng một sự tỏ mình trực tiếp; cho nhận thấy Ngài, gặp được Ngài, nếu không phải là thần hiệp thực thụ, thì cũng được nếm một sự cảm thụ trực tiếp nào đó chứ không phải là đức tin thuần túy - trần trụi (foi pure toute nue). Tình trạng “Á-thần-hiệp” ấy được kéo dài trong những ngày tháng từ sau khi chịu phép Rửa cho đến hết năm nhà tập. Hết năm nhà tập, bị kéo ra khỏi môi trường ấp ủ để theo đuổi chương trình của học viện, tôi cảm thấy như bị “thôi nôi”, cứ nuối tiếc mãi cái thời kỳ trăng mật và cứ tìm kiếm khắp nơi, đúng là nạn nhân của cái tật tham ăn thiêng liêng! Sở dĩ mấy tháng sống ở tu viện nhỏ tại miền Bắc nước Pháp, trước lúc sang tu viện chính ở Thụy Sĩ, tôi cảm thấy được an ổn vì lòng tham lam thiêng liêng ấy được thỏa mãn! Nói cách khác tôi cứ muốn được thấy, được cảm xúc (sentir) được thực nghiệm (expérience directe) chứ không chịu bước vào thế giới đức tin thuần túy, sống trong sự chờ đợi và yêu mến hiến dâng (agape). Thời gian ấy, tôi cứ đi tìm tới từ linh đạo này sang linh đạo khác, chẳng qua là đi đuổi tìm một kỹ thuật, một cách thụ động gần như máy móc chắc ăn (méthode sure 100%) tự nó sẽ đưa tôi đến tình trạng “thần hiệp” trực tiếp ngay ở đời này và liên tục vĩnh viễn. Nói cách khác, tôi muốn phá cửa địa đàng để sống mãi cái tình trạng như trước thời tội tổ tông: chiều nào Chúa cũng ngự xuống vườn, cùng dạo chơi với tôi trong làn gió chiều mát nhẹ.
Có thể dùng hình ảnh sau đây để lý giải sự lệch bước của tôi: đôi tân hôn sau thời kỳ trăng mật thì phải đến lúc rời xa nhau để lo việc xây dựng gia đình: người chồng thì đi xa mưu sinh, người vợ thì tảo tần trưa sớm. Tôi không biết như vậy, mà cứ muốn kéo dài thời trăng mật trong phòng hoa chúc, kéo dài mãi mãi đêm tân hôn và ngày vui tiệc cưới, chứ không biết rằng: tình trạng ấy chỉ có khi nào Ngài trở lại đưa tất cả vào cõi trời mới đất mới, mới thể hiện một cách vẹn toàn, liên tục và vĩnh cửu. Có thể nói, tôi cũng như Madalena, sáng sớm Phục sinh, chỉ muốn nắm lấy, đeo đẳng lấy Chúa, mà không biết rằng, không được đụng tới Ngài (hoặc không được cầm Ngài lại) phải rời xa Ngài mà đi loan tin Phục sinh cho anh em (hoặc là đời hoạt động ở trần gian, hoặc là đời hiến dâng trong sự đợi chờ thuần túy tin-cậy-mến tình nguyện). Thái độ của dân Israen hay vòi vĩnh trong 40 năm lưu lạc ở hoang địa cũng vậy. Đó là xu hướng tự nhiên của bản năng thần hiệp nhân loại thuần túy, chưa được siêu nhiên hóa trong Đức Kitô (tendance mystique naturelle purement humaine, pas encore purifée, surnaturalisée dans le CHRIST).
Do đó ngày nay nhìn lại, tôi nhận định như sau: Đành rằng dạng các dòng tu cổ điển Tây phương không phù hợp với tâm hồn Á đông và Việt Nam của tôi, có làm cho sự không ổn của tôi thêm phần trầm trọng, nhưng nguyên nhân chính cho sự bất ổn của tôi là xu hướng “thần hiệp tự nhiên” nói trên; vì thế mà phải có một sự thanh lọc lâu dài mới hết lợn cợn khỏi những tật đã ăn sâu: Tình yêu lý tưởng (platonique), duy tâm cực đoan (désincarné), duy kỷ (égocentrique) tham ăn thiêng liêng (gourmandise spirituelle; érotisme spirituel), chủ nghĩa nội tại (immanentisme), chủ nghĩa kỹ thuật thiêng liêng (technicisme spirituel) thiếu hẳn chiều sâu siêu nhiên (surnaturel) và siêu việt tính (trancendance) và ân sủng tính (don gratuit) của đời chiêm niệm Kitô giáo đích thực. Khát vọng tu trì của tôi do đó không đạt kết quả như đáng lẽ phải có, và trở nên dang dở, không vẹn toàn triển nở mãi cho đến sau cuộc trở lại 1975.
Thế rồi tôi bị vất trở lại thế trần cùng với tình trạng dang dở và lợn cợn. Giả như tôi được vào Sorbonne ngay từ năm 1945-46 thì có thể tôi đã trở nên một trí thức vào hạng khá. Nhưng sau khi đã nếm qua cái hương vị đời tu trì mà trở lại trần tục, tôi khác nào như Từ Thức lúc rời khỏi thiên thai trở về trần thế, đi đâu cũng thấy mình lạc lõng mang thân phận “trích tiên”. Và đó là cũng một cảm thức, một quan điểm còn quá nặng mùi ngoại giáo. Trong cái nhân sinh và vũ trụ quan đa dạng, phong phú và biện chứng của Kitô giáo giữa các phạm trù “vật”-”tâm”, “thế gian”-”thiên quốc”; “thế gian”-”vĩnh cửu”; “hoạt động”-”chiêm niệm”, tôi đã có thái độ cắt chia (séparer) thay vì phân biệt (distinguer) đúng đắn để có một sự bổ túc hài hòa; tôi là kẻ có xu hướng “hoặc, hoặc” thay vì “vừa, vừa” (“aut, aut” thay vì “et, al”).
Cách sống tài tử của tôi trong những năm sinh viên và giáo sư là bắt nguồn từ một quan niệm bi quan nửa vời dựa trên một quan niệm “phi hóa vũ trụ” (acosmique) và cuối cùng gần như phủ nhận, nếu không nói là trách cứ vào chính sự sáng tạo của thiên Chúa, và kết quả có thể đi đến thái độ phản loạn “non serviam” tôi xin phân tích rõ như sau: trong những ngày tháng quá đau khổ trước lúc được chịu ơn Thánh tẩy tôi đã có lúc lồng lộn hét to: “Créateur! Si tu existes, je te hais!”: “Tạo Hóa, nếu ngươi có, ta căm thù Ngươi!” Nhân vật Ivan trong cuốn “Anh em nhà Karamazov” cũng có thái độ tương tự. Và mặc dù sau khi rửa tội, tôi tin rằng tạo vật được dựng nên là do tình yêu Ân tứ, và tự nó, mọi sự đều là tốt lành, nhưng tận đáy tiềm thức thì có phần nào vẫn còn sót lại khả năng cái cảm thức “Hữu là khổ thậm chí còn là cái ác, là sự dữ”. Thời gian 56-65, tuy phong trào dấn thân có phần nào lôi cuốn tôi, nhưng chỉ ở bình diện tri thức và có phần nào “đua đòi” anh em, chứ bản thân tôi thì vẫn rất nặng cái tâm thức coi đời là bể khổ, tình là giây oan, rũ áo phủi bụi, mặc cho thế sự xoay vần.
Tôi xin tạm phân tích hai quan niệm tu hành. Nói chung, quan niệm ngoại giáo cũng như Kitô giáo đền nhằm một mục đích là đưa con người từ một tình trạng sa dọa (chute) nào đó lên một tình trạng gọi là “nên Thánh”. Thế nhưng, quan niệm về sa đọa và về nên Thánh của hai bên có sự khác biệt nhau rất sâu xa. Theo các quan niệm ngoại giáo, thì:
Hoặc là cho rằng chỉ có cái Tự Tại (Le Soi - không nói Đấng Tự Tại, vì thực ra có thể nói chữ Đấng đã bao hàm một “Ngã vị chủ thể”) duy nhất và thuần túy; còn mọi hữu thể đa tạp, là kết quả của một sự sa đọa gần như là tất yếu, hoặc do một tai nạn tình cờ (accident) rơi rớt phân tán, và như thế đó là sự dữ, cho nên đi đến hậu luận là mọi hữu thể ngoài cái Tự Tại ra đều là không nên có, không đáng có; vậy tu hành là phải “giác ngộ”, ý thức sự sa đọa ấy để đi ngược lại chối bỏ, từ khước, phủ nhận cái hiện hữu đa tạp, ô trọc, để trở về cái Tự Tại Uyên Nguyên duy nhất thuần túy: Sinh là khổ!
Hoặc cho là thực ra chỉ có cái Tự Tại là có thật, mọi hữu thể khác chỉ là ảo giác, tu hành là tỉnh ngộ khỏi cái ảo giác ấy, do đó mà gọi là “giác ngộ” (illuminé). Như người ngủ mê nằm mơ, chỉ cần thức tỉnh là được.
Do đó tu hành gần như là kỹ thuật để đạt một kết quả tất yếu. Và như vậy, các hữu thể được phân loại từng lớp theo chiều ngang, kiểu như các tầng địa chất: cái ô trọc ở dưới, (ví dụ: các nhu cầu thể lý như dinh dưỡng, truyền sinh), cái thanh tao ở trên (ví dụ: trí thức, chiêm niệm vv.. ) tu hành là rời bỏ cái thấp vươn lên cái cao như kiểu kỹ thuật lọc nước hoặc cất tinh dầu! Và càng ngày càng thanh tao, thanh cao hóa đến như nước hoàn toàn bốc hơi, hòa tan, trở nên không, như hư vô hóa vào cái Tự Tại; tu hành là thoát khỏi cõi thế được coi như là nấm mồ khỏi trần gian được coi như là nhà tù.
Theo Kitô giáo nói riêng và các tôn giáo bắt nguồn từ Kinh Thánh thì khác hẳn: mọi hữu thể tự nó đều tốt lành, đều được sáng tạo theo mẫu Sự Hữu Tuyệt Đối, đều không dự cách nào đó vào những tuyệt hảo tính (perfections) của Thiên Chúa. Sự sa đọa là do sự lựa chọn sai lầm của cái hữu thể có ý thức tự do (thiên thần và con người), và từ đó kéo theo luôn cả mọi tầng hữu thể khác. Do đó, tu hành không phải là vươn từ các hữu thể ô trọc, giải thoát khỏi tù ngục, bay lên cõi thanh cao, mà là, bất cứ ở cấp hữu thể nào cũng phải xoay chiều, hướng về Thiên Chúa: có một cách ăn, ngủ, làm tình, nguyện gẫm tốt lành thánh thiện nếu hướng về Thiên Chúa và tha nhân; có một cách ăn, ngủ, làm tình, nguyện gẫm xấu xa tội lỗi nếu vo tròn đóng kín. Xin cụ thể hóa như sau: vào nơi hành lạc, đó là tội lỗi thì đã rõ, mà ngay cả mải mê cầu kinh nguyện gẫm để tìm an ủi dịu ngọt thiêng liêng vị kỷ trong lúc bổn phận là phải lau chùi, băng bó những vết thương đầy máu mủ hôi thối đến lợm tởm, ói mửa, cũng là tội lỗi! Thế nhưng, sự trao xương gửi thịt trong bí tích Hôn phối, theo gương sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để cùng với Thiên Chúa tạo nên những linh hồn theo hình ảnh Ngài để muôn đời thờ phượng Thiên Chúa, lại là thánh thiện! Cũng như, nguyện gẫm để dâng lòng mình lên kết hợp với Thánh Tâm Chúa âu sầu phiền não trong vườn Giệt-si-ma-ni, để an ủi Chúa, để đền bồi phạt tạ thay cho các linh hồn tội lỗi, đó là thánh thiện! Theo Kitô giáo, không có trạng thái nào là thấp, là ô trọc (bas, impur). Tự nó, cái gì cũng tốt cả, nhưng đặt vào tay con người có tự do thì tùy theo sự sử dụng tự do, hoặc hướng về Thiên Chúa và tha nhân, hoặc quy về mình một cách vị kỷ, mà trở nên tốt hay xấu.
Tôi đã tin rằng Thiên Chúa là Cha Từ ái tạo nên mọi vật trong “tình yêu”: Ngài yêu thế gian đến nỗi phó Con Một của Ngài cho thế gian và Ngôi Hai đã mang lấy nhục thể, tôi cũng tin rằng Nước Trời là muối là men thấm nhuần vào thế gian thụ tạo; thế nhưng, tất cả mới chỉ là trên bình diện lý trí và ý thức; chứ trong tiềm thức sâu xa thì con người của tôi vẫn còn sót lại nhiều nếp gấp của quan niệm tu hành theo mẫu ngoại giáo, có thể tạm gọi là “phi vũ trụ” (acosmique), phản sáng tạo (anti-création), phi nhập thể (désincarné). Do đó mà tôi có dị ứng với mọi sinh hoạt thế trần: lập gia đình, sinh hoạt xã hội (ngay cả suy tư triết lý cũng vậy!); thậm chí cơ cấu Giáo Hội, giáo luật và cả hình thức phụng vụ, các á bí tích và các bí tích, bí tích Thánh Thể, cũng đều gặp nơi tôi một sự dị ứng nào đó! Tôi đã hiểu những lời: “Nước Trời ở trong các con”, “Thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý” theo một xu hướng duy tâm hướng nội cực đoan! Và cũng xin thú thật rằng mãi đến nay, mỗi lần tỉnh ngủ dậy, cái bản năng phi vũ trụ và bi quan ấy vẫn như còn đè nặng, tôi phải vận dụng lý trí và ý chí để điều chỉnh lại theo đúng tín lý của Kitô giáo là “hiếu sinh” và “hiếu hữu”. Về phương diện này, có lẽ Khổng giáo lại gần với Kitô giáo hơn bất cứ triết lý ngoại giáo nào: từ quan niệm “vạn vật bản hồ thiện” quan niệm Trời là hiếu sinh và hóa dục vạn vật; đạo Hiếu cũng bao hàm một quan niệm “được sinh ra cho có” là một ân sủng chứ không phải là oan trái hay nghiệp chướng. Tuy nhiên theo tôi nghĩ, trong triết lý Khổng giáo, vấn đề sự dữ không được đào sâu và lý giải thâm thúy; trái lại còn như tránh né, đảnh trống lảng! Tôi còn nhớ thuở bé: bị thân phụ tôi cấm ngặt không được nói những chuyện buồn, chuyện xấu, ngay cả những chữ như “chết”, “thối”… cũng phải hạn chế! Ví dụ: phải nói đồng hồ đứng, không chạy, chứ không được nói “đồng hồ chết”.
Cái lựa chọn cuối cùng là cái méo mó nghề nghiệp của việc “dạy triết”. Tuy trong bản chất tôi học triết với tinh thần là “tầm sư học đạo”, Triết học trở thành môn học như bất cứ môn học nào, dạy triết cũng trở thành một môn “chuyên biệt” thiên về tri thức, đặt vấn đề “sống” vào trong hai dấu ngoặc: giáo sư triết, thi triết, chương trình triết, cũng như giáo sư vật lý, thi vật lý, chương trình vật lý, thế thôi! Thầy trò rời khỏi giảng đường, rời khỏi phòng thi, sống ra sao không cần biết đến. Các nhóm môn sinh chung quanh Khổng Tử, Lão Tử, Socrate, Pythagore đâu có như vậy. Cái méo mó hàn lâm ấy có chi phối lên đời sống thiêng liêng của tôi khá nặng; vô hình chung tôi nghiên cứu về đời sống thiêng liêng, bình luận và có khi giảng giải về đời sống thiêng liêng như giảng bài học bài, để biết để thi vậy. Tôi đã hơi thiên về nghiên cứu “thần nhiệm học” hơn là thực sự sống “thần nhiệm”, học “Théologie mystique” hơn là “réaliser la vie mystique”: tôi là giáo sư hơn là tu sĩ, ngay cả trong lãnh vực thần nhiệm, có xu hướng trở thành “thức giả” (savant) về khoa thần nhiệm (science mystique) hơn là “thánh” thần nhiệm (“saint” mystique)!
Với bao nhiêu là lợn cợn đủ loại, cộng với chìm nổi của cuộc đời do ngoại cảnh, do thế sự chi phối: lý lịch của tôi về mặt nào quả cũng là một “tạp pí lù” phải dày công gạn lọc nhiều năm cũng là dễ hiểu các vị linh hướng của tôi cũng đã phải hao tốn nhiều công lao và thì giờ trong việc giúp tôi tìm và thực hiện ý Chúa. Thế nhưng tạ ơn Chúa muôn ngàn trùng, Ngài không nỡ bỏ tôi và Ngài đã ban cho tôi hai ngôi sao sáng để rọi lên cái biển đời đầy hỗn tạp của tôi, đó là Mẹ Maria và thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu. Tôi nghĩ rằng quá hỗn tạp như tôi thì Chúa phải đặt nhiều trung gian; cũng như nước quá ô nhiễm thì phải qua nhiều màng lọc! Nếu nội tâm tôi như đã được phân tích sơ lược ở trên, có thể ví như một mặt biển luôn sóng gió và dồn ứ quá nhiều lợn cợn, thì trái lại, Đức Maria khác nào như một dòng suối mát trong, luôn tưới lên tâm hồn tôi một cái gì đó đơn sơ lành mạnh (sain). Ở Paris, nguyện đường Đức Mẹ mẫu ảnh làm phép lạ (chapelle de la médaille miraculeuse) ở Rue du Bac rất bình dân, rất dung dị với chiếc ghế dựa bọc nhung xanh nơi Đức Mẹ ngồi khi hiện ra với Thánh nữ Catherine Labouré, là nơi tôi đến để được như lắng dịu mọi xôn xao bất cứ về mặt gì: lý trí, cảm xúc hay luận lý: có nhiều lúc, tôi không dám đến với Chúa, nhưng Đức Mẹ thì gần như luôn luôn hiện diện. Không hiểu khi Ma-da-lê-na gần như bị Chúa đẩy lui, không cho đụng tới Ngài buổi sáng Phục sinh, có chạy tới tìm Đức Mẹ hay không, chứ tôi thì vậy đó! Nói quá đi một ít nhiều để cho dễ hiểu: có nhiều lúc, tôi chỉ còn tin vào Đức Mẹ, rồi qua Đức Mẹ dần dần, Chúa mới trở lại trong gầm trời thiêng liêng của tôi! Trong những lúc tối tăm mù mịt, Đức Mẹ là ngôi sao hướng dẫn, trong những lúc ngã quỵ, Đức Mẹ là nơi tôi nương tựa và lồm cồm bò dậy và vươn lên, trong những lúc hầu như tuyệt vọng về mặt này mặt khác (vật chất cũng như tinh thần, xã hội, luân lý, thiêng liêng), Đức Mẹ là niềm cậy trông còn sót lại, như đồng vốn cuối cùng cho tôi gây dựng lại sự nghiệp đã tiêu tan.
Tôi xin đính chính ngay rằng: Đức Mẹ của tôi không phải là một sự an ủi tình cảnh có tính cách ủy mị nhi nữ đâu! hình ảnh của người nữ đạp đầu rắn dữ, tiến lên như đạo binh hùng dũng, có mặt trời mặt trăng và tinh tú chầu quanh, dự trận cam go và chiến thắng rồng dữ trong sách Khải huyền: đó là Đức Mẹ của tôi, đã giúp tôi thoát được bàn tay thâm độc của ác thần. Có lẽ tôi cũng như người nữ bị 7 thần dữ chiếm ám, chúng bị phép rửa trục xuất rồi lại rủ thêm tiếp viện tấn công dữ dội, nên Thiên Chúa đã giao cho vị nữ nguyên soái các đạo binh thiên quốc đến giải thoát tôi. Dùng đến hình ảnh người nữ oai hùng trong sách Khải huyền, là để nói lên rằng đến với Đức Mẹ cũng như đến với Chúa không phải tìm thuốc mê, thuốc phiện, như người ta lầm tưởng rằng tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng; nhưng là được thuộc về một số ít người mà thiên Chúa chọn cho tham dự vào một cuộc giao tranh khốc liệt (nhìn Đức Mẹ đứng dưới cây thập giá thì rõ). Tuy nhiên dể tránh cái sa lầy “phô trương lực lượng” (triomphalisme), đừng quên rằng cuộc giao tranh ác liệt này là giao tranh giữa thần kiêu ngạo với Đức Mẹ là hình ảnh kiểu mẫu của đức khiêm nhường; Chúa dùng một thiếu nữ mong manh để đạp dập đầu kẻ hung hăng kiêu ngạo, cũng như Đa-vít thắng Gô-li-át và Chiên Con thắng sư tử. Đừng quên rằng tính cách biện chứng ấy của linh đạo Kitô giáo, của cuộc chiến đấu Kitô giáo (combat spirituel): dũng lực mà không oai hùng (don de force chứ không phải courage humain).
Bên cạnh vị nữ nguyên soái ấy, có một nữ tùy tướng đó là Tê-rê-sa Hài Đồng. Xét về một mặt, tôi cũng bị lệch đường một phần nào do hiểu lầm về Thánh nữ: qua trung gian Thánh nữ, tôi tiếp cận với thánh Gioan Thánh Giá, từ đó tôi cứ ngộ nhận là có lẽ tôi được kêu gọi đưa dòng Cát Minh ngành nam vào vườn nho Hội Thánh Việt Nam, do đó sinh ra bất ổn trong suốt thời kỳ tu học. Nhưng nay thì thấy rõ: vì đời sống của tôi quá nhiều nỗi gian truân, nên Thiên Chúa đã dùng Thánh Nữ Tê-rê-xa Hài Đồng để dạy cho tôi bài học “hoàn toàn phó thác”, khác nào cái neo cuối cùng cắm sâu xuống lòng biển, khi mà chèo, lái, buồm thậm chí cả la bàn cũng đều hư hỏng, mà sóng gió tứ bề! Đời thiêng liêng của tôi thật rất nhiều giai đoạn như vậy, không có cái neo cuối cùng là “động tác hoàn toàn phó thác ấy”, chắc đã chìm dưới vực sâu của mọi thứ cám dỗ, dọa dẫm, lừa lọc, mà sự khờ dại và tính nhát đảm (poltron chứ không lâche) của tôi khó lòng đương dầu nổi. Và “động tác phó thác hoàn toàn ấy của Thánh Nữ Tê-rê-xa cũng là một dạng thức hiện đại của phương pháp “thần phi (voie analogique) mà Thánh Gioan Thánh Giá phát minh, giúp các linh hồn vươn bay thoát khỏi mọi cuộc thử thách cam go trong đêm dày đặc của cảm giác và tâm linh (nuit des sens et nuit de I’esprit). Tôi không dám nói tôi được đưa vào đêm dày thần nhiệm ấy, nhưng bề mặt hiện tượng tâm lý tự nhiên, thì quả linh hồn tôi bị quá nhiều bóng đêm dày đặc bao phủ, và sau hết là lòng sùng kính các thánh; có lẽ là lòng sùng kính này cũng là qua sự tiếp cận với Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng. Trước hết, chính Thánh Nữ có hứa rằng lên trời, thánh Nữ sẽ lại trở về trần gian, giúp đỡ những anh chị em còn ở nội chiến địa. Thánh Nữ cũng kể lại câu chuyện “Thánh Nữ nằm mơ thấy Nữ phúc lộc Anne de Jésus, vị sáng lập dòng nữ Cái Minh tại Pháp hiện ra an ủi, mà Thánh Nữ thì xưa nay không bao giờ nghĩ đến vị nữ phúc lộc ấy cả. Một vị Phúc Lộc gần như xa lạ với Thánh Nữ cũng còn có lòng ưu ái với Thánh Nữ như vậy thì bất cứ vị thánh nào đã được vào nơi vinh hiển, ắt cũng đều gần gũi với chúng ta. Cầu xin các Ngài không cần nghe ta kể lể cũng biết ta cần gì là vẫn sẵn sàng giúp ta. Cầu xin là để đón nhận, là để tiếp cận, để ý thức mình không cô đơn mà chiến đấu, là sống mầu nhiệm các Thánh cùng thông công trong nhiều hướng: trên xuống, dưới lên; cầu xin thực ra là cộng tác tích cực với các Ngài vì sự nghiệp cứu độ là sự nghiệp chung cần sự cộng tác của nhiều người (Giêsu Nazaret, Maria đều là người cả) trong sự tương giao cộng tác từ đó!
Tôi lại có cái may mắn không bị hạn chế trong một dòng tu nào, được đọc rất nhiều tiểu sử các vị lập dòng, các vị đổi mới dòng, các Thánh nam nữ khá nhiều thuộc nhiều dân tộc, nhiều triều đại, nên luôn cảm thấy như là đứa con cưng (tuy là hư hỏng) của một đại gia đình luôn luôn được số đông anh chị chắt chiu đùm bọc và nêu gương; từ Thánh An Tôn ẩn cư cho đến nữ danh ca Eve Lavallière, từ hoàng đế Lu-y IX cho đến cụ già (tuy vậy mà lõi đời) Gioan XXIII, từ Thánh Sy-ry-lô và Mê-tô-đô ở vùng cận đông, cho đến Thánh Mác-ti-nô de Po-rê ở châu Mỹ, từ vị tông đồ mòn gót chân tryền giáo cho đến Thánh Nữ Lidwine liệt giường nan y mấy chục năm, rồi các tín hữu danh nhân như Dante, Benanos, Péguy, Nguyễn Trường Tộ, Hàn Mặc Tử, Marie Noel, Jacques Maritain, Emmanuel Monier và cuối cùng là các Linh mục, tu sĩ, giáo dân tôi đã từng gặp mà nay đã qua đời; lẽ nào họ chẳng cúi xuống trên chúng ta, với trăm ngàn yêu mến phù trợ! (Tuy nhiên, đừng quên rằng họ phù trợ khác hơn điều ta chờ đợi theo cái nhìn phàm tục). Tôi đến với họ như đến với những người còn sống, như lúc tắt đèn thì hỏi người láng giềng xin mượn đốm lửa que diêm! Và lắm lúc tôi cảm thấy rõ ràng những con người ấy đã bước qua sự phân cách của không gian và thời gian, nên rất gần gũi, mà là sự hiện diện thông cảm của họ rất sâu xa và bền vững.
Ví dụ trong lúc viết lên những giòng này, tôi nghe một em bé khóc ngoài cửa, íl nhất tôi cũng ngưng viết, mở cửa ra xem sao! Tôi là kẻ phàm tục tội lỗi thà còn vậy huống hồ là bất cứ một chi thể nào của Đức Kitô đã đi vào vinh hiển! Đến với họ trong sự thông hiệp vào mầu nhiệm “Các thánh thông công” là như cành nho cùng chung một nguồn nhựa sống, phát xuất từ một gốc nho duy nhất là Đức Kitô; tôi nghĩ mỗi bông hoa như Tê-rê-sa Hài Đồng là kết quả của cả giòng họ Martin, của dòng Cát Minh Pháp (cho nên nữ Phúc Lộc Anne de Jésus mới tỏ mình ra), của Hội Thừa sai Paris (qua chân phúc Théophane Vénard) v.v… Mà quả vậy thánh Nữ Clara, thánh Phêrô Acantaca, đã nhiều lần tỏ mình khích lệ Tê-rê-sa thành Avila trong sự nghiệp cải tổ dòng nữ Cát Minh.
Từ cuối năm 1956 đến nay và có lẽ đến ngày tôi từ giã cõi đời, hầu hết mọi dêm, từ 10 giờ đến 6 giờ sáng, sau khi đóng cửa phòng là tôi chỉ có một mình; thế nhưng tôi có cảm tưởng tôi được sống như những ngày thơ ấu, mỗi buổi tối được vui vầy trong bầu không khí của cha mẹ, anh chị em sum vầy đoàn tụ, vui buồn san sẻ, lo âu hy vọng chung chia! Tôi thấy được ấm cúng, được đùm bọc, ngược hẳn với cảnh bị xô đẩy chen chúc giữa một đám đông vô danh, vô ngã vị mà con người chỉ ở sát nhau, như đá xếp cạnh nhau, chứ không sống với nhau, nịnh bợ nhau, phỉnh lừa nhau, lợi dụng nhau, đề phòng nhau, lánh mặt nhau! Và tôi có cảm tưởng đã quen sống với nhau trong sự thông dự mầu nhiệm thiêng liêng vô hình ấy, đến nỗi lúc bị ném vào giữa đám đông vô danh, vẫn như có mang theo cái khí quyển với nhau ấy, thành ra nhờ đó mà dễ tạo ra sự thông cảm, để thiết lập những tương quan liên ngã vị bất cứ ở môi trường nào, làm cho bầu không khí bớt bị ngộp thở! Louis Lavelle có phân biệt sự “cô tịch” (solitude) và “cô lập” (isolement). Lòng sùng kính các thánh đã giúp tôi sống hơn 30 năm trong sự “cô tịch” và phần nào giúp tôi khi chung đụng với mọi người ở mọi nơi, dễ dàng và nhanh chóng tạo ra sự sống với bất cứ trạng huống nào! Tất cả đều trở nên có “sự hiệp thông các thánh”, bởi lẽ, trừ ra những linh hồn đã rơi vào hỏa ngục (mà là những linh hồn nào, nào ai hiểu được!), còn đã là người thì hoặc đã hiển thánh (đã hoặc chưa hoặc không được phong), hoặc là đang có khả năng nên thánh (xem kẻ trộm lành, tử tội ra Prazini). Sự hiệp thông ấy vô giới hạn, giữa những người sống với nhau, cũng như giữa những người đã qua đời và những nguời đang sống ở trần gian. Tôi bỗng nhiên liên tưởng đến Quan Công và Trần Hưng Đạo, và những ai đã chết vì “Đại nghĩa”. Tôi không giấu diếm ai rằng trước 75, đêm giao thừa, tôi thường đến Đền thờ Đức Thánh Trần cầu xin Ngài phù hộ cho con cháu Tiên Rồng sớm chấm dứt cảnh tương tàn, và có dịp ra Huế tôi vẫn đến viêng mộ cụ Phan Bội Châu với tâm tình như vậy. Và tôi vẫn tin rằng trong các tiền nhân nội ngoại của tôi, những ai thực hiện được phần nào “đạo thánh hiền với nhân-nghĩa-lễ-trí-tín”, đều có sự gần gũi phù trợ nào đó đối với đứa con cháu này. Còn lòng ái mộ đối với thánh M. Gandhi, đối với Đức Thích Ca và chư liệt thánh kim cổ-đông tây cũng như gần như với các thánh Tiên tri và Tổ phụ thời cựu ước vậy! Tôi nghĩ các ngài đều là tác phẩm của một Thánh Thần duy nhất mà thôi. Cái hoa nở đẹp, con bướm sặc sỡ, tiếng chim lảnh lót, quả ngọt thơm tho còn do bàn tay Thiên Chúa tác thành; huống chi là những bậc thánh nhân-quân tử, anh hùng, liệt nữ, đáng cho thiên hạ noi gương.
Trong các đại gia đình ấy, ở vị trí trưởng ban Triết học một viện Đại học Công giáo, đáng lý tôi phải thấy gần gũi với các bậc như Tô-ma A-qui-nô, Bellarmin, Albert Cả, Lacordaire, Bonaventure, Duns Scotus… Nhưng vì Pascal đã dẫn tôi gặp Chúa Giêsu lần đầu tiên trong lúc Ngài vất vả quằn quại dưới cây dầu, toát mồ hôi máu, xin môn đệ hợp ý cầu nguyện, cho nên tôi thường hay tưởng đến những linh hồn được Chúa mời gọi thông dự vào cơn hấp hối của Ngài, mà cũng theo như lời Pascal, còn sẽ kéo dài mãi cho đến ngày tận thế, trong số đó, dĩ nhiên là có các vị như Ma-ga-ri-ta A-la-cốc, Ma-da-lê-na Xô-phi-a, Ma-da-lê-na dệ Pát-di; nhưng cách riêng tôi quan tâm hơn tới những vị gần với thời đại, với tâm hồn tôi.
Thứ nhất, xét về gần gũi trong thời gian, tôi vẫn thường tưởng nhớ đến những người có ít nhiều liên hệ với giai đoạn hiện dại của lịch sử đầy máu và nước mắt của chúng ta với hai cuộc đại chiến và những cuộc đổ máu phụ cận, gần như liên tục mãi cho đến nay và chưa biết rồi sẽ ra sao: Charles de Foucauld bị sát hại năm l916, linh mục Ives de Moncheuil bị Đức quốc xã xử giảo, Lm. Maximilien Kolbe bị Đức quốc xã xử tử, mục sư Boenhofer cũng thế, nữ tu Bênedicte de la Croix cũng thế (có lẽ bị hỏa thiêu). Bên tai tôi như luôn văng vẳng lời cảnh cáo Đức Mẹ đã nói với Gia-xin-ta và Phan-xi-cô, với Berthe Petit, với Joseph Menendez. “Nos civilisations, nous sommes mortelles!”, lời nhận định của Paul Valéry, tôi nghĩ rằng hoàn toàn chí lý! Không có gì bảo đảm rằng Luân Đôn, Pa-ri, Nữu Ước, Tokio, Bá Linh sẽ không như Ni-ni-vê và Ba-by-lon. Văn minh ư? Tiến bộ ư? Các trại tập trung, các lò hỏa thiêu phi bác sự lạc quan trên! Quả như nhà tâm lý học Etienne de Greeff đã nhận xét, cái gọi là “văn minh tiến bộ” chỉ là một lớp sơn hào nhoáng, mỏng manh chỉ thổi nhẹ cạo sơ là bay, còn bản chất con người vẫn là “luật rừng”! Ca-in và A-ben vẫn là chiều kích muôn đời của Nhân loại. Chúa Giêsu vẫn không ngừng… quằn quại, bị xử oan, bị giết nơi những người bị đàn áp, cầm tù, tra tấn, đe dọa, kỳ thị, khủng bố, gạt ra ngoài lề xã hội gọi là “văn minh tiến bộ” này! Cái dị ứng gần như “thâm căn cố đế” đối với cái văn minh duy khoa học kỹ thuật cực đoan, phi nhân bản, phản thiện căn, phát tích từ sự phản loạn chống lại Thiên Chúa được mệnh danh là “Phục Hưng” ở thế kỷ 16 của Tây phương bắt nguồn từ những suy tư và nhận xét nói trên!
Quả như nhà bác học Alexis Carrel đã nói: “Rồi chúng ta sẽ phải trả (và đã bắt đầu trả rồi) với cái giá đắt cho những sai lầm nghiêm trọng của phong trào Phục Hưng”. Một thứ man rợ mới (trang bị bom hạt nhân!!!) đang ra đời và sẽ phá vỡ hủy hoại những giá trị văn minh chân chính, nếu không có gì ngăn chận lại. Và có gì ngăn chận được đây??!! Tôi nghĩ chỉ có Thánh giá Chúa Giêsu mà thôi! Như nữ triết gia (và sau là nữ tu dòng kín Cát Minh) Edith Stein đã nói: “Không phải những thành đạt nhân loại sẽ cứu chữa được chúng ta, mà chỉ có cây Thánh giá Chúa. Tôi ước ao được thông dự vào cây Thánh giá ấy!” Jacques Maritain đã bình giải như sau: “Sự dữ đã lên đến mức độ không còn gì cứu vãn được nữa, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu, cho nên những tâm hồn ưu việt đã say sưa từ bỏ tất cả (cả những điều được phép và những điều tốt) để ôm lấy cây Thánh giá trần trụi đi theo chân Chúa”. Lời cảnh báo kêu gọi của Đức Mẹ, không phải chỉ có đàn bà con nít nghe theo mà ngay cả những bậc đại trí của thời đại cũng hình như vọng lại một cách bi thiết: Gabriel Marcel, Marcel Cortez, Unanumo, Bernanos, Georghiu, và trước đó, Dostoievski, Kierkegaard hình như cũng đã có cái nhìn tiên tri nào đó về cái lịch sử đầy máu lửa và nước mắt này của cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đó là nghĩ tới vận mạng Nhân loại, còn…
Thứ hai, nghĩ về bản thân thì:
– Eve Lavallière, nữ danh ca, sau một đời phấn thải hương thừa, với bao vương tôn công tử, ong qua bướm lại, đã được Chúa ban cho ơn hối cải, là một là một hình ảnh giúp tôi nhìn vào như một tấm gương để soi rọi chính cái mặt thật hoen ố của mình, khi phấn son loè loẹt, được rửa trôi đi! (trí thức, danh thơm tiếng tốt, hợm mình cũng chỉ là son phấn loè loẹt mà thôi!)
– Benoit Joseph Labre với cuộc đời lữ thứ hành hương, lại là phản diện để giúp tôi, sau khi đã cùng với Eve Lavallière lặn xuống đáy vực sâu của linh hồn mình, được đưa mắt ngước nhìn lên như một chân trời xa định hướng cho tôi bước tới, mặc dù cái dở dang của ngài là do tự nguyện lang thang hành hương trong sự thảnh thơi tuyệt vời; còn sự dang dở của tôi một phần nhỏ là do biến cố khách quan, mà phần lớn là do tôi lạc bước lang thang và lợn cợn.
– Còn Edith Stein (nữ tu Bénédicte de la Croix) thì như một ngọn lửa của lễ vật toàn thiêu, nhắc tôi nhớ rằng Nhân loại đang rên rỉ quằn quại dưới những sự bạo tàn, man rợ, từ nhiều phía, dưới nhiều dạng.
– Và Chales de Foucauld thì nhắc nhớ tôi rằng phần đông anh em, chị em còn đang ngụp sâu trong những điều kiện sống túng nghèo: vất vả lam lũ, đến tận cùng cực vì miếng cơm manh áo hàng ngày, khiến rất dễ quên đi rằng sống là còn cần phải có Lời Chúa!
– Jacintha và Phanxicô ở Fatima, Berthe Petit giúp tôi nhớ đến lời kêu xin tha thiết của Đức Mẹ đang chờ đợi các con cái Mẹ góp phần nhỏ mọn của mình, giúp Mẹ nâng cánh tay Chúa đã quá nặng trĩu vì tội lỗi thế gian, gần như phải trút cơn thịnh nộ thanh luyện đến cùng dưới một dạng Hồng Thủy nào đó.
– Josept Mermendez thì giúp tôi hoàn toàn cậy trông rằng cuối cùng, lòng thương xót của Trái tim Chúa Giêsu sẽ cùng với trái tim Đức Mẹ làm cho “Yêu thương” thắng “hận thù”, và Ơn Cứu độ sẽ gỡ ta khỏi án phạt vì “muôn đời vẫn một lòng thương!”, “vì lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia hằng bao bọc những ai kính sợ Chúa!”
– Và cuối cùng với các thánh: Gioan Thánh Giá, Têrêxa Hài Đồng, với Thomas Merton, Ives de Montchanin và Elisabeth de la Trinité, tôi quên đi tất cả (mà nhất là quên chính mình tôi) bằng cách ném tất cả vào hai Trái Tim Cực Thánh, trong thánh lễ được dâng lên mọi lúc mọi nơi, như giọt nước nhỏ vào một Trùng Dương, dắt dìu Tình yêu Muôn Thuở của chính Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng hóa với Ngôi Hai, hiệp thông cùng Ngôi Ba, trở về trong lòng Ngôi Nhất là Cha, Cội nguồn và Cứu cánh của muôn loài như đã đi vào nơi Bình an Phúc lạc muôn đời, miệng thì thầm, tai văng vẳng lời kinh Lạy Cha, với hai dòng kinh phụ lưu là 150 Thánh Vịnh và 150 kinh Kính Mừng của chuỗi hạt Mân Côi, cất bước hành hương tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, nơi cả triều thần đang liên hoan tiệc cưới Chiên Con, nơi cả Triều thần Thiên quốc đang thờ lạy tung hô: “Sanctus! Sanctus! Sanctus! Dominus sabaoth, pleni sunt coeli et terra Gloria tua; Gloria Patri et Filio et Spiritu Sancto, nunc et in semper et in saecula saeculorum. Amen” (Thánh! Chí thánh! Ngàn trùng chí thánh! Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh; Vinh quang dâng lên Chúa Cha chúa Con và Chúa Thánh Thần, bây giờ, luôn mãi và cho đến muôn thuở muôn đời. Amen. )
Niềm hạnh phúc ấy thật ra đã bắt đầu từ cái hôm nay của cuộc đời này. Có lúc tôi cảm thấy mình như hòa tan trong Nhiệm Thể Chúa Kitô (bao gồm cả Nhân loại và toàn thể Vũ trụ), nhưng có lúc tôi cảm thấy như chính toàn thể Nhiệm Thể Chúa Kitô: sinh động trong con tim bé nhỏ của tôi! Giọt nước với Trùng Dương tuy hai mà một, rồi tuy một mà lại là hai: cái ngã tý hon của tôi, cái ngã tý hon của mỗi tâm linh, cái Tam Ngã Nhất Thể vô cùng vô tận vô biên của Thiên Chúa như triền miên trong một sự hiệp thông dìu dắt, trong an lạc muôn đời (chứ không phải là hòa tan trong cái Tự Thể cô đơn hay cái Tịch Diệt hư vô quạnh quẽ hoang liêu).
Nhân dịp đây xin ghi lại một nhận xét: nơi các thánh hiền ngoại giáo, những người theo cùng một vị sáng lập thường chỉ tạo nên một khuôn mẫu thánh thiện duy nhất na ná như nhau: mẫu người “trung hiếu” của Khổng giáo, mẫu người “thanh thoát” của Lão giáo, mẫu người “khắc kỷ” của phái Stoicien, mẫu người “từ bi” của Phật giáo; còn các Thánh Kitô giáo thì thật là thiên hình vạn trạng, đôi khi gần như tương phản nhau: Phanxicô nghèo khó, Phanxicô Xaviê, Têrêsa Hài Đồng, Vinh-sơn Phaolô. Benoit Joseph Labre, Lu-y Gon-da-ga, Charles de Foucauld, Clara, Marguerite de Cortonne, Phê-rô Alcantara, Phi-lip-phê Nê-ri v.v và v.v…
Điều ấy cũng nhắc ta nhớ rằng dù ta có yêu mến noi theo vị thánh nào đi nữa, họ cũng chỉ là những ngọn đuốc, ánh sao chiếu sáng, chứ trên đường hành hương thì cuối cùng vẫn là chính mình phải đi theo bước đi riêng của mình; bởi vì, tương quan giữa mỗi một linh hồn với Thiên Chúa là một tương quan duy nhất, độc đáo, đặc thù, Thánh Gio-an Thánh giá đã dặn (và Đức Gioan XXIII đã nhắc lại) rằng không nên và không thể bắt chước y hệt một vị thánh nào cả! Riêng tôi thì… sau tháng 5-1975, tôi như đột nhiên băng qua 25 năm trời, trực tiếp nối lại cuộc đời tín hữu của những năm 49-50 ở Nghệ Tĩnh. Do đó, như có một sự “hồi xuân”, một sự “hoàn đồng” đáng phấn khởi. Quả vậy, từ năm 51 đến năm 75, Hội Thánh Công giáo ở Pháp cũng như ở Việt Nam tại những vùng thuộc thế giới không-xã-hội-chủ-nghĩa, đều còn mang nhiều tính cách của một xã hội Kitô-chế (Chrétienté) với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó. Và có thể gọi đó là xã hội hậu-Constantin là xã hội mà Kitô giáo nếu không được nhìn nhận như là quốc giáo. Thì cũng được xem là bình thường, trở nên như một yếu tố văn hóa tự nhiên vì quá thấm nhuần mọi cơ chế xã hội. Do đó, tính cách có thể nói là “quái dị” (étrange) có thể gây “xì-căng-đan” (như vụ Phaolô gây ra khi rao giảng tại quảng trường đồi A-rê-ô-pa ở A-tê-na! ), cái tính cách “điên rồ” của thập giá bị xóa mờ đi. Quả vậy, đáng lẽ bàn dân thiên hạ ngoài Kitô-giáo phải la ó lên hoặc ít là nhún vai tẩy chay khi rằng một đầu óc như Teilhard de Chardin mà tin có thịt và máu người thật sự trong bánh và rượu sau khi truyền phép, và sẵn sàng quỳ chầu hàng giờ như quan chầu vua! Sự yên ổn của Hội Thánh trong sự bình thường hóa ấy, thật ra có bao hàm một sự “nhạt nhẽo hóa” (affadir) của những Chân lý mà nếu suy nghĩ cho kỹ phải là “long trời lở đất”!: Đồng trinh mà sinh con! Chết rồi sống lại!
Tại khu 4 từ năm 1945 trở đi và trên toàn cõi Việt Nam, thì từ sau 1975, Kitô giáo hình như được trở lại cái thời đại còn là một “xì- căng-đan” một cái gì quái gỡ. (Và tôi nghĩ các cụ nhà Nho cho rằng Gia-tô-giáo là tà đạo, thật ra đã có lý 100%, và có chủ trương bách hại cũng là đóng dúng vai trò của những kẻ có trọng trách duy trì đạo thánh hiền; cũng như các vị Thượng tế Do thái giáo cũng đã có lý 100% khi kết án tử hình Chúa Giêsu dám tự xưng là “Thiên Chúa” chính là điều phải làm để chu toàn hổn phận bảo vệ truyền thống “độc thần” của cha ông họ để lại!!!). Lắm lúc tôi nghĩ rằng, suy cho cùng, những người bách hại Kitô giáo dù là những người thành tâm trung thực đã không thỏa hiệp ỡm ờ đáng nghi. Đồng thời, làm như thế là họ đã đặt Kitô giáo vào đúng vị trí của nó, và đem lại sinh khí “hồi xuân” cho nó. Vì vậy từ 1949-50 và từ sau ‘75, tôi bỗng thấy mình như được sống lại thời Công vụ các Tông đồ có cái gì rất sinh động, rất hứa hẹn, rất khích lệ (stimulant) và hình như, tôi chỉ cảm thấy mình quả thật được sống Kitô giáo thật là trọn vẹn trong hoàn cảnh như vậy, bởi vì tôi thấy trong trạng huống như vậy, Lời Chúa mới ứng nghiệm, theo đó, được theo Chúa là được chọn lựa giữa bao người khác để làm thành dân riêng của Chúa, có ấn tín riêng (như cóc bôi vôi lồ lộ trên trán, đi đâu lòi ra đấy! Còn trong các môi trường xã hội mang dấu vết Kitô-chế, thì y như đã bị hòa loãng, nhạt nhẽo làm sao!) Người tín hữu như được cởi khỏi không biết bao nhiêu là lớp áo đã bị phủ lên qua nhiều thế hệ thỏa hiệp với mọi giá trị trần gian! Ví dụ, lễ tấn phong Giám mục Việt Nanh Tiên khởi của giáo phận Vinh năm 51 tại Thanh Hóa, chắc chắc là gần với việc các “Tông đồ đặt tay lên các vị được sai đi, hơn là lễ tấn phong Giám mục Saigon người việt Nam Tiên khởi cùng thời. Một số cuộc cử hành phụng vụ Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, nhất là ở những vùng hẻo lánh xa xôi sau ngày… 1975 (đôi khi không có linh mục, hoặc có Lm mà linh mục lại quỳ ở hàng ghế giáo dân) quả là gần gũi với các thánh lễ trong hang toại đạo hơn là thánh lễ tại dinh tổng thống chế độ cũ ở miền Nam! Một số người sau ‘75 tìm học đạo và theo đạo, chắc chắn là gần Ni-cô-dê-mô hơn là hàng ngàn người theo đạo ở giáo phận Qui Nhơn thời trước năm 1963. Thời Công Vụ Tông đồ! Đó là bầu khí mà tôi sống từ năm 1976 và có lẽ đến cuối đời! Xét về một mặt nào đó, linh đạo tôi theo hiện nay là linh đạo của Công Vụ Tông đồ. Có thể là phạm tội bất kính với tiền nhân. Nhưng tôi cảm thấy như vượt qua (kể cả Charles de Foucauld, cho đến kể cả An-tôn ẩn tu, kể cả Teilhard de Chardin, Ives Congar, Henri Lubac, cho đến cả Giút-ti-nô, I-re-ne) trở về trạng thái nguyên sơ của các tín hữu nguyên khởi, với Tê-pha-nô, Clê-ô-pha, với A-qui-la và Prít-xi-la, với Ti-mô-tê-ô, với Co-nê-li-ô v. v…; Cho nên, hình như tôi không nguyện gẫm theo kiểu của bất cứ vị thánh nào, kể cả Tê-rê-sa thành A-vi-la, hay cấm phòng 30 ngày kiểu I-nhã Loi-yô-la, mà chỉ sống như hai môn đệ trên đường Em-mau mà thôi! Lắm lúc đọc sách thần học tín lý (dogmatique) luân lý (morale), thần nhiệm (spirituelle) bất cứ của vị nào, tôi cũng thấy loang loãng làm sao ấy! Tôi chỉ sống với những Sự Kiện và những Việc Làm của Thiên Chúa (Faits et Actes divins) trực tiếp tác động lên đời tôi, lên lịch sử nhân loại và vũ trụ:
Sáng tạo vũ trụ.
Chọn dân Ít-ra-en
Chọn bà Maria
Nhập thể
Tử nạn và Phục sinh (lập Thánh Thể và giáo phẩm)
Lên trời
Lập Hội Thánh (Thánh Linh giáng lâm)
Sai đi làm chứng các sự kiện và hành vi của Thiên Chúa (chứ không phải giảng đạo lý)
Dân canh thức chờ đợi sự kiện “tái lâm bất thình lình” như kẻ trộm.
Và tôi hiểu tại sao Tê-rê-sa Hài Đồng về cuối đời đã nói rằng: “Đọc sách gì cũng nhức đầu, ngoại trừ Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng!” Và nếu ai hỏi linh đạo hiện nay của tôi là gì. Tôi xin được trả lời: Tin Mừng (nhất là đoạn về Em-mau) và Công Vụ Tông Đồ (nhất là đoạn Thánh Tê-pha-nô bị giết chết. Đây là vị thánh quan thầy của tôi). Quyết định chịu phép rửa đến với tôi đúng vào ngày lễ của ngài, ngày 26-12- l948, lúc tôi dự lễ tại nhà thờ xứ Nghĩa Yên, giáo phận Vinh, cơ chế, cơ sở, tư duy thần học chỉ là lớp áo che chở giữ gìn (đôi khi còn che khuất, bóp nghẹt) những sự kiện, những tác động đích thực của Thiên Chúa. Hai năm 1949-50 và sau ’75, tôi cảm thấy không phải là theo một đạo lý, nhưng là được tiếp cận, dự nhập vào một hành vi của Thiên Chúa, một hành vi đang thực sự tác động qua những sự kiện cụ thể, đã được hội nhập vào trong dòng sống thực của mối hữu thể nhân linh bằng xương bằng thịt đã sinh ra, đã chịu đau khổ, đã làm việc (hết sức vất vả) và sẽ chết giống như Đức Giêsu người Na-da-rét và Đức Maria, mẹ Ngài và là hành vi đang tác động nhờ trung gian của Bí tích lớn và thật là “Hội Thánh Công giáo”: duy nhất, thánh thiện, tông truyền mà các cửa Hỏa ngục sẽ không thắng nổi, đó là hành vi thiên Chúa đang dùng để cứu vớt và thâu gom mọi sự trong Đức Kitô, Đấng đang xây dựng Nhiệm Thể của mình (gồm cả vũ trụ) qua thời gian, mà chính thời gian cũng là một thụ tạo sẽ tuôn chảy vào cõi đời đời.
Do đó, hai năm l949-50 và sau năm l975, tôi như tắm gội trong nguồn nước tươi trẻ muôn đời của Hội Thánh (La jeunesse éternelle de l’Eglise) mà những cơ chế, những cơ sở, những pho sách dù là cần thiết (indispensable) nhưng không phải là thiết yếu (essentiel), lắm lúc dưới khía cạnh nào đó còn là những nét nhăn cần tô điểm lại để “tìm lại má hồng như xưa” cho đẹp mắt Quân Vương (Kh l9, 7-8). Amen.
Cơn cám dỗ thường có hiện nay của tôi và có lẽ sẽ là “cơn cám dỗ cuối cùng” là tôi thấy có lẽ tôi đã mất “ơn kêu gọi”: nhưng không rõ ơn kêu gọi gì: tu dòng Phan-xi-cô? Tu dòng Biển Đức? Lập gia đình? Hoạt động chính trị? Văn hóa?… Nhưng đã mất ơn kêu gọi! Nhưng dù vậy, có vậy đi nữa (mà chắc là vậy! ) thì tấm áo Đức Bà tôi đã được linh mục rửa tội khoác lên đầu lúc tôi quỳ trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp sau khi chịu phép rửa tội ngày 09-1-1949 tại nhà thờ xứ Nghĩa Yên và động tác phó thác hoàn toàn của Thánh nữ Tê-rê-sa thành Li-di-ơ với lời: “Dù một mình tôi có phạm tất cả tội lỗi của toàn thể Nhân loại, từ A-đam cho đến người cuối cùng (tôi nghĩ có cả Yu-da), tôi cũng cứ cậy trông vào lòng xót thương vô cùng của Chúa!”, vẫn đối lại mọi phù phép của kẻ thù. Và vị thánh cuối cùng mà tôi trông nhờ lời bầu cử là Thánh “Kẻ Trộm Lành” đã được chính Chúa phong thánh ngay từ trên ngai Thánh giá buổi chiều thứ Sáu Tuần thánh đầu tiên. Và ơn kêu gọi của tôi có phải chăng là làm chứng rằng dù có lỡ mất ơn kêu gọi đi nữa, thì cũng không mất lòng cậy trông vào Lòng thương xót vô cùng và Quyền năng vô hạn của Thiên Chúa, và vào sức phù trợ của Mẹ Maria, vào sự cầu bầu của các Thánh Nam Nữ trong mầu nhiệm của các Thánh thông công.
Mất ơn kêu gọi, đó là thân phận của A-đam đã dại dột ăn quả cấm nên mất ơn kêu gọi, nhưng cả cuốn Kinh Thánh cũng chỉ cốt làm chứng điều kỳ diệu này: Ơn kêu gọi mà A-dam đã đánh mất, thì Đức Kitô và Mẹ Ngài đã tìm lại được, và sau khi phân phát cho những ai muốn đến lãnh (gratuit) trong một chế độ “ân sủng” mà Đấng Đầy Ân Sủng là người được hưởng đầu tiên hoàn toàn không do công lênh gì cả, với ơn “Vô Nhiễm”; Cho nên những dòng kể chuyện đời mình của tôi cũng không có cách kết thúc nào hơn là bằng cách mượn lời Ngài để dâng lên THIÊN CHÚA - TÌNH YÊU lời tán tụng tung hô:
MAGNIFICAT ANIMA MEA DOMINUM!
Ngày thứ Bảy đầu tháng Đức Mẹ
Năm ân sủng 1986
(03-5-l986 nhằm ngày 25 tháng Ba - Bính Dần)
Tất cả những dòng trên đây tôi chỉ bảo đảm là tôi một lòng chân thành. Còn sai đúng, dở hay tốt xấu, tôi hoàn toàn tuân theo sự phán quyết thẩm lượng của quý vị thẩm quyền của Hội Thánh Công giáo mà tôi dành trọn vẹn lòng con hiếu – tôi trung cho đến hơi thở cuối cùng. Tôi cũng cậy trông vào lượng bao dung thông cảm của Hội Thánh vốn là Mẹ Hiền của những người con vụng dại lỡ lầm.
TÊPHANÔ
Thế Tâm NGUYỄN KHẮC DƯƠNG
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |