Tiễn Bạn
Đường trần đứt gánh gẫy cung thương.
Du ca thánh thót lời chim hót,
Tiếng hát đường tơ nhạc vấn vương.
Yết đế bồ đề nơi đất khách,
Tâm kinh tụng niệm chốn vô thường.
Vô khổ niết bàn sầu tiễn biệt.
Bát nhã cầu siêu Nguyễn Đức Quang.
Paris, ngày 23 tháng 2 năm Tân Mão
(chủ nhật 27 tháng 3 năm 2011)
Lê Đình Thông
Tác giả xin một bạn Thụ Nhân đọc giúp
bài thơ này trong giây phút tiễn đưa.
(Yết đế, Bồ đề, Vô khổ, Niết bàn
trích từ kinh Bát nhã Thiền tông)
Khai Bút Đầu Năm Tân MãoTết nhất phải đi cày,
Vành mi rách lại cay. Tương lai hoài lấn cấn, Quá khứ vẫn loay hoay. Nợ nước vay mờ mắt, Thù nhà vắt lọi tay. Sầu dai nhai trệu trạo, Lảo đảo ngỡ mình say! Trần Văn Lương Cali, Mùng Một Tết Tân Mão, 2/3/2011 Không Một Chốn VềDạo:
Ba mươi năm giấc chưa tròn, Quê hương xưa biết có còn nơi nao. Ánh điện tẻ vuốt tơi bờm tóc trắng, Tấc lưng còng lẳng lặng gánh sương đêm. Tháng Tư, biển lặng trời êm, Tim chai đá chợt rền giông quá khứ. Ba mươi năm biệt xứ, Vật vờ chín nhớ mười quên, Cuối đời đất khách lênh đênh, Khuôn mắt trũng, chông chênh triền lệ chẻ. Người có hỏi, sao chẳng về quê mẹ, Cùng bạn bè vui vẻ bước rong chơi. Thưa, từ khi cơn hồng thủy đổi đời, Còn đâu nữa khung trời êm ấm đó. Dù thương nhớ từng con đường, góc phố, Dù đêm ngày vò võ khóc người thương, Đã bao năm vỡ giấc, dõi canh trường, Vẫn mù mịt bóng quê hương ngày cũ. x Quê hương đó, nay thành hang dã thú, Nơi đêm ngày, mắt cú vọ rình nhau, Nơi dân đen mang uất hận ngập đầu, Nhìn Chúa Phật u sầu chung sốphận. Quê hương đó, xương khô trùm áo gấm, Tình người nuôi bằng hơi ấm đồng tiền, Lũ cầm quyền vẫn lừa lọc đảo điên, Dân nghèo đói vẫn triền miên rách rưới. Quê hương đó, một trại tù giam mới, Trời làm ngơ, thế giới cũng lạnh lùng, Mặc bao người bỏ xác chốn lao lung, Chỉ vì “tội” chẳng cùng chung chính kiến. Quê hương đó, gái quê tròn tuổi hẹn, Cảnh cơ hàn, phải uất nghẹn đưa chân, Theo lái buôn đi làm “vợ” muôn dân, Bán thân xác, mong trọn phần hiếu đạo. Quê hương đó, trẻ con đầu chưa ráo, Thản nhiên lừa ông bà lão bảy mươi, Xem dối gian như khuôn thước cuộc đời, Tâm trí trá cợt cười qua ánh mắt. Quê hương đó, giờ chỉ là mảnh đất, Nơi tung hoành bầy thú vật hai chân, Cắt giang san đem cống hiến ngoại nhân, Để tiếp tục yên thân làm đạo tặc. Mưa gầy hơn nước mắt, Gạo đắt quá mạng người. Dân bán máu cầm hơi, Giới thống trị vẫn ăn chơi ngập mặt. Ngàn năm lẻ gông cùm thù phương Bắc, Gọn trăm năm nô lệ giặc trời Tây, Chưa bao giờ dân Việt phải đắng cay, Bỏ mạng sống, đêm ngày liều bỏ nước. Chưa hề có, bao ngàn năm về trước, Chế độ nào tàn ngược tựa hôm nay, Đem trẻ thơ, phụ nữ bán nước ngoài, Xem dân chúng như con bài đổi chác. x Càng đau đớn, kẻ xưa may vượt thoát, Nay trở về vung tiền bạc, huênh hoang, Quên những ngày sống chui nhủi lầm than, Quên những phút kinh hoàng trên biển cả. Trong vũng lầy sa đọa, Đồng tiền nhầy nhụa lả lơi. Kẻ quyền quý nói cười, Dân thấp cổ, lệ thầm rơi, ai biết. Ngoại kiều Việt dày vò thân xác Việt, Những đồng tiền khắc nghiệt suốt ngày đêm, Trút đau thương xuống đầu cổ dân đen, Đang quằn quại triền miên trong vực tối . Biết bao kẻ đã trở cờ, phản bội, Lạy kẻ thù, về uốn gối, khom lưng, Đem tài hèn, thân khuyển mã cúc cung, Mong được thí miếng đỉnh chung nho nhỏ Thêm những kẻ dễ nghe lời dụ dỗ, Rằng quê hương là trái nọ chùm kia, Người phương xa là khúc ruột chia lìa, Nên hí hửng xua tiền về cố thổ. Và lắm kẻ lòng không hề xấu hổ, Khi chung quanh, người đói khổ lầm than, Lại vầy đoàn khoe phú quý giàu sang, Sống riêng rẽ chốn xa làng cách chợ. x Khóc đi hỡi, những ai còn thương nhớ Đến người dân đang khốn khổ quê nhà. Ba mươi năm, ngày uất hận càng xa, Đường tranh đấu thêm nhạt nhòa trơn trượt. Đêm tưởng niệm, người ngày càng thưa thớt, Chốn vui chơi thêm lũ lượt áo quần. Đã lâu rồi, dòng nước mắt đưa chân, Và xa lắm, mộ phần trong đáy biển. Đèn phố tắt, tiếng cờ bay nghèn nghẹn, Quảng trường khuya ánh nến muộn lao chao, Bóng người già chân thất thểu thấp cao, Đôi mắt đục thoáng gợn màu thiên cổ. Khi dân Việt còn mang xiềng xích đỏ, Khi tự do chưa tỏ lối trời quê, Kẻ ra đi đành không một chốn về, Dù tóc đã ê chề sương lữ thứ. Trần Văn Lương Cali, 30 năm biệt xứ - 5/2005 |
Đò Đêm Bỏ BếnDạo:
Tiếng cười còn đọng bên sông, Con đò thiên cổ đã giong chốn nào. Cóc cuối tuần: (Tiễn người đã ra đi trong một đêm về miền vĩnh cửu) Mây về quẩn bến sông, Nghẽn tắt nắng chiều đông. Nhánh rong già trốc cội, Bối rối đợi bên dòng. Lung linh ánh điện màu, Nhạc cũ gói niềm đau. Nhớ nhung nào thúc giục Người lục tục tìm nhau. Nhịp bước nhỏ khoan thai, Hương ca quyện gót hài, Vòng tay dài chợt ấm, Tóc lũ quấn mềm vai. Đêm rộn rã tiếng cười, Rượu mời chửa kịp vơi, Bóng ai đà vội vã, Lén từ giã cuộc chơi. Đò thiên cổ chực chờ, Người bước xuống bơ vơ, Lệ đôi bờ tuôn đổ, Đường cố thổ mịt mờ. Lành lạnh gió âm ti, Ai oán khúc từ ly, Não nề câu vĩnh biệt, Thê thiết lúc phân kỳ. Nhàn nhạt phấn trăng treo, Đò khuya lặng lẽ chèo. Cánh bèo xuôi nẻo giác, Ngơ ngác bến nhìn theo. Trần Văn Lương Cali, 1/2011 Vĩnh Biệt Cha(Kính dâng Anh linh Vị Cha già kính yêu,
Đức Ong Simon Nguyễn Văn Lập, Cựu Viện Trưởng Viện Đại Học Dalat) Tin Cha ngã bệnh, Chưa kịp lắng chìm sâu, Tin dữ đã từ đâu Ap tới. Bàng hoàng xiết đỗi, Đau lòng hai cõi chia phân, Một kiếp phù vân, Đường thế trần bặt dấu. Nhớ Cha xưa phúc hậu, Nhân ái khoan hòa, Tấm lòng trời biển bao la, Vì kẻ khác chẳng nề hà khó nhọc. Sống tận tụy một đời cho giáo dục, Kế trăm năm, lao khổ cuộc trồng người, Chỉ mong sao đào tạo được cho đời, Những thế hệ ngẩng nhìn trời không thẹn. Thương nhớ quá chuỗi ngày Cha ở Viện, Đà Lạt, trường xưa, kỷ niệm êm đềm, Lòng chúng con muôn kiếp chẳng hề quên, Những năm tháng không ưu phiền khuấy gợn. Quên sao được mỗi ngày khi sáng sớm, Ánh mặt trời vừa chớm đỉnh Lâm Viên, Từ cổng xa đã thấy bóng Cha hiền, Mắt trìu mến đón sinh viên đi học. Quên sao được, Cha nhân từ đùm bọc, Những người con nghèo, khổ cực, mồ côi, Mà không hề phân biệt chuyện đạo đời, Không gạn hỏi, nghi ngờ lời than vãn. Đàn con trẻ cứ tìm Cha tả oán, Cha mủi lòng luôn dốc cạn hầu bao, Của đưa cho mà chẳng biết ngày nao, Ai là kẻ phải hoàn giao món nợ. Đại Học Xá trong những ngày đóng cửa, Nhiều sinh viên không chỗ ở lêu bêu, Tìm đến Cha than thở đủ trăm điều, Cha lại phải thêm sớm chiều lo lắng. Nơi thành phố đầy sương mù giá lạnh, Những người con đang sống cảnh xa nhà, Qua tình thương vô hạn của Cha già, Đã hiểu được câu “ơn cha nghĩa mẹ”. Khi mãn nhiệm Cha trở về đất Huế, Ngỡ từ đây sẽ được nhẹ đôi vai, Nào ngờ đâu Thánh ý Chúa an bài, Cha lại phải dặm đường dài tất tả. Đất Bình Triệu, chặng cuối đàng Thánh giá, Cảnh đổi đời thêm vất vả lao đao, Xóm đạo nghèo, nhiều khốn khó khổ đau, Cha can đảm nào quản bao cực nhọc. Rồi con bệnh cùng tuổi già phút chốc, Theo tháng năm đã sồng sộc đến nơi, Sức thế gian sao kháng được mệnh trời, Cha mòn mỏi làn hơi từng khoảnh khắc. Trên giường bệnh, Cha hằng rơi nước mắt, Thương con mình, đứa lưu lạc phương xa, Đứa dặm trường bươn bả đến tìm Cha, Đứa sớm tối ngang qua nhà thăm hỏi. Than ôi! Đất trời rẽ lối, Thuyền Cha một tối ra khơi, Để thương nhớ khôn nguôi, Cho đàn con ở lại. Thân Cha về cát bụi, Công ơn Cha sống mãi trăm năm. Dù nghiệt ngã thời gian, Dù cảnh đời thay đổi, Dù trường xưa khuất lối, Nhưng trong lòng con cái sinh viên, Vẫn còn nguyên hình bóng vị Cha hiền, Đứng lặng lẽ giữa khuôn viên Đại Học. Chúng con biết từ nay đành bạc phước, Chẳng bao giờ còn gặp được người Cha, Ánh mắt nhìn đầy từ ái thiết tha, Để ôn lại những ngày xa xôi cũ. Giờ đây, nghìn trùng cách trở, Những “sinh viên của Cha”, Bao năm qua Chưa trả được ơn dầy, Từ chốn lưu đầy, Hướng về quê mẹ, Cúi đầu trăm lạy, Khóc vĩnh biệt Cha. Trần Văn Lương California 12/2001 |
TÌNH TỰ QUÊ HƯƠNG TRONG THƠ
DẤN THÂN CỦA TRẦN VĂN LƯƠNG
Thông
Reo
của
Nguyễn Thành
Đức và Thụ Nhân Âu Châu của
Thạch Lai
Kim vừa trình làng trang Blog mới, tập hợp các
sáng tác của Trần Văn Lương, lấy
tên là Trần Văn Lương :
Tuyển tập Thơ - Văn - Nhạc. Anh Kim yêu
cầu tôi ‘‘viết vài hàng "cảm nhận" khi
đọc
thơ Trần Văn Lương’’ (thư ngày 17/9/2010).
105
bài
thơ
Việt,
Hán
bao
gồm đủ các thể loại của ta (truyện,
ngâm, hát nói) và của Tàu. Mẫu
số chung là một chữ tình :
tình
yêu, tình bạn, tình thầy trò, tình
Thụ Nhân, nhân tình thế thái, tình
quê hương,
tình hoài hương. Anh Kim bảo tôi viết vài
hàng,
làm sao mà nói cho hết. Chúng tôi
viết riêng về tình quê hương qua những
vần thơ dấn thân của Trần Văn Lương.
Vào cuối tháng
4-2010, nhà thơ họ Trần làm thơ nhắn nhủ người
bạn
tài
hoa : Hãy chụp giùm
tôi.
Bài thơ mới này vượt qua khuôn khổ Thụ
Nhân, được phổ biến rộng rãi qua nhiều
diễn đàn. Tác giả đã khơi dậy dòng văn học
dấn thân từ lâu bị quên lãng.
Trong ngôn ngữ Pháp, ‘‘engagé’’ vốn có từ thế kỷ XVI, năm 1945 (năm chấm dứt chiến tranh) mang thêm ý nghĩa dấn thân. Từ ngữ này thường được chuyển ngữ là ‘‘dấn thân’’. Năm Giáp Ngọ (1894), Tú Xương viết câu đối Tết có câu : Nhập thế cục bất khả vô văn tự (入世局不可無文字). Như vậy, ‘‘dấn thân’’ cũng có thể hiểu là ‘‘nhập thế cục’’. Câu đối Tết của Tú Xương phải chắng có thể hoán vị, trở thành định lý đảo : ‘‘Văn tự bất khả ngoại thế cục’’ (文字不可外世局) ?
Hãy chụp giùm tôi gồm 80 câu thơ mới hiệp vần ôm nhau, như thể ôm ấp mối tình quê. Bố cục của bài thơ là biện chứng :
- mở đầu là 8 khổ thơ luận đề (thèse) : Đừng khoe tôi ;
- tiếp nối bằng 12 khổ thơ phản đề (antithèse) : Chụp giùm tôi ;
- hợp đề (synthèse) là hai câu thơ kết đầy trăn trở :
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ !
Thi ca dấn thân đặt lại các vấn đề xã hội (problématiques sociales) chìm đắm trong quên lãng. Những kẻ khốn cùng được Trần Văn Lương nói đến trong bài thơ Hãy chụp giùm tôi năm nay (2010) tuy xa cách về không gian và thời gian với kẻ khốn cùng được nói đến trong thi phẩm Hành khất (Le mendiant) của Victor Hugo (1802-1885), nhưng đồng dạng về ý tưởng. Trần Văn Lương viết Hãy chụp giùm tôi là nhớ đến những kỷ niệm tháng Tư 1975. Le mendiant được in trong tập I nhắc lại những kỷ niệm của Victor Hugo, gom góp lại thành tập thơ Les contemplations (Những suy tư) nói nhiều về kỷ niệm, tình yêu, về nhân tình thế thái, về vui buồn, về tang tóc và huyền nhiệm.
Ta thử đối chiếu mẩu đời nửa đầy nửa đọa trong Hãy chup giùm tôi của Trần Văn Lương và kiếp sống không cửa không nhà trong Le mendiant cùa Victor Hugo. Giầu nghèo cách biệt đông tây. Trong ‘‘The Ballad of East and West’’, Rudyard Kipling có lần thở than : ‘‘Than ôi, Đông là Đông, Tây là Tây, hai phương trời cách xa thăm thẳm’’ (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet), Ngược lại, khốn khó khiến những kẻ không cửa không nhà cùng chung cảnh màn trời chiếu đất.
Sự khốn khó rất là nhẫn tâm, trẻ không tha, già không thương. Vần thơ họ Trần chấm phá về hình ảnh những cụ già :
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân
Le mendiant
Un pauvre homme passait dans le givre et le vent.
Je cognai sur ma vitre ; il s'arrêta devant
Ma porte, que j'ouvris d'une façon civile.
Les ânes revenaient du marché de la ville,
Portant les paysans accroupis sur leurs bâts.
C'était le vieux qui vit dans une niche au bas
De la montée, et rêve, attendant, solitaire,
Un rayon du ciel triste, un liard de la terre,
Tendant les mains pour l'homme et les joignant pour Dieu.
Je lui criai : « Venez vous réchauffer un peu.
Comment vous nommez-vous ? » Il me dit : « Je me nomme
Le pauvre. » Je lui pris la main : « Entrez, brave homme. »
Et je lui fis donner une jatte de lait.
Le vieillard grelottait de froid ; il me parlait,
Et je lui répondais, pensif et sans l'entendre.
« Vos habits sont mouillés », dis-je, « il faut les étendre ,
Devant la cheminée. » Il s'approcha du feu.
Son manteau, tout mangé des vers, et jadis bleu,
Étalé largement sur la chaude fournaise,
Piqué de mille trous par la lueur de braise,
Couvrait l'âtre, et semblait un ciel noir étoilé.
Et, pendant qu'il séchait ce haillon désolé
D'où ruisselait la pluie et l'eau des fondrières,
Je songeais que cet homme était plein de prières,
Et je regardais, sourd à ce que nous disions,
Sa bure où je voyais des constellations.
Victor Hugo
Xin lược dịch :
Một sinh linh đọa đầy trong sương lạnh
Đứng trầm ngâm mỏi mệt trước căn nhà
Cắp cũi chó che thân già cám cảnh
Trong cô đơn hiu hắt nắng chiều tà
Cụ tên chi ? Xin mời vào nấn ná
‘‘Tôi tên là khốn khó’’ kiếp giang hồ
- Mời cụ uống bát sữa đầy lót dạ
Áo ướt rồi xin phơi lửa hong khô
Chiếc áo choàng bạc phếch rách tả tơi
Áo loang lổ là trời sao lỗ chỗ
Là ngân hà, là hằng hà sa số
Là lời kinh cơm áo nỗi đầy vơi
Xin mời những người ‘‘bạn thân’’, dầu chỉ qua chữ nghĩa, tuy không :
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh
Nhưng nhấn chuột trước trang Blog, để thưởng thức thơ, văn và nhạc hiện thực của Trần Văn Lương, do các anh Thạch Lai Kim và Nguyễn Thành Đức thực hiện, để càng thêm yêu mến một nhà thơ đa tài : Trần Văn Lương.
Paris, ngày 20 tháng 9 năm 2010
Lê Đình Thông