Tưởng Nhớ Cha
Cuối cùng Cha cũng đã ra đi,
Đau đớn đàn con biết nói chi. Chín chục tuổi trần, đời mãi nhớ, Sáu mươi năm thánh, Chúa luôn ghi. Lâm Viên trường cũ buồn xa cách, Bình Triệu xóm nghèo khóc biệt ly. Dẫu biết Cha về nơi vĩnh phúc, Nhưng sao nước mắt vẫn tràn mi. Trần Văn Lương |
Thưa Cha
Thưa Cha, mấy tháng lạnh không còn,
Một thoáng trăm ngày vẫn héo hon. Thắp nén hương lòng con lạy tạ, Lung linh ẩn hiện mất hay còn. Trồng người đức độ bao công khó, Giục giã thanh niên vượt mấy non. Thế hệ mai này ghi nhớ mãi, Trăm năm giáo dục nghĩa vuông tròn. Lê Đình Thông (Nhân ngày giỗ 100 ngày Cha Viện Trưởng) |
Văn Tế Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập
Cuối tháng chạp ngô đồng lá rụng,
Gió than van ấp úng ngập trời. Tin Cha Viện Trưởng qua đời, Khăn tang nguyệt bạch chơi vơi tấc lòng. Khắp trái đất đoàn con tưởng nhớ, Bóng hình Cha cởi mở cao minh. Cha con như bóng với hình, Nghìn trùng xa cách nghĩa tình biển dâu. Năm Tân Hợi tuyến đầu Quảng Trị, Cha ra đời ý chí thiết tha. SIMON anh cả trong nhà, Năm mười hai tuổi Cha là chủng sinh. Tuổi niên thiếu một mình tự LẬP, Theo nghiệp văn bất chấp chông gai. Quốc văn, Pháp ngữ miệt mài, La tinh, chữ Hán mai này biến thiên. Hai mươi tuổi cần chuyên thi đậu, Bằng tú tài phụ mẫu an tâm. Kim Long tu học âm thầm, Năm hai bẩy tuổi uyên thâm đạo đời. Chịu chức Thánh đời đời cảm tạ, Chúa thương ban phép lạ quê nhà. Ban ơn giáo hóa miệt mài, Tương lai đất nước rồi ra rạng ngời. Vì giáo dục một đời tận hiến, Giúp cháu con bất biến hy sinh. Trăm năm giáo hóa tận tình, Nghìn năm mục vụ hết mình hiến thân. Năm hai tám xuất dương du học, Tới Paris đại học Sorbonne. Theo ngành sử học canh tân, Mai nầy truyền bá tinh thần khách quan. Ba hai tuổi đăng khoa đại học, Cha là nhà sử học tiền phong. Sông Hương núi Ngự thân thương, Về trường Thiên Hựu vun trồng Thụ Nhân. Bốn bảy tuổi cần chuyên việc đạo, Lo Tiến hành Công giáo thắm tươi. Tới nhày sinh nhật năm mươi, Cha lên Dalat trồng người đắn đo. Làm Viện Trưởng chăm lo giáo dục, Cha ưu tư nhận thức tương lai. Trăm năm kiến tạo người tài, Văn Khoa, Khoa Học một mai vẹn toàn. Trường Sư Phạm lo toan đào tạo, Lớp giáo sinh nhà giáo mai sau. Pháp văn, Triết học lầu lầu, Văn chương, Toán pháp ở đâu cũng cần. Năm sáu bốn: Kinh Doanh Chánh Trị, Số sinh viên xấp xỉ một ngàn. Bốn năm học tập chuyên cần, Ghi tâm tạc dạ tinh thần Thụ Nhân. Năm sáu bảy: lo toan Hội thảo, Trong mười ngày phác họa "Mục tiêu". Diễn đàn thức giả cũng nhiều, Ưu tư thảo luận nhiều điều lợi dân. |
Năm sáu chín: mở ban Cao học,
Ngành Kinh Doanh biển ngọc rừng vàng. Học trình Chánh Trị thênh thang, Kinh Doanh Chánh Trị dọc ngang cũng đành. Từ dạo đó loanh quanh khắp chốn, Trong thâm tâm thiếu thốn tình Cha. Không gian giờ đã cách xa, Thời gian vào buổi chiều tà khóc than. Nhớ Dalat trăm ngàn tiếc nuối, Cây Thụ Nhân của tuổi học đường. Cha là Viện Trưởng yêu thương, "Hối nhân bất quyện"(1) theo gương thánh hiền. Tòa Viện Trưởng mang tên "Hòa Lạc", Gieo niềm vui Dalat sắc hoa. Văn phòng "Đôn Hóa" hiền hòa, Nguyện đường "Năng Tĩnh" tinh hoa ý lành. Nơi giảng đường "Minh Thành" sáng tỏ, Chốn thư phòng biết ngỏ cùng ai. "Đạt Nhân", "Tri Nhất" người tài, "Thượng Hiền", "Hội Hữu" miệt mài bút nghiên. Có danh hiệu thiêng liêng quý nhất, Là "Thụ Nhân" sự thật trăm năm. Vượt lên giới hạn không gian, Thời gian biến hóa Thụ Nhân một lòng. Trước cửa viện Cha trồng cây bách, Sau nhiều năm thử thách tang thương. Cây thông cổng viện mờ sương, Ngày nay mọc khắp bốn phương địa cầu. Viện Đại Học tinh cầu bát ngát, Rặng anh đào gió mát thênh thang. Nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang, Thềm hoa thư viện lang thang lá vàng. Hồ Than Thở bàng hoàng tiếc nhớ, Núi Lâm Viên nặng nợ thiên thu. Cam Ly trắng xóa ưu tư, Suối Vàng nước cuốn phiêu du một dòng. Cuối năm Tỵ đông phong giá lạnh, Chim viễn phương cất cánh tìm về. Vành tang tóc xõa lê thê, Mồ côi Viện Trưởng não nề khóc than. Thân côi cút chứa chan giòng lệ, Bút mồ côi kể lể đoạn trường: Cha nay tới cõi Thiên Đường, Tiễn đưa bằng khói bằng hương mịt mờ. Lá Thụ Nhân rụng rơi về cội, Cây Thụ Nhân tiếp nối ngàn phương. Công trình giáo dục Cha Ông(2), Từ nay nỗ lực vun trồng "Thụ Nhân". Thụ Nhân Âu Châu, tháng 02 năm 2002 Lê Đình Thông (Thụ Nhân Paris) ------------------------------------------ (1)"Hối nhân bất quyện": dạy người không mệt mỏi (2) Cha, Ông: Ngày 6-11-1998, Cha Viện Trưởng được Tòa Thánh vinh thăng Đức Ông. |