Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
17. LÁ RỤNG VỀ CỘI!
Xin được phép trở về quá khứ. Như tôi đã nói, năm 1950, tôi rời nhà tập ở Vinh để tiếp tục tu trì tại viện Thần học ở Nha Trang. Rời Vinh vào Nha Trang, đối với cái nhìn của người ngoài là rời Bắc vào Nam. Thế nhưng đối với tôi, cũng như đối với toàn thể gia đình dòng tu Phanxicô thì không có việc chia ra Bắc Nam gì cả, chỉ có một dòng Phanxicô duy nhất không chỉ ở Việt Nam mà khắp cả thế giới, chia ra từng tỉnh dòng là thuận lợi cho việc tổ chức điều hành mà thôi. Cho nên, từ Vinh vào Nha Trang chỉ là bước từ nhà tập (dù nó ở đâu) lên học viện, cũng na ná như từ lớp 9 ở huyện Y lên lớp 10 ở huyện Z thế thôi! Như tôi đã nói, nếu giả sử nhà tập ở Nha Trang và học viện ở Vinh thì chúng tôi sẽ từ Nha Trang ra Vinh; vào Nha Trang là để học chứ không phải là trốn chế độ này, di cư để tìm cách sống với chế độ khác. Đối với kẻ tu hành đã dâng mình cho Chúa, thì chỉ có hai chế độ.
1. Là chế độ trần gian, tức là cuộc đời ở nơi lữ hành này, thì đâu cũng vậy, chế độ chính trị văn hoá nào cũng vậy, cho nên chẳng bao giờ có ý trốn nơi này sang nơi khác vì lý do chính trị cả. Chỉ có đi nơi này sang nơi khác… để thực hiện những việc cần thiết cho công việc tu trì và học tập hoặc sứ mạng truyền giáo mà thôi.
2. Là chế độ Nước Trời muôn thuở, ở khắp mọi nơi mọi lúc ở chính trong tâm hồn của những ai mến Chúa yêu người; cho nên cũng chẳng có gì phải chạy trốn nơi này sang nơi nọ; đâu đâu Chúa cũng ở trong lòng mình! Sự lựa chọn là lựa chọn từng giây từng phút giữa Thiên Chúa và ma quỷ, mà trận địa chính là lòng mình. Do đó, vào Nam hay sang Pháp chỉ có ý nghĩa khi tôi còn là tu sĩ dòng Phanxicô, di chuyển từ nơi này sang nơi khác để học triết học, thần học, chứ tu ở Vinh, ở Nha Trang, ở Pháp hay ở đâu khác cũng là tu tự nơi lòng mình cả, và nếu nay mai có ai di cư lên sao hỏa, mặt trăng… thì cũng là mang lòng mình lên theo thôi. Do đó, một khi không có ý nguyện thực hiện mộng tu nữa, trở về thế tục, thì tôi vẫn có xu hướng “Lá rụng về cội”. Có lẽ đúng là một ông đồ Nho quá dính bén với làng xóm, với mồ mả ông cha hay chăng? Đến nay, nhất là những lúc khi bị mất ngủ hay khi thức dậy, tôi vẫn còn có lúc như Thúy Kiều “Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài!”. Non Tiên ngàn Phố (quê cha) sông Giang núi Bút (quê mẹ) vẫn như réo gọi hồn tôi vậy. Và Thọ Ninh, Nghĩa Yên là nơi tôi thọ lãnh bí tích Thánh Tẩy, vẫn như ray rứt nhắc nhở tôi. Rời quê cha, rời quê mẹ, rời Thọ Ninh, Nghĩa Yên, hay nói cách khác là rời Nghệ Tĩnh và địa phận Vinh chỉ là để đi tu, nay không đi tu nữa thì trở về với gia đình ở Nghệ Tĩnh, về với giáo phận gốc là Vinh. Tiềm thức tôi như bị điều ấy chiếm ngự hoàn toàn; từ ngày rời khỏi dòng Phanxicô (chỉ trừ những ngày tập tu ở dòng Biển Đức kiểu gọn nhẹ ở miền Bắc nước Pháp như tôi đã nói trên) ở đâu, làm gì tôi cũng như người lạc bước. Lúc làm việc hay trò chuyện với bạn bè chỉ khuây khỏa, chứ lúc một mình y như người bị lưu đày vậy. Lưu đày khỏi Thiên Quốc đã đành, mà còn lưu đày khỏi non Tiêu ngàn Phố, núi Bút sông Giang. Vì thế, trước lúc trở lại Việt Nam, tôi có đề cập qua với anh Viện tôi, sau khi biết là về Bắc không thực hiện được, tôi đã về miền Nam, với tư cách là một kẻ lạc bước miền Nam cho nên tuy làm việc cần mẫn, nhưng vẫn có cái gì không gắn bó cho lắm. Và ngay những ngày tháng ở Châu Âu cũng vậy. Có lẽ đó là lý do khiến tôi đi học ở Châu Âu (trừ những ngày tháng ở trong dòng tu) cũng như khi làm việc ở miền Nam trước năm 1975 tôi đã có thái độ của kẻ “lạc bước”. Một vài bạn tri kỷ, tuy không hề nghe tôi tâm sự, cũng thấy ở nơi tôi có một cách gì u hoài thao thức. Có một cậu sinh viên, sau khi rời Dalat, viết cho lá thư có câu: “Những lúc thầy giảng dạy hay trò chuyện thì vui vẻ, nhưng những lúc thấy thầy lủi thủi đi một mình, em thấy tâm tư thầy mang nặng một nỗi u buồn thầm kín, nhưng hình như sâu thẳm lắm, em vừa thương vừa như kính sợ không dám lại quấy rối”. Quả cậu sinh viên ấy có cặp mắt tinh đời. Vì tâm tư tôi từ ngày rời khỏi dòng tu ra đời có thể mô tả như sau: một là ở trong dòng tu, hai là ra đời thì lá rụng về cội, hay ít ra cũng là ở trong một nước Việt Nam thống nhất. Đó không phải là vấn đề chính trị, mà là vấn đề tâm tư tình tự; một là xuất thế thì đi tu, hai là tại thế thì phải bén rễ ở một quê hương, quê hương nhỏ là Nghệ Tĩnh, quê hương lớn là miền Nam thống nhất. Xin thú thực đối với tôi, điều quan trọng là thống nhất, còn thống nhất kiểu nào là thứ yếu (tôi xin bạn đọc lưu ý: tôi chỉ kể chuyện tâm tình chủ quan của tôi cho vui chứ không hề nói chuyện sai đúng hơn thua). Cho nên, từ ngày đất nước thống nhất, tôi như người sống lại về mặt thế trần, mà theo Kitô giáo, thì siêu nhiên cũng phải được ghép vào cái gốc thế trần tự nhiên, như ghép cây ăn quả. Do đó, năm l975, cùng với sự sống lại về mặt thế trần, đời sống siêu nhiên cũng đồng thời bừng dậy một cách khá mãnh liệt. Có thể nói (trừ mấy tháng ở tu viện Biển Đức bé nhỏ tôi đã nói trên kia) từ 1956 rời khỏi dòng Phanxicô cho đến năm 1975, đời tôi bề ngoài có vẻ như sống động nhưng bề trong (trừ những lúc vào nhà thờ cầu nguyện) chỉ là một mùa đông giá lạnh. Bởi vì tình cảm của gia đình, tình hoài hương, cuộc sống toàn diện của một con người (một người không ở dòng tu mà ở thế tục) như bị giá lạnh khô cứng. Nếu lý tưởng của người Công giáo Việt Nam là “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” như Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dạy trong bức thư chung năm 1980, thì chỉ có từ năm 1975 mới có điều kiện thuận lợi (theo nghĩa cao sâu của nó) vì dân tộc không còn chặt đứt ngang lưng nữa do vĩ tuyến 17. Do đó, từ năm 1975 đến nay dưới cái nhìn của một số anh em thì tôi mất rất nhiều cái (mà cái mất cuối cùng là mấy trăm cuốn sách bị trộm cách đây 3 năm), nhưng riêng tôi thì như cả một cuộc hồi sinh về cả hai mặt tự nhiên và siêu nhiên. Nên chi, về mặt điều kiện vật chất thì so với trước năm 1975, đời tôi không được ¼, thế mà ai cũng công nhận là tôi vui tươi và khỏe mạnh hơn nhiều, như cá được thả về nước vậy. Lý do như sau: con cá của hồn tôi chỉ có thể sống được một là trong hồ nước dòng tu, hai là trong hồ nước một Việt Nam thống nhất mà giải Trường Sơn là xương sống. Giờ đây, dưới bóng núi Lâm Viên, tôi thấy liền một giải Trường Sơn cùng với núi Hồng Lĩnh, trên bờ biển Việt Nam thì Đồ Sơn, Sầm Sơn, cửa Thuận An, cửa Thị Nại, vịnh Cam Ranh, Vũng Tàu, Hà Tiên một đường liên tục; Hà Nội – Thành Phố Hồ Chí Minh có con đường sắt xuyên thẳng để cho tôi, nếu không được sống trong một dòng tu thì cũng được sống lý tưởng “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” một cách vẹn toàn không còn bị nhức nhối của cơ thể bị cắt đứt ngang lưng. Đối với tôi, đã ở thế tục thì tâm tình con người thế tục của tôi phải có hai yếu tố: gia đình đoàn tụ và nước nhà thống nhất, còn các việc khác thì hạ hồi phân giải.
Từ năm 75, tôi được giải toả khỏi mọi u hoài gia đình ly tán, đất nước phân ly, cho nên, hình như mới được thanh thản mà cất cánh bay lên, lặn sâu vào đời sống siêu nhiên. Hình như, chỉ trừ lúc sống ở dòng tu, hễ ra ngoài thế tục thì cái u hoài gia đình ly tán, đất nước phân chia, như tảng đá cột nặng vào chân tôi không bay lên được. Tôi cũng xin khiêm hạ xác minh rằng tôi không phải là con có hiếu (vì tôi không hề đóng góp gì cho gia đình cả), cũng không phải là công dân yêu nước (vì tôi chưa hề đóng góp gì cho nước nhà cả), những điều tôi ghi trên chỉ là cái tình tự gia đình và dân tộc của một con người rất xoàng mà thôi. Tôi có một nhận xét (có thể có người cho là ngây ngô) như sau: từ ngày triều đình Huế ký hiệp định Patenôtre cho đến ngày người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, chưa có một người Công giáo Việt Nam nào được đặt lên bàn thờ. Những người Công giáo Việt Nam được đặt lên bàn thờ đều thuộc về thời kỳ trước hiệp định Patenôtre cả! Tôi tự hỏi phải chăng từ ’75 trở đi rồi lại sẽ có những người Công giáo Việt Nam được Hội Thánh đặt lên bàn thờ? Khi nào? Như thế nào? Nhờ cái gì? Đó là thuộc ý mầu nhiệm của Thiên Chúa và do đó mọi tâm hồn tín hữu quỳ gối ngước nhìn cây Thánh giá, cầu nguyện với các Thánh Tử đạo Việt Nam mà suy niệm và chiêm ngưỡng dưới ánh sáng của cương lĩnh Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, từ sau năm '75 tình tự gia đình và tình tự dân tộc được giải toả, và điều tôi suy nghĩ trên đây về Hội Thánh là hai liều thần dược Chúa ban cho tôi được thực sự và vĩnh viễn hồi sinh. Sau cái gần như chết đi năm '45, sự hồi sinh mà phép Thánh tẩy năm '49 mới gieo mầm, mãi đến năm '45 mới thực sự bắt đầu trổ lá ra hoa, chờ ngày hái quả là ngày tôi được Chúa gọi ra khỏi trần gian chóng qua này, ra trình diện Ngài với hai bàn tay trắng nhuốm đầy hoen ố. Bao giờ thì đến ngày ấy, mai mốt hay mươi lăm năm nữa? Đối với Thiên Chúa thì ngàn năm như một ngày, một ngày cũng như ngàn năm. Tôi nay đã 61 tuổi rồi, chắc cũng không còn bao lâu nữa. Dòng sông đã ra gần cửa biển, đục trong gì rồi cũng sẽ hoà tan vào nước biển xanh vắt trùng khơi dào dạt.
“Lá rụng về cội”, hình ảnh Lão Lai! Thực sự chỉ là biểu lượng của một thiên đàng không phải đã mất mà là sẽ đến. Về mặt trần thế, thời thơ ấu của tôi là đất Nghệ Tĩnh (Hồng Lam, Tiêu Phố, Bút Giang). Về mặt siêu nhiên là thời ‘49 - 51 với Nghĩa Yên, Thọ Ninh và dòng Phanxicô Vinh. Từ năm 1915 trở đi, tôi như được trở lại với cái thời thơ ấu ấy, nhất là thời thơ ấu thiêng liêng (và xin nói ngay, thời thơ ấu thiêng liêng của tôi ấy đưa tôi về những ngày thơ ấu thiêng liêng của Hội Thánh được ghi lại trong Công Vụ Tông Đồ). Đúng như cung cách của Thiên Chúa tác động theo phạm trù “kiểu mẫu sóng đôi” (typologie), các giai đoạn, các lớp màn có cái gì như “na ná” nhau, vừa như “trùng lặp”, vừa như “phục hồi”, vừa như thăng tiến, lên cao theo kiểu vòng tròn xoắn ốc (spirale ascendante). Tạm vẽ như sau:
[hình vẽ vòng tròn xoắn ốc]
Cho nên, từ năm 1975 cũng như những năm 1949 -51 tôi như tạm gọi trong “Công vụ Tông đồ” cái tuổi trẻ được biểu tượng bằng cái tuổi trẻ của Đức Nữ Maria, mà văn hào Bernanos dám gọi là “Cô em út của Nhân loại”; riêng tôi cũng xin thêm một biểu tượng phụ nữ là “bà chị út Têrêxa Hài Đồng”, tay rắc hoa hồng xuống trần gian, nhất là xuống đất nước Việt Nam, chắc hẳn thế, vì sinh thời, Thánh Nữ có lòng ao ước đặt chân lên Việt Nam để hy sinh phục vụ trong một đời hiến dâng trọn vẹn.
Hoàn đồng! Enfance retrouvée! Như Chúa Giêsu nói với Ni-cô-đê-mô: cần phải tái sinh, và muốn tái sinh thì phải chết với con người cũ. Trên kia, tôi nói năm 1949 và năm 1975 là hai năm “Đại hồng phúc”, vì đó là hai năm tái sinh đối với tôi. Và trước lúc tái sinh thì phải chết: năm 1945, con người cũ cậu ấm con quan, cậu tú con địa chủ được chết đi; thì năm 1975, con người cũ của cậu sinh viên tốt nghiệp Sorbonne, ông giáo sư quyền Khoa trưởng, Trưởng ban Triết học Đại học Dalat cũng được chết đi! Xét về mặt nào đó cuộc sống siêu nhiên của tôi từ năm 1975 như vượt qua một cơn mê ngủ từ ngày lạc bước vào Nam năm 1951, nối tiếp lại quãng đời thơ ấu thiêng liêng của ba năm ’49 - 51 ở đất Hồng Lam, với biểu đồ như sau:
49__________51---------------75__________?
Ngày 30-3-75, nằm sau đường mương đàng sau nhà Hòa Lạc, tức là nhà của Viện trưởng Đại học Dalat, nhìn trường Võ Bị Quốc Gia, mìn đạn nổ như sáng rực cả một góc trời, tôi như người sực tỉnh khỏi một cơn mơ dài (cơn mơ từ ngày tôi cùng 14 anh em khác rời bãi biển Sầm Sơn 1951, ra Phát Diệm bằng thuyền, lên Nam Định vào Nha Trang v.v… ) và tiếp xúc lại với hiện thực là dân tộc và Đất nước Việt Nam trong cái chiều sâu của nó. Cái chiều sâu mà hạt giống Tin Mừng phải được vùi sâu để nảy mầm (đương nhiên là sau khi hẩm nát) mang lại Mùa gặt thuôn đời.
Còn riêng tôi thì cuộc tái sinh lần thứ hai cũng phải qua thời thai nghén. Thời thai nghén ấy chính là thời gian tôi ĐƯỢC đi học tập tại “Trại cải tạo sĩ quan chế độ cũ” ở Sông Mao, khởi đầu từ ngày 24-4-75 là ngày tôi được đưa vào trung tâm cải huấn Dalat, và kết thúc ngày 25-8-76. Mười sáu tháng khác nào như thời gian nhà tập của một dòng tu. Tôi xin nói với tất cả sự chân thành: 16 tháng ấy tôi mới thực sự là được HỌC, mà tôi nghĩ ở trần gian này không có trường Đại học nào có thể dạy tôi học tập như thời gian ấy. Không phải là trại cải tạo đem lại vốn kiến thức mới nào hay làm cho tôi thay đổi gì về nhân sinh quan và vũ trụ quan, nhưng đó là thời gian cho tôi đào sâu và kiểm nghiệm nhờ cuộc sống thực tế chà xát, va chạm với những chi tiết của cuộc đời của một con người từ những nhu cầu thấp nhất của sinh-thể-lý: đói khát, thiếu nơi nằm, nơi ngồi, cái quần, cái áo, miếng đường, viên thuốc, ánh lửa, ngọn đèn… cho đến những giờ phút cầu nguyện, những kiến thức về tâm lý, thể lý, xã hội, siêu hình, luận lý… ngay cả cách rửa chén bát, sử dụng giấy loại v.v… và v.v… đều được rà lại cả. Nhưng bài học quý giá nhất là: trong trại cải tạo, chân tướng của bản thân tôi được lột trần ra nhờ những sự việc dồn tôi vào cái thế không thể nào che đậy được, chân tướng ấy dưới bất cứ cái vỏ giả hiệu nào. Bao nhiêu ảo tưởng về chính mình nhờ vậy mà được dẹp sạch, tương tự như mấy câu hỏi bâng quơ của người đầy tớ gái dồn vị Giáo Hoàng đầu tiên là Thánh Phêrô vào chỗ phải lộ cái chân tướng “hèn nhát”: chối Chúa 3 lần; và nhờ vậy mới biết tháo lui ôm mặt khóc! Tôi xin dẫn cử sự việc sau đây cho vui câu chuyện:
Tôi vốn được tiếng là có lòng thương người, hay giúp kẻ gặp cơn gian nan. Tôi cũng cứ tưởng rằng mình là tương đối khá về mặt ấy!!! Vì quả thật, như trên đã có ghi, trong những năm lương tiền ăn uống đầy đủ, tôi hay giúp đỡ về mặt tài chánh cho những kẻ túng thiếu, nhất là trong giới sinh viên nghèo. Thế nhưng! Nhờ ơn Chúa, tôi được dịp biết rõ mình tệ hơn chứ không thực sự tốt bụng như mình tưởng đâu. Sự việc như sau:
Hôm ấy có một anh em bị sốt nặng, nhiệt độ lên rất cao, đã lúc gần như hôn mê, nói sảng. Vị bác sĩ, cũng là anh em cùng cải tạo, bắt mạch khám bệnh và cho biết nếu có tifomycine thì may ra chữa được. Lúc ấy tôi còn lại một vài viên giấu kỹ dưới đáy ba lô. Tôi nghĩ đến việc đưa ra cho bệnh nhân. Nhưng rồi lại thôi! Vì nghĩ đó là những viên thuốc cuối cùng, đưa cho người ta, đến phiên mình bị ốm thì sao? Đấy! Rõ là tốt bụng quá! Tuy vậy lương tâm tôi vẫn bứt rứt, cứ phân vân mãi, định đưa ra, rồi lại thôi, rồi lại định đưa ra, rồi lại thôi. Cứ như vậy suốt đêm không ngủ! Vật lộn với chính mình như vậy mãi cho đến sáng tinh sương, tôi ngồi lên, đọc vài kinh trước giờ thức dậy, Chúa mới ban ơn cho tôi quyết định dứt khoát đưa mấy viên thuốc cuối cùng cho bệnh nhân. Lạy Chúa! Tạ ơn Chúa đã cứu con thoát cơn thử thách, chứ cái đêm hôm ấy, trước khi Chúa ban ơn thêm sức cho con để quyết định “rời bỏ” mấy viên thuốc ấy, mà bệnh nhân có mệnh hệ nào thì ngày sau con sẽ thưa với Chúa làm sao? Đó là tôi chưa nói rõ chi tiết này: bệnh nhân ấy là một thanh niên, đã cư xử rất tốt trong những ngày tháng trước đó! Đấy, những bài học tương tự như vậy xảy ra rất nhiều trong thời gian 16 tháng học tập! Tôi nghĩ có giáo sư nào, Đại học nào dạy được những bài học vô giá như thế! Mấy chục năm đèn sách, cả chục vị giáo sư của Đại học Sorbonne, cả hàng thư viện sách báo, cũng không dạy giỏi được như vậy! Trước kia giúp đỡ kẻ khác quá dễ: lượng tiền sẵn, không có thì mượn người khác cũng dễ. Vả lại, mình cũng vẫn có cơm ăn áo mặc no nê sang trọng, có chết chóc gì đâu mà sợ! Bị dồn vào cái thế kẹt như trên đây mới rõ. Còn những bài học nho nhỏ như hậm hực chỉ vì cơm thì ít mà anh em ăn quá nhanh, mình lại ăn quá chậm; lẩn tránh một số công việc, thậm chí ganh tị với anh em (hầu hết đáng tuổi con cháu), ấm ức trong lòng vì những điều vụn vặt vv… thì xảy ra hằng ngày!!! Tôi rời khỏi trại học tập với bài học quý giá vô cùng là: mình chỉ là một đứa tồi, rất tồi, nếu không có Chúa nâng đỡ ban ơn thêm sức cho thì cái khả năng “bán Chúa” như Yu-đa không phải là không có cơ xảy ra! Lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức cầu nguyện, vì tinh thần thì tinh nhuệ, nhưng thể xác thì yếu hèn”, tôi nghe đã biết mấy trăm lần! Chỉ trong 16 tháng học tập cải tạo tôi mới có dịp thực tập. Quả là ĐẠI HỒNG PHÚC! Không có những biến cố '75 - 76, tôi làm sao ghi được những dòng trên đây, mà tôi cho là bài luận triết học hay nhất của cậu tú tài triết đậu hạng bình ở Huế năm ‘46 và của ông giáo sư Trưởng ban Triết viện Đại học Công giáo Dalat 1974. Xuyên qua bài học ấy là bài học này: dưới cái nhìn đức tin thì trong tình thương và sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa, những sự việc bên ngoài xem ra là khốn khổ, thực ra lại chứa đựng một phúc lớn (Phúc theo Tám mối phúc thật). Vì thế, đức tin và đức cậy phải luôn luôn được trau dồi, vun quén để thấy được rằng MỌI SỰ ĐỀU LÀ ÂN SỦNG! Mà Ân sủng thường chảy ra từ cây Thánh giá (thực ra là cây khổ giá, cây thập ác!) cho nên, trước khi kể lại giai đoạn này, tôi đã ghi rõ: AVE CRUX SPES UNICA! Việc hỏng thi vào trường Quốc Học năm ‘38, suy sụp về địa vị năm ’45-46, học lập cải tạo năm ’75-76 đã giúp Chân lý ấy được kiểm chứng rõ ràng! cho thấy mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh quả là điều hiển nhiên! Đức tin tôi nhờ đó càng thêm xác định kiên cố hơn nhiều. Có thể nói năm 75-76 là thời gian tôi được ơn trở lại lần thứ hai (deuxième conversion)! Ngày 25- 8-l976, lúc ra khỏi trại, trở về gian phòng của tôi tại nhà Hòa Lạc, mở cửa phòng ra, trên bàn còn y nguyên tờ lịch của tháng 4-1975, tôi quỳ gối lấy cây viết chì đỏ khoanh ngày 24-4-1975, ghi trên lề câu sau đây; “Con sẽ muôn đời tạ ơn Chúa vì ngày Đại Hồng Phúc này!” Đó là ngày Chúa đưa tôi vào cuộc trở lại thứ hai, đưa đời tôi lúc 50 tuổi bước sang một giai đoạn mới hoàn toàn. Nhưng thực ra, như trên kia đã nói, xét về mặt nào đó thì tôi như thể đã vượt qua một giấc mơ dài (51-75) để tiếp nối những năm ân sủng 49–50, đem lại một sự cải lão hoàn đồng về mọi mặt. Có lẽ vì vậy mà mà hiện nay rất nhiều người nhận xét rằng nơi con người 61 tuổi này dường như có cái gì rất trẻ. Và đến nay có thể xem như là chặng cuối của cuộc đời tôi! Vừa là cuối vừa là mới, mà mỗi ngày mỗi mới. Vì mỗi ngày phải lột xác, mà lần lột xác cuối cùng vào lúc được gọi là “sinh thì”, sẽ đưa cuộc sống mới hoàn toàn mới, tái sinh hẳn trong mầu nhiệm phục Sinh.
Và tiếp theo sau đây, tôi xin ghi lại cuốn phim của những ngày chuyển tiếp giữa cái cũ trước năm 75 và cái mới sau ngày tôi ở trại học tập Sông Mao trở về Đà Lạt.
Xin được phép trở về quá khứ. Như tôi đã nói, năm 1950, tôi rời nhà tập ở Vinh để tiếp tục tu trì tại viện Thần học ở Nha Trang. Rời Vinh vào Nha Trang, đối với cái nhìn của người ngoài là rời Bắc vào Nam. Thế nhưng đối với tôi, cũng như đối với toàn thể gia đình dòng tu Phanxicô thì không có việc chia ra Bắc Nam gì cả, chỉ có một dòng Phanxicô duy nhất không chỉ ở Việt Nam mà khắp cả thế giới, chia ra từng tỉnh dòng là thuận lợi cho việc tổ chức điều hành mà thôi. Cho nên, từ Vinh vào Nha Trang chỉ là bước từ nhà tập (dù nó ở đâu) lên học viện, cũng na ná như từ lớp 9 ở huyện Y lên lớp 10 ở huyện Z thế thôi! Như tôi đã nói, nếu giả sử nhà tập ở Nha Trang và học viện ở Vinh thì chúng tôi sẽ từ Nha Trang ra Vinh; vào Nha Trang là để học chứ không phải là trốn chế độ này, di cư để tìm cách sống với chế độ khác. Đối với kẻ tu hành đã dâng mình cho Chúa, thì chỉ có hai chế độ.
1. Là chế độ trần gian, tức là cuộc đời ở nơi lữ hành này, thì đâu cũng vậy, chế độ chính trị văn hoá nào cũng vậy, cho nên chẳng bao giờ có ý trốn nơi này sang nơi khác vì lý do chính trị cả. Chỉ có đi nơi này sang nơi khác… để thực hiện những việc cần thiết cho công việc tu trì và học tập hoặc sứ mạng truyền giáo mà thôi.
2. Là chế độ Nước Trời muôn thuở, ở khắp mọi nơi mọi lúc ở chính trong tâm hồn của những ai mến Chúa yêu người; cho nên cũng chẳng có gì phải chạy trốn nơi này sang nơi nọ; đâu đâu Chúa cũng ở trong lòng mình! Sự lựa chọn là lựa chọn từng giây từng phút giữa Thiên Chúa và ma quỷ, mà trận địa chính là lòng mình. Do đó, vào Nam hay sang Pháp chỉ có ý nghĩa khi tôi còn là tu sĩ dòng Phanxicô, di chuyển từ nơi này sang nơi khác để học triết học, thần học, chứ tu ở Vinh, ở Nha Trang, ở Pháp hay ở đâu khác cũng là tu tự nơi lòng mình cả, và nếu nay mai có ai di cư lên sao hỏa, mặt trăng… thì cũng là mang lòng mình lên theo thôi. Do đó, một khi không có ý nguyện thực hiện mộng tu nữa, trở về thế tục, thì tôi vẫn có xu hướng “Lá rụng về cội”. Có lẽ đúng là một ông đồ Nho quá dính bén với làng xóm, với mồ mả ông cha hay chăng? Đến nay, nhất là những lúc khi bị mất ngủ hay khi thức dậy, tôi vẫn còn có lúc như Thúy Kiều “Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài!”. Non Tiên ngàn Phố (quê cha) sông Giang núi Bút (quê mẹ) vẫn như réo gọi hồn tôi vậy. Và Thọ Ninh, Nghĩa Yên là nơi tôi thọ lãnh bí tích Thánh Tẩy, vẫn như ray rứt nhắc nhở tôi. Rời quê cha, rời quê mẹ, rời Thọ Ninh, Nghĩa Yên, hay nói cách khác là rời Nghệ Tĩnh và địa phận Vinh chỉ là để đi tu, nay không đi tu nữa thì trở về với gia đình ở Nghệ Tĩnh, về với giáo phận gốc là Vinh. Tiềm thức tôi như bị điều ấy chiếm ngự hoàn toàn; từ ngày rời khỏi dòng Phanxicô (chỉ trừ những ngày tập tu ở dòng Biển Đức kiểu gọn nhẹ ở miền Bắc nước Pháp như tôi đã nói trên) ở đâu, làm gì tôi cũng như người lạc bước. Lúc làm việc hay trò chuyện với bạn bè chỉ khuây khỏa, chứ lúc một mình y như người bị lưu đày vậy. Lưu đày khỏi Thiên Quốc đã đành, mà còn lưu đày khỏi non Tiêu ngàn Phố, núi Bút sông Giang. Vì thế, trước lúc trở lại Việt Nam, tôi có đề cập qua với anh Viện tôi, sau khi biết là về Bắc không thực hiện được, tôi đã về miền Nam, với tư cách là một kẻ lạc bước miền Nam cho nên tuy làm việc cần mẫn, nhưng vẫn có cái gì không gắn bó cho lắm. Và ngay những ngày tháng ở Châu Âu cũng vậy. Có lẽ đó là lý do khiến tôi đi học ở Châu Âu (trừ những ngày tháng ở trong dòng tu) cũng như khi làm việc ở miền Nam trước năm 1975 tôi đã có thái độ của kẻ “lạc bước”. Một vài bạn tri kỷ, tuy không hề nghe tôi tâm sự, cũng thấy ở nơi tôi có một cách gì u hoài thao thức. Có một cậu sinh viên, sau khi rời Dalat, viết cho lá thư có câu: “Những lúc thầy giảng dạy hay trò chuyện thì vui vẻ, nhưng những lúc thấy thầy lủi thủi đi một mình, em thấy tâm tư thầy mang nặng một nỗi u buồn thầm kín, nhưng hình như sâu thẳm lắm, em vừa thương vừa như kính sợ không dám lại quấy rối”. Quả cậu sinh viên ấy có cặp mắt tinh đời. Vì tâm tư tôi từ ngày rời khỏi dòng tu ra đời có thể mô tả như sau: một là ở trong dòng tu, hai là ra đời thì lá rụng về cội, hay ít ra cũng là ở trong một nước Việt Nam thống nhất. Đó không phải là vấn đề chính trị, mà là vấn đề tâm tư tình tự; một là xuất thế thì đi tu, hai là tại thế thì phải bén rễ ở một quê hương, quê hương nhỏ là Nghệ Tĩnh, quê hương lớn là miền Nam thống nhất. Xin thú thực đối với tôi, điều quan trọng là thống nhất, còn thống nhất kiểu nào là thứ yếu (tôi xin bạn đọc lưu ý: tôi chỉ kể chuyện tâm tình chủ quan của tôi cho vui chứ không hề nói chuyện sai đúng hơn thua). Cho nên, từ ngày đất nước thống nhất, tôi như người sống lại về mặt thế trần, mà theo Kitô giáo, thì siêu nhiên cũng phải được ghép vào cái gốc thế trần tự nhiên, như ghép cây ăn quả. Do đó, năm l975, cùng với sự sống lại về mặt thế trần, đời sống siêu nhiên cũng đồng thời bừng dậy một cách khá mãnh liệt. Có thể nói (trừ mấy tháng ở tu viện Biển Đức bé nhỏ tôi đã nói trên kia) từ 1956 rời khỏi dòng Phanxicô cho đến năm 1975, đời tôi bề ngoài có vẻ như sống động nhưng bề trong (trừ những lúc vào nhà thờ cầu nguyện) chỉ là một mùa đông giá lạnh. Bởi vì tình cảm của gia đình, tình hoài hương, cuộc sống toàn diện của một con người (một người không ở dòng tu mà ở thế tục) như bị giá lạnh khô cứng. Nếu lý tưởng của người Công giáo Việt Nam là “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” như Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dạy trong bức thư chung năm 1980, thì chỉ có từ năm 1975 mới có điều kiện thuận lợi (theo nghĩa cao sâu của nó) vì dân tộc không còn chặt đứt ngang lưng nữa do vĩ tuyến 17. Do đó, từ năm 1975 đến nay dưới cái nhìn của một số anh em thì tôi mất rất nhiều cái (mà cái mất cuối cùng là mấy trăm cuốn sách bị trộm cách đây 3 năm), nhưng riêng tôi thì như cả một cuộc hồi sinh về cả hai mặt tự nhiên và siêu nhiên. Nên chi, về mặt điều kiện vật chất thì so với trước năm 1975, đời tôi không được ¼, thế mà ai cũng công nhận là tôi vui tươi và khỏe mạnh hơn nhiều, như cá được thả về nước vậy. Lý do như sau: con cá của hồn tôi chỉ có thể sống được một là trong hồ nước dòng tu, hai là trong hồ nước một Việt Nam thống nhất mà giải Trường Sơn là xương sống. Giờ đây, dưới bóng núi Lâm Viên, tôi thấy liền một giải Trường Sơn cùng với núi Hồng Lĩnh, trên bờ biển Việt Nam thì Đồ Sơn, Sầm Sơn, cửa Thuận An, cửa Thị Nại, vịnh Cam Ranh, Vũng Tàu, Hà Tiên một đường liên tục; Hà Nội – Thành Phố Hồ Chí Minh có con đường sắt xuyên thẳng để cho tôi, nếu không được sống trong một dòng tu thì cũng được sống lý tưởng “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” một cách vẹn toàn không còn bị nhức nhối của cơ thể bị cắt đứt ngang lưng. Đối với tôi, đã ở thế tục thì tâm tình con người thế tục của tôi phải có hai yếu tố: gia đình đoàn tụ và nước nhà thống nhất, còn các việc khác thì hạ hồi phân giải.
Từ năm 75, tôi được giải toả khỏi mọi u hoài gia đình ly tán, đất nước phân ly, cho nên, hình như mới được thanh thản mà cất cánh bay lên, lặn sâu vào đời sống siêu nhiên. Hình như, chỉ trừ lúc sống ở dòng tu, hễ ra ngoài thế tục thì cái u hoài gia đình ly tán, đất nước phân chia, như tảng đá cột nặng vào chân tôi không bay lên được. Tôi cũng xin khiêm hạ xác minh rằng tôi không phải là con có hiếu (vì tôi không hề đóng góp gì cho gia đình cả), cũng không phải là công dân yêu nước (vì tôi chưa hề đóng góp gì cho nước nhà cả), những điều tôi ghi trên chỉ là cái tình tự gia đình và dân tộc của một con người rất xoàng mà thôi. Tôi có một nhận xét (có thể có người cho là ngây ngô) như sau: từ ngày triều đình Huế ký hiệp định Patenôtre cho đến ngày người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, chưa có một người Công giáo Việt Nam nào được đặt lên bàn thờ. Những người Công giáo Việt Nam được đặt lên bàn thờ đều thuộc về thời kỳ trước hiệp định Patenôtre cả! Tôi tự hỏi phải chăng từ ’75 trở đi rồi lại sẽ có những người Công giáo Việt Nam được Hội Thánh đặt lên bàn thờ? Khi nào? Như thế nào? Nhờ cái gì? Đó là thuộc ý mầu nhiệm của Thiên Chúa và do đó mọi tâm hồn tín hữu quỳ gối ngước nhìn cây Thánh giá, cầu nguyện với các Thánh Tử đạo Việt Nam mà suy niệm và chiêm ngưỡng dưới ánh sáng của cương lĩnh Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, từ sau năm '75 tình tự gia đình và tình tự dân tộc được giải toả, và điều tôi suy nghĩ trên đây về Hội Thánh là hai liều thần dược Chúa ban cho tôi được thực sự và vĩnh viễn hồi sinh. Sau cái gần như chết đi năm '45, sự hồi sinh mà phép Thánh tẩy năm '49 mới gieo mầm, mãi đến năm '45 mới thực sự bắt đầu trổ lá ra hoa, chờ ngày hái quả là ngày tôi được Chúa gọi ra khỏi trần gian chóng qua này, ra trình diện Ngài với hai bàn tay trắng nhuốm đầy hoen ố. Bao giờ thì đến ngày ấy, mai mốt hay mươi lăm năm nữa? Đối với Thiên Chúa thì ngàn năm như một ngày, một ngày cũng như ngàn năm. Tôi nay đã 61 tuổi rồi, chắc cũng không còn bao lâu nữa. Dòng sông đã ra gần cửa biển, đục trong gì rồi cũng sẽ hoà tan vào nước biển xanh vắt trùng khơi dào dạt.
“Lá rụng về cội”, hình ảnh Lão Lai! Thực sự chỉ là biểu lượng của một thiên đàng không phải đã mất mà là sẽ đến. Về mặt trần thế, thời thơ ấu của tôi là đất Nghệ Tĩnh (Hồng Lam, Tiêu Phố, Bút Giang). Về mặt siêu nhiên là thời ‘49 - 51 với Nghĩa Yên, Thọ Ninh và dòng Phanxicô Vinh. Từ năm 1915 trở đi, tôi như được trở lại với cái thời thơ ấu ấy, nhất là thời thơ ấu thiêng liêng (và xin nói ngay, thời thơ ấu thiêng liêng của tôi ấy đưa tôi về những ngày thơ ấu thiêng liêng của Hội Thánh được ghi lại trong Công Vụ Tông Đồ). Đúng như cung cách của Thiên Chúa tác động theo phạm trù “kiểu mẫu sóng đôi” (typologie), các giai đoạn, các lớp màn có cái gì như “na ná” nhau, vừa như “trùng lặp”, vừa như “phục hồi”, vừa như thăng tiến, lên cao theo kiểu vòng tròn xoắn ốc (spirale ascendante). Tạm vẽ như sau:
[hình vẽ vòng tròn xoắn ốc]
Cho nên, từ năm 1975 cũng như những năm 1949 -51 tôi như tạm gọi trong “Công vụ Tông đồ” cái tuổi trẻ được biểu tượng bằng cái tuổi trẻ của Đức Nữ Maria, mà văn hào Bernanos dám gọi là “Cô em út của Nhân loại”; riêng tôi cũng xin thêm một biểu tượng phụ nữ là “bà chị út Têrêxa Hài Đồng”, tay rắc hoa hồng xuống trần gian, nhất là xuống đất nước Việt Nam, chắc hẳn thế, vì sinh thời, Thánh Nữ có lòng ao ước đặt chân lên Việt Nam để hy sinh phục vụ trong một đời hiến dâng trọn vẹn.
Hoàn đồng! Enfance retrouvée! Như Chúa Giêsu nói với Ni-cô-đê-mô: cần phải tái sinh, và muốn tái sinh thì phải chết với con người cũ. Trên kia, tôi nói năm 1949 và năm 1975 là hai năm “Đại hồng phúc”, vì đó là hai năm tái sinh đối với tôi. Và trước lúc tái sinh thì phải chết: năm 1945, con người cũ cậu ấm con quan, cậu tú con địa chủ được chết đi; thì năm 1975, con người cũ của cậu sinh viên tốt nghiệp Sorbonne, ông giáo sư quyền Khoa trưởng, Trưởng ban Triết học Đại học Dalat cũng được chết đi! Xét về mặt nào đó cuộc sống siêu nhiên của tôi từ năm 1975 như vượt qua một cơn mê ngủ từ ngày lạc bước vào Nam năm 1951, nối tiếp lại quãng đời thơ ấu thiêng liêng của ba năm ’49 - 51 ở đất Hồng Lam, với biểu đồ như sau:
49__________51---------------75__________?
Ngày 30-3-75, nằm sau đường mương đàng sau nhà Hòa Lạc, tức là nhà của Viện trưởng Đại học Dalat, nhìn trường Võ Bị Quốc Gia, mìn đạn nổ như sáng rực cả một góc trời, tôi như người sực tỉnh khỏi một cơn mơ dài (cơn mơ từ ngày tôi cùng 14 anh em khác rời bãi biển Sầm Sơn 1951, ra Phát Diệm bằng thuyền, lên Nam Định vào Nha Trang v.v… ) và tiếp xúc lại với hiện thực là dân tộc và Đất nước Việt Nam trong cái chiều sâu của nó. Cái chiều sâu mà hạt giống Tin Mừng phải được vùi sâu để nảy mầm (đương nhiên là sau khi hẩm nát) mang lại Mùa gặt thuôn đời.
Còn riêng tôi thì cuộc tái sinh lần thứ hai cũng phải qua thời thai nghén. Thời thai nghén ấy chính là thời gian tôi ĐƯỢC đi học tập tại “Trại cải tạo sĩ quan chế độ cũ” ở Sông Mao, khởi đầu từ ngày 24-4-75 là ngày tôi được đưa vào trung tâm cải huấn Dalat, và kết thúc ngày 25-8-76. Mười sáu tháng khác nào như thời gian nhà tập của một dòng tu. Tôi xin nói với tất cả sự chân thành: 16 tháng ấy tôi mới thực sự là được HỌC, mà tôi nghĩ ở trần gian này không có trường Đại học nào có thể dạy tôi học tập như thời gian ấy. Không phải là trại cải tạo đem lại vốn kiến thức mới nào hay làm cho tôi thay đổi gì về nhân sinh quan và vũ trụ quan, nhưng đó là thời gian cho tôi đào sâu và kiểm nghiệm nhờ cuộc sống thực tế chà xát, va chạm với những chi tiết của cuộc đời của một con người từ những nhu cầu thấp nhất của sinh-thể-lý: đói khát, thiếu nơi nằm, nơi ngồi, cái quần, cái áo, miếng đường, viên thuốc, ánh lửa, ngọn đèn… cho đến những giờ phút cầu nguyện, những kiến thức về tâm lý, thể lý, xã hội, siêu hình, luận lý… ngay cả cách rửa chén bát, sử dụng giấy loại v.v… và v.v… đều được rà lại cả. Nhưng bài học quý giá nhất là: trong trại cải tạo, chân tướng của bản thân tôi được lột trần ra nhờ những sự việc dồn tôi vào cái thế không thể nào che đậy được, chân tướng ấy dưới bất cứ cái vỏ giả hiệu nào. Bao nhiêu ảo tưởng về chính mình nhờ vậy mà được dẹp sạch, tương tự như mấy câu hỏi bâng quơ của người đầy tớ gái dồn vị Giáo Hoàng đầu tiên là Thánh Phêrô vào chỗ phải lộ cái chân tướng “hèn nhát”: chối Chúa 3 lần; và nhờ vậy mới biết tháo lui ôm mặt khóc! Tôi xin dẫn cử sự việc sau đây cho vui câu chuyện:
Tôi vốn được tiếng là có lòng thương người, hay giúp kẻ gặp cơn gian nan. Tôi cũng cứ tưởng rằng mình là tương đối khá về mặt ấy!!! Vì quả thật, như trên đã có ghi, trong những năm lương tiền ăn uống đầy đủ, tôi hay giúp đỡ về mặt tài chánh cho những kẻ túng thiếu, nhất là trong giới sinh viên nghèo. Thế nhưng! Nhờ ơn Chúa, tôi được dịp biết rõ mình tệ hơn chứ không thực sự tốt bụng như mình tưởng đâu. Sự việc như sau:
Hôm ấy có một anh em bị sốt nặng, nhiệt độ lên rất cao, đã lúc gần như hôn mê, nói sảng. Vị bác sĩ, cũng là anh em cùng cải tạo, bắt mạch khám bệnh và cho biết nếu có tifomycine thì may ra chữa được. Lúc ấy tôi còn lại một vài viên giấu kỹ dưới đáy ba lô. Tôi nghĩ đến việc đưa ra cho bệnh nhân. Nhưng rồi lại thôi! Vì nghĩ đó là những viên thuốc cuối cùng, đưa cho người ta, đến phiên mình bị ốm thì sao? Đấy! Rõ là tốt bụng quá! Tuy vậy lương tâm tôi vẫn bứt rứt, cứ phân vân mãi, định đưa ra, rồi lại thôi, rồi lại định đưa ra, rồi lại thôi. Cứ như vậy suốt đêm không ngủ! Vật lộn với chính mình như vậy mãi cho đến sáng tinh sương, tôi ngồi lên, đọc vài kinh trước giờ thức dậy, Chúa mới ban ơn cho tôi quyết định dứt khoát đưa mấy viên thuốc cuối cùng cho bệnh nhân. Lạy Chúa! Tạ ơn Chúa đã cứu con thoát cơn thử thách, chứ cái đêm hôm ấy, trước khi Chúa ban ơn thêm sức cho con để quyết định “rời bỏ” mấy viên thuốc ấy, mà bệnh nhân có mệnh hệ nào thì ngày sau con sẽ thưa với Chúa làm sao? Đó là tôi chưa nói rõ chi tiết này: bệnh nhân ấy là một thanh niên, đã cư xử rất tốt trong những ngày tháng trước đó! Đấy, những bài học tương tự như vậy xảy ra rất nhiều trong thời gian 16 tháng học tập! Tôi nghĩ có giáo sư nào, Đại học nào dạy được những bài học vô giá như thế! Mấy chục năm đèn sách, cả chục vị giáo sư của Đại học Sorbonne, cả hàng thư viện sách báo, cũng không dạy giỏi được như vậy! Trước kia giúp đỡ kẻ khác quá dễ: lượng tiền sẵn, không có thì mượn người khác cũng dễ. Vả lại, mình cũng vẫn có cơm ăn áo mặc no nê sang trọng, có chết chóc gì đâu mà sợ! Bị dồn vào cái thế kẹt như trên đây mới rõ. Còn những bài học nho nhỏ như hậm hực chỉ vì cơm thì ít mà anh em ăn quá nhanh, mình lại ăn quá chậm; lẩn tránh một số công việc, thậm chí ganh tị với anh em (hầu hết đáng tuổi con cháu), ấm ức trong lòng vì những điều vụn vặt vv… thì xảy ra hằng ngày!!! Tôi rời khỏi trại học tập với bài học quý giá vô cùng là: mình chỉ là một đứa tồi, rất tồi, nếu không có Chúa nâng đỡ ban ơn thêm sức cho thì cái khả năng “bán Chúa” như Yu-đa không phải là không có cơ xảy ra! Lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức cầu nguyện, vì tinh thần thì tinh nhuệ, nhưng thể xác thì yếu hèn”, tôi nghe đã biết mấy trăm lần! Chỉ trong 16 tháng học tập cải tạo tôi mới có dịp thực tập. Quả là ĐẠI HỒNG PHÚC! Không có những biến cố '75 - 76, tôi làm sao ghi được những dòng trên đây, mà tôi cho là bài luận triết học hay nhất của cậu tú tài triết đậu hạng bình ở Huế năm ‘46 và của ông giáo sư Trưởng ban Triết viện Đại học Công giáo Dalat 1974. Xuyên qua bài học ấy là bài học này: dưới cái nhìn đức tin thì trong tình thương và sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa, những sự việc bên ngoài xem ra là khốn khổ, thực ra lại chứa đựng một phúc lớn (Phúc theo Tám mối phúc thật). Vì thế, đức tin và đức cậy phải luôn luôn được trau dồi, vun quén để thấy được rằng MỌI SỰ ĐỀU LÀ ÂN SỦNG! Mà Ân sủng thường chảy ra từ cây Thánh giá (thực ra là cây khổ giá, cây thập ác!) cho nên, trước khi kể lại giai đoạn này, tôi đã ghi rõ: AVE CRUX SPES UNICA! Việc hỏng thi vào trường Quốc Học năm ‘38, suy sụp về địa vị năm ’45-46, học lập cải tạo năm ’75-76 đã giúp Chân lý ấy được kiểm chứng rõ ràng! cho thấy mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh quả là điều hiển nhiên! Đức tin tôi nhờ đó càng thêm xác định kiên cố hơn nhiều. Có thể nói năm 75-76 là thời gian tôi được ơn trở lại lần thứ hai (deuxième conversion)! Ngày 25- 8-l976, lúc ra khỏi trại, trở về gian phòng của tôi tại nhà Hòa Lạc, mở cửa phòng ra, trên bàn còn y nguyên tờ lịch của tháng 4-1975, tôi quỳ gối lấy cây viết chì đỏ khoanh ngày 24-4-1975, ghi trên lề câu sau đây; “Con sẽ muôn đời tạ ơn Chúa vì ngày Đại Hồng Phúc này!” Đó là ngày Chúa đưa tôi vào cuộc trở lại thứ hai, đưa đời tôi lúc 50 tuổi bước sang một giai đoạn mới hoàn toàn. Nhưng thực ra, như trên kia đã nói, xét về mặt nào đó thì tôi như thể đã vượt qua một giấc mơ dài (51-75) để tiếp nối những năm ân sủng 49–50, đem lại một sự cải lão hoàn đồng về mọi mặt. Có lẽ vì vậy mà mà hiện nay rất nhiều người nhận xét rằng nơi con người 61 tuổi này dường như có cái gì rất trẻ. Và đến nay có thể xem như là chặng cuối của cuộc đời tôi! Vừa là cuối vừa là mới, mà mỗi ngày mỗi mới. Vì mỗi ngày phải lột xác, mà lần lột xác cuối cùng vào lúc được gọi là “sinh thì”, sẽ đưa cuộc sống mới hoàn toàn mới, tái sinh hẳn trong mầu nhiệm phục Sinh.
Và tiếp theo sau đây, tôi xin ghi lại cuốn phim của những ngày chuyển tiếp giữa cái cũ trước năm 75 và cái mới sau ngày tôi ở trại học tập Sông Mao trở về Đà Lạt.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |