Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
4. TU VÀ YÊU
Còn từ 14, 15 đến 20 tuổi, đời sống tính dục của tôi ra sao? Hình như nhu cầu tình dục đã khơi dậy khá sớm nơi tôi. Nhưng giáo dục gia đình không đề cập đến vấn đề này, chỉ có dạy bảo đừng ăn nói tục tĩu, và cho nghe các bài gia huấn dạy con cái đừng dâm đãng, đàng điếm. Cái luân lý tính dục ấy nặng về trật tự gia đình xã hội chứ không chủ yếu nhằm một lý tưởng khiết tịnh cá nhân. Vì thế, những thói xấu về tính dục, có tính cách cá nhân, không hề bị xem là tội lỗi gì, và không bao giờ thấy đề cập đến; cho nên, tôi đã qua tuổi dậy thì với những thói tật thông thường của tuổi ấy mà không có ý thức là lội lỗi xấu xa gì cả! Vả lại, vì quan niệm hôn nhân quá thiên về nối dõi tông đường của Nho giáo nên tôi có một quan niệm về tính dục không được đúng đắn lắm. Hình như địa hạt này được chia thành ba thành tố gần như tách biệt nhau:
Cho nên về đời sống tình dục của tôi cũng chia ra làm ba mặt:
Có lẽ vì vậy mà tôi khi nghĩ tới “tình yêu” là chỉ hình dung qua những mối tình không đi đến hôn nhân (hôn nhân bị tách rời với tình yêu! Hôn nhân là bổn phận của gia đình, xã hội! Giao hợp là nhu cầu thể lý! Tình yêu là một nhu cầu tình cảm thuần túy!) -Như Thúy Kiều và Kim Trọng, Lan và Điệp, Ngọc và Lan, Loan và Dũng! Tình yêu được xem hoặc như là một sinh hoạt tình cảm tinh thần: nặng nghệ sĩ tính, chỉ có thể ở những tâm hồn phong phú tế nhị mới có, như là một khát vọng có tính cách ít nhiều huyền bí (mystique) với những đặc tính là cao thượng, phi vật chất, vĩnh cửu và tuyệt đối (noble, immatériel, éternel et absolu). Quan niệm tình yêu ấy vừa do ảnh hưởng văn chương lãng mạn, vừa do ảnh hưởng một quan niệm do các hiệp sĩ Tây Phương thời Trung cổ (quan niệm trước chịu ảnh hưởng Platon, quan niệm sau chịu ảnh hưởng Kitô Giáo), chứ không phải từ văn hóa Đông phương. Chung kết lại, quan niệm và cảm thức của tôi về tình yêu là cho tôi thấy có một khát vọng mà kinh nghiệm ái tình của tôi không được thỏa mãn: Vì tôi thấy tình yêu nhân thế (Amour humain) nào cũng hữu hạn, tương đối, mong manh, - Trong lúc tôi khao khát một tình yêu vĩnh cửu, tuyệt đối. Vô hình chung, tôi đã gián tiếp chịu ảnh hưởng của một tình yêu bắt nguồn từ tình yêu thần hiệp (mystique) với ít nhiều lệch lạc, tuy có một phần nào là cao thượng.
Tóm lại, quan niệm tình yêu của tôi cũng nằm trong một nhân sinh quan coi mọi sự chỉ là tương đối, chóng qua, hữu hạn trong lúc khát vọng của con người là vĩnh cửu, tuyệt đối, vô biên. Nhất là sau khi chịu ảnh hưởng của Pascal, điều ấy lại càng in sâu vào tâm trí tôi. Có thể nói rằng mặc dầu cũng cố gắng học giỏi, mong thành đạt, có yêu đương vớ vẩn ít nhiều, có buông theo những đòi hỏi tình dục, nhưng tận đáy tâm hồn tôi vẫn có một khát vọng sâu xa nào đó, mà không có gì làm tôi thỏa mãn hoàn toàn. Về toàn bộ nhân sinh - tổng kết lại, tôi như ước mơ một cái gì khác, một cái gì không rõ, mông lung như là một cõi khác: vừa như Nghiêu Thuấn của Nho giáo, vừa như Non Bồng Nước Nhược của Lão giáo, vừa như Cực Lạc của Phật giáo, vừa như Thiên Đường của Kitô giáo. Nhưng khát vọng ấy có tính cách ít nhiều nghệ sĩ, nhẹ nhàng, thoang thoảng, làm cho tôi thích những đêm trăng, những chiều tà, những trời rộng sông dài mà tâm hồn được lâng lâng như thoát tục.
Tôi rất thích những bức tranh thủy mạc của Tàu vẽ những túp lều bên suối, khóm trúc, chóp núi, làn mây theo thú ẩn dật tiêu dao của Lão giáo. Tôi ham học cũng như các bạn khác ham thể dục, ham văn nghệ, chứ không phải là theo đuổi một mục đích nào có tính cách danh vọng địa vị! Có lẽ cả sự hiếu tri bác học cũng không nhắm luôn, bởi vì từ khi chịu ảnh hưởng của Pascal, học cũng chỉ là cách tìm lẽ sống hơn là hiếu tri bác học. Chính Pascal cũng đã bỏ sự nghiệp văn chương, khoa học để hướng về Tuyệt Đối là Thiên Chúa, cho đó là lẽ sống đời người. Tôi tuy chưa tin vào Thiên Chúa, nhưng cái tâm hướng về Tuyệt Đối đã chớm nở từ thuở đó. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một hạt giống gieo vào tâm tư, rồi cũng lại bị vùi sâu vào những thúc bách của những năm cố dùi mài chuẩn bị cho kỳ thi Tú tài.
Có lẽ vì kinh nghiệm cái nhục hỏng thi vào Quốc học Huế năm 38, nên trong hai năm 43 và 44, tôi mải miết học hành quyết tâm thế nào cũng thi đỗ cho được tú tài I. Động lực sâu xa nhất là ý thức về dòng dõi khoa bảng; con một ông Hoàng giáp đậu đại khoa lúc 19 tuổi, thì thế nào cũng phải là người tốt nghiệp đại học. Rồi sau đó làm gì hẵng hay! Tất cả những năng lực của tôi đều dồn vào mục đích ấy. Hơn nữa, trong số bạn học cùng lớp có anh Phan Ngọc, cũng học rất giỏi, cũng con nhà Khoa bảng (cụ thân sinh anh Ngọc đỗ phó bảng), nên giữa tôi và anh Ngọc có sự thi đua rất hào hùng trong tình thân thiện. Bằng tú tài được coi như cái mốc nhất định phải tới, rồi mới tính chuyện cao xa hơn, không phải là “phi cao đẳng bất thành phu phụ”, nhưng là “phi đại học bất thành sự nghiệp”. Muốn làm gì thì cũng phải là con người trí thức đã. Và hình như lúc đó tôi có ước mơ thành văn sĩ hay một giáo sư dạy khoa văn. Lý tưởng ấy bắt nguồn từ hình ảnh vị “vạn thế sư biểu” là Khổng Tử qua cái truyền thống làm chức tư nghiệp (phó giám hiệu Quốc tử giám) và gương của các bậc đàn anh mà tôi có lòng khâm phục như các ông Đặng Thái Mai, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Tạ Quang Bửu, họ vừa là thầy dạy giỏi, vừa mô phạm về đức hạnh, vừa có sinh hoạt văn hóa và có thái độ chính trị tuy không phải là kiêu hùng như các nhà cách mạng thực sự nhưng cũng giữ được cái sĩ khí, không luồn lụy bon chen, không xu nịnh ai. Nếu không có những biến cố dồn dập xảy đến năm 45, có lẽ tôi đã theo chân các bậc đàn anh ấy sẽ không làm quan cho Nam triều, làm công chức cho Pháp, mà sau khi tốt nghiệp đại học sẽ làm nghề viết văn, viết báo, dạy học tư, đào tạo thanh niên. Chuẩn bị có một cái gì đó chưa rõ ràng, nhưng hướng về mục đích làm sao cho nước nhà được độc lập. Có lẽ vì bản tính nhút nhát, sợ bạo động, nên tôi có xu hướng đấu tranh ôn hòa, để từ từ nước nhà tiến lên tự trị, liên hiệp, độc lập... Những năm Nhật chiếm đóng Đông Dương, tuy biết rằng có phong trào Ngô Đình Diệm: chủ trương dựa vào Nhật để thực hiện Việt Nam độc lập trong khối Đại Đông Á nhưng có lẽ vì được mục kích sự tàn bạo của quân đội Nhật nên tôi không mấy tin tưởng. Nhưng dầu sao thì tôi vẫn tự bảo: đậu tú tài xong ra học Đại học Hà Nội rồi hãy hay.
Thế rồi, mấy tháng cuối niên học 43, 44, tôi bị đau kiết lị nặng cộng thêm chứng đau dạ dày, phải nghỉ học thường xuyên. Kết quả kỳ thi tú tài I tôi chỉ đậu hạng bình thứ. Trường Thiên Hựu chỉ có các lớp ban tú tài I. Cuối năm 44, tôi sang học triết học tại trường Khải Định. Sang trường Khải Định tôi thấy vô cùng lạc lõng. Đã quen sống bầu không khí đại gia đình của trường Thiên Hựu, tôi thấy trường Khải Định có cái gì lạnh nhạt, máy móc của một guồng máy từ nhân viên hành chính đến các giám thị, các giáo sư cho đến bạn bè, đều thiếu không khí ấm cúng của trường Thiên Hựu.
Hình như ngoài không khí của gia đình mình, ra ngoài xã hội tôi đã quá thấm nhập môi trường thấm nhuần tinh thần Kitô Giáo là môi trường trường Thiên Hựu. Cho nên, về mặt cảm tính, tôi không thấy thích ứng được với một xã hội nào mà thiếu cái tinh thần căn bản xây trên tình yêu người như một ngã vị, một chủ thể độc nhất vô nhị như tôi nói trên kia, thì ra trong sáu năm trời tôi đã thấm nhuần một nhân sinh quan nhân vị mà sau này tôi mới biết đã thành tư tưởng hệ thống trong triết học của: E. Mounier, G. Marcel, Nédoncelle, Jean La Croix,... Hình như tôi chỉ thoải mái khi sinh hoạt trong một môi trường đượm nhuần tinh thần Kitô Giáo, bởi vì có lẽ về mặt tâm lý, tôi đã thấm nhuần cái tinh thần ấy: cảm tính, tư duy, động thái của tôi đã được nhuần nhuyễn một nền văn hóa Kitô -giáo và nhân bản Tây phương theo mô hình văn minh Hy lạp - La tinh.
Thế nhưng, đồng thời tôi cũng giữ được bản sắc Đông phương và Việt Nam. Trong chương trình nhà trường không dạy văn hóa Đông phương cũng như văn chương, lịch sử và địa lý Việt Nam, nhưng tôi đã tự tìm nghiên cứu qua các bộ Nho giáo, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; tự học Kiều, Cung oán, Chinh phụ; rất mê thơ Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Huy Cận, và chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn một cách khá sâu, các tiểu thuyết như Đôi bạn, Hồn bướm mơ tiên, cũng như các tạp chí Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, tôi đều rất ham đọc. Riêng cuốn “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân thì tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Các truyện cổ như Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du Tiền Hán Diễn Nghĩa, Chinh Đông, Ngũ Hổ Bình Tây và các loại kiếm hiệp tôi đều đọc cả và rất thích. Cuốn “Cổ học tinh hoa”, các bài Hịch Tướng Sĩ, Bình Ngô Đại Cáo, một số thơ văn của Cụ Phan Bội Châu tôi đều có đọc, tôi cũng thích và thuộc rất nhiều ca dao tục ngữ qua giọng hát dặm Nghệ Tĩnh, qua các điệu hò ru con ở Huế. Sau này khi giảng dạy triết học tôi vẫn mượn tỉ dụ những hình ảnh và cả những khởi hứng từ trong văn chương Đông phương và văn hóa Việt Nam, hàn lâm cũng như bình dân - để giải thích những tư tưởng triết học của Tây phương. Tuy là giáo trình của triết học Tây phương, nhưng những nội dung của Quy Khứ Lai Từ, của Phong Kiều Dạ Lạc của Tỳ Bà Hành, của Xích Bích Phú, của Kim Vân Kiều, của ca dao, đều được lồng vào một cách khá hài hòa, hòa hợp.
Sau này, khi đã thành người Công giáo, một ước mơ của tôi là sao có được một dòng văn học Việt Nam thấm nhuần Kitô giáo và một dòng văn hóa Kitô giáo thuần túy Việt Nam và nhất là một truyền thống thiêng liêng (spiritualité) phù hợp với tinh thần Á Đông mà vẫn chính thống Kitô giáo, và xin quý vị lãnh đạo trường Đại Học Đà Lạt thời trước thứ lỗi cho tôi, nếu tôi có ý nghĩ hối tiếc là giả sử vốn liếng và nỗ lực dồn cho trường Chính trị Kinh doanh được dành để nghiên cứu và xuất bản một số tác phẩm như của các vị J. De Monchanin, John Wu, F. Hoang, Dom Lou, Thomas Merton thì có lẽ hay hơn. Và bản thân tôi, tôi cũng không khỏi tự trách mình đã chần chừ chưa chịu bắt tay vào việc ấy một cách tích cực hơn. Đến nay tôi vẫn chưa rõ các bậc đàn anh như linh mục Nguyễn Văn Thích, linh mục Bửu Dưỡng đã có những công trình gì về mặt này rồi. Nhiều lúc tôi vẫn âm thầm tự hỏi, nếu ngay lúc này đây mà có một người Công giáo Việt Nam nào thực hiện được những công trình nghiên cứu suy tư như công trình của cha Yves Raguin thì biết đâu trong một tương lai nào đó lại chẳng có nhiều công dụng cho văn hóa Đông Phương như tác phẩm của các Thánh Âu Tinh, Grê-gô-ri-ô thành Nysse... Ở phương Tây, tôi tin chắc rằng vẫn có những khao khát về một đời sống tâm linh không gì làm tắt ngúm hay khô cạn đi được, và còn gì thích hợp cho bằng một tổng hợp giữa Kitô giáo với nền cổ học Đông Phương. Thế nhưng, cũng có thể là chủ nghĩa Mác-xít sẽ quét sạch tất cả và một nền văn hoá hoàn toàn mới sẽ phổ biến khắp toàn cầu và Kitô giáo sẽ phải thực hiện một cuộc tổng hợp hoàn toàn mới, mà hiện nay chưa có ai ngờ được? Tương lai thuộc về Thiên Chúa. Đây chỉ là những suy nghĩ lung tung vậy thôi, tôi chưa dám kết luận như thế nào cả... Dầu sao, chỉ có mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Đức Kitô mới là ánh đuốc cho nhân loại. Mọi nền văn hóa rồi cũng sẽ qua đi, như Paul Valéry đã nói: “Nous, cilivisations, nous sommes mortelles” “các nền văn hoá chúng tôi, chúng tôi đâu có bất tử!” và như Chúa Giêsu đã phán “Hình bóng thế gian này sẽ qua đi, Lời Ta Hằng Sống”. Hình như từ năm 1943, tôi đã bị hấp dẫn bởi một bầu khí sinh hoạt nhuần Kitô giáo, và hẳn đã có những biểu lộ nào đó nên tôi mới được linh mục Lefas, giáo sư văn chương Pháp tại trường Thiên Hựu để ý, cả linh mục Cotté dòng Chúa Cứu Thế, giám đốc kí túc xá Nguyễn Trường Tộ cũng vậy. Hình như cả hai vị đều đôi khi có gợi vấn đề tôn giáo ra với tôi một cách rất kín đáo, tế nhị, nhưng tôi đã hết sức lánh xa các vấn đề ấy, mặc dù tôi rất kính mến các vị và cũng được các vị dành cho rất nhiều thiện cảm, ưu ái. Đồng thời tôi lại cũng rất quen thân với một số bạn học người Công Giáo nhất là một số chủng sinh dòng Đa Minh ở Bắc và dòng Chúa Cứu Thế ở Huế gởi học tại Thiên Hựu đặc biệt trong đó có anh Long Đình Lương, em ruột linh mục Vương Đình Ái (gia đình Vương Đình còn có các linh mục: Vương Đình Tài, Vương Đình Khởi, Vương Đình Bích, Vương Đình Lâm). Tôi xin mượn một số hình ảnh để mô tả cảm tưởng do các bạn ấy gây ra cho tôi: đó là một làn hương dịu dàng của những tâm hồn đơn sơ và nhất là khiết tịnh, nhưng lại có cái gì đằm thắm, da diết, nồng nàn của những tâm hồn đa tình, đa tình mà khiết tịnh! Sau nữa, các bạn ấy học giỏi mà lại có cái gì khiêm tốn, chứ không có vẻ tự hào như anh Phan Ngọc và tôi. Thứ ba nữa là: các bạn ấy có cái gì rất khác người học sinh thường, nhưng đồng thời cũng rất nhân bản. Những mẫu người Công Giáo ấy phá vỡ cái quan niệm, cái ấn tượng Công giáo là mê tín dị đoan, mù quáng. Qua các bạn ấy tôi thấy lờ mờ rằng: đó là những tâm hồn đã thả neo vào một lý tưởng rất cao quý, không phải là một lý thuyết trừu tượng hay một sự nghiệp nào đó, nhưng là tình yêu đối với một người có vẻ rất cụ thể, rất gần gũi, rất “người”: Giêsu. Tôi trực cảm được rằng những chàng trai sáng sủa, khỏe mạnh ấy (lắm anh rất giỏi thể thao, văn nghệ, lắm anh học rất giỏi có tài tháo vát), tóm lại những thanh niên ưu tú ấy, rất bình thường, rất lành mạnh ấy, là một mẫu người vừa khác hẳn, vừa hoàn toàn giống như mọi người, thấm nhuần một tình yêu rất kì lạ! Đôi khi tôi có thắc mắc: họ yêu Giêsu ra sao? như cha con? như thầy trò? như vua tôi? như anh em? như bạn bè? như nam nữ? Thật là kì lạ vô cùng? Nhưng kết quả thì đầy hấp dẫn làm cho tôi vừa mến, vừa kinh ngạc, vừa thích gần gũi vừa ngần ngại, vừa muốn bắt chước, vừa sợ bị lây!?
Sự tiếp xúc với các chủng sinh ấy đã cho tôi gặp được một quan niệm rất lạ đối với tôi: hình ảnh vị sư trẻ tôi thấy đêm rằm tháng bảy thuở còn bé ở Khánh Hòa là biểu tượng của một cuộc đời thoát tục, diệt dục; Lan trong Hồn Bướm Mơ Tiên cũng vậy; Lan trong Tắt Lửa Lòng cũng vậy; quan niệm thoát tục trong Cung Oán cũng vậy! Nói tóm lại, đối với tôi, tu hành là tu theo quan niệm nhà Phật: “Tu là cội phúc, tình là giây oan”. Còn quan niệm của tôi lúc ấy về “tình yêu”, tuy đượm màu sắc vĩnh cửu, nhưng là cái gì vị kỷ, cá nhân, ngược với bổn phận gia đình, xã hội. Tình yêu chỉ là một thứ khoái lạc vị kỷ như Conreille đặt vào miệng Don Rodrigue: “L'amour n’est que plaisir” (Tình yêu chỉ là lạc thú). Nhưng các chủng sinh này là những chàng thanh niên như bất cứ thanh niên ưu tú nào, nhất là thầy Q. (nay là một vị linh mục ở Bắc) thì quả là đầy nhiệt huyết, hăng say, ăn mặc diêm dúa (xem ra có vẻ còn trau chuốt hình dong là đàng khác): bề ngoài hào hoa bặt thiệp, không có vẻ gì là thoát tục cả, mà lại là “tu”! Tu mà miệng lại luôn nói tới “yêu mến” với những từ ngữ có vẻ đắm đuối, say sưa. Lần đầu tiên tôi gặp một nhân sinh quan rất lạ: một thứ tu chẳng những không diệt dục mà còn đắm đuối chữ “tình”. Tình mà lại bao hàm hy sinh. Ái tình lại là điểm cao của một thứ bổn phận cao nhất. Tôi thoáng thấy một sự tổng hợp kỳ lạ: cái tình cảm mãnh liệt nhất, sâu xa nhất, đem lại hạnh phúc sâu xa nhất của con người là “tình yêu” (mà nói chung các nhà hiền triết thường lên án như là một đam mê si dại cuồng loạn), lại đồng thời là cái bổn phận cao thượng nhất, lý tưởng tuyệt vời nhất, đòi phải hy sinh, tiết dục, khiết tịnh nhất! Một thứ tình yêu mang nhiều nét giống tình yêu nhân thế (amour humain) mà lại thúc đẩy người thanh niên đầy nhiệt huyết, đầy tài năng, đầy nhựa sống ấy ẵm nhận đời sống tu hành; song tu mà lại rất vui, rất nhộn, rất “đời”: thật chẳng có gì là bi quan yếm thế cả! Các chủng sinh này cho tôi thấy trong Kitô giáo có một quan niệm tu và một nhân sinh quan, một quan niệm (một thứ, một loại) tình yêu vô cùng đặc biệt, vô cùng kỳ lạ, khác hẳn mọi tình yêu trên đời, đưa đến một kiểu tu khác: tu vì yêu, yêu nên mới tu. Họ nói họ hiến thân cho Chúa Giêsu vì tình yêu: vì Chúa Giêsu yêu họ, vì họ yêu Chúa Giêsu. Tình yêu kỳ quặc! Thế nhưng kết quả lại là những tâm hồn thật đẹp, thật phong phú; vừa rất người, rất đời, vừa có cái gì như ít nhiều cách biệt, khác hẳn con người thế tục. Mỗi chủ nhật thầy Q. chải chuốt ăn mặc tươm tất đi chơi với các anh em lưu học sinh trường Thiên Hựu (phần đông đều thuộc loại “đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi”) thì thầy Q. ăn đứt. Hình như đôi khi thầy ấy còn xức nước hoa, chải tóc láng mượt, hay ít ra cũng dùng một thứ xà phòng thơm khá sang. Sau này, khi đọc Tin Mừng tôi mới biết Chúa Giêsu có dạy các môn đệ xức dầu thơm trong khi ăn chay!!! Chứ lúc ấy, nhiều lúc thấy thầy Q. có vẻ quá phong lưu công tử, tôi cứ bảo thầm: “anh này mà tu được thì tôi đi đầu xuống đất!”. Nay thì thầy Q. đã là một linh mục có cuộc đời rất đáng kính phục. Đúng là tu với yêu đã kết hợp nhuần nhuyễn.
Nhưng còn Giêsu? tôi cũng kính mến Ngài lắm, nhưng Ngài chết gần 2000 năm rồi còn gì! Làm sao mà có thể yêu Ngài đắm đuối du dương da diết như đôi tình nhân đương thời vậy được? Mà yêu làm sao cả trăm, cả ngàn, cả vạn, cả triệu linh mục và nam nữ tu sĩ như vậy. Dần dần tôi còn biết, qua gần 20 thế kỉ, những người tu sĩ vì yêu như vậy rất nhiều và nhiều người đã đạt đỉnh cao của những thực hiện nhân loại (réalisations humaines) về mọi mặt: khoa học, triết học, nghệ thuật, từ thiện bác ái và cả chính trị xã hội nữa. Sau này đọc tác phẩm của Bergson, tôi mới hiểu cái thần hiệp của Kitô giáo (mystique chrétienne)! Chứ lúc ấy, tôi vô cùng ngạc nhiên và thấy thích thú, vừa thấy ngan ngán làm sao ấy! Tôi vừa như thấy bị thu hút, hấp dẫn vừa thấy sợ như sợ đụng vào phải dây điện cao thế! Những lúc vào các nguyện đường Công giáo nhất là khi nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, tôi đều thấy có sức thu hút mãnh liệt, nhưng đồng thời có cái gì rờn rợn, khiến cho mình phải ở vào thế đề phòng như sợ bị điện giật. Trái hẳn với không khí êm ả, thanh thản, điềm nhiên lắng đọng của tượng Phật trong cảnh u tịnh, tịch mịch của một ngôi chùa. Sau này đọc Thánh Gio-an và Phao-lô, đọc tiểu sử Thánh Phan-xi-cô At-xi-di, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, đọc các tác phẩm Thánh Gio-an thánh giá, của Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a A-la-cốc .... Thì tôi mới hiểu, chứ lúc ấy thì thật vô cùng thắc mắc và lấy làm vô cùng kì lạ. Như vậy, điều đã khiến tôi đổi quan niệm đầy thành kiến đối với Kitô giáo chính là khía cạnh thần hiệp của tôn giáo ấy, một thứ thần hiệp kì lạ chứa đầy những điều làm cho tôi phải suy nghĩ và tìm tòi.
Sau hết là Đức Mẹ Maria. Ngoài những hang đá trong nhà nguyện, nhà thờ, mà tôi đã tò mò đi xem trong dịp lễ Noel, có ba tác phẩm văn nghệ đã làm cho tôi vô cùng xúc động mỗi khi hình ảnh Đức Mẹ hiện đến trong tâm trí tôi: Một là bức tranh của họa sĩ Lê Văn Đệ được chụp lại và in thành ảnh nhỏ, đáng lưu ý nhất là bàn tay bé nhỏ của Chúa Giêsu luồn vào làn tóc như một dòng suối ngọc huyền của đức Mẹ buông xuống. Hai là bài thơ Ave Maria của Hàn Mạc Tử. Mỗi lần ngâm bài thơ ấy, tôi cứ muốn qùy xuống với tấm lòng “trìu mến”. Và cuối cùng là bài Salve Regina mà các lưu học sinh trường Thiên Hựu hát trước khi đi ngủ. Cứ mỗi buổi tối, bài ca ấy lại vang lên trong đêm dầy bao phủ cánh đồng An Cựu, như một làn hương, như một luồng hơi ấm xoa dịu tâm hồn. So với lời niệm Đức Quan Thế Âm và tiếng chuông thu không của nhà chùa có lẽ cũng có phần nào tương tự, nhưng ở đây có cái gì ấm áp hơn, dịu dàng hơn, tình người hơn, vui vẻ hơn.
Có lẽ tôi cũng nên ghi lại một hình ảnh ăn sâu vào ký ức: Năm ấy, vào khoảng năm ‘40, '41, tôi có người anh rể bị đau ho lao, điều trị tại viện bài lao Huế. Một hôm vào thăm anh, tôi gặp bà phước rất trẻ đẹp phục vụ bệnh nhân. Thật ra hình bóng các bà phước tại các bệnh viện, tôi đã gặp nhiều lần; nhưng bệnh ho lao là bệnh hay lây. Hình ảnh một thiếu phụ trẻ đẹp, trọn đời phục vụ loại bệnh nhân ấy nhất là biết rằng thiếu phụ ấy tự cõi trời Tây văn minh giàu mạnh đến phục vụ tại xứ nghèo kém, vào thời mà một phụ nữ Pháp như thế đáng ra là ở vị trí các “bà đầm” rất oai, rất hách, rất xa cách người Việt: hình ảnh ấy khiến tôi như đứng trước một cái gì vô cùng cao đẹp. Sự tương phùng giữa những bệnh nhân nan y với một hình ảnh tươi trẻ đẹp đẽ dịu dàng và có phần vui tươi, êm ả vừa tạo nên một cái gì vừa bi đát vừa hài hòa, tự nhiên đưa hồn người vào một thế giới khác, vượt mọi biên cương, mọi tầng lớp, mọi phân cách đối kháng, tranh chấp. Rồi một sự việc xảy ra làm cho tôi sửng sốt: Lúc ấy ở Huế có một người điên nhưng không phá phách hung tợn vẫn được để cho tự đo đi lại. Hôm ấy anh ta lạc vào bệnh viện, chạy lại gần bà phước nắm lấy tay bà và nói: “Sơ trẻ đẹp như vậy mà đi tu uổng quá!”
Câu nói ấy giúp tôi ý thức được cái cao quý trong sự hy sinh của các bà phước Công giáo. Nếu các chủng sinh bạn học hé mở cho tôi thấy khía cạnh “yêu Chúa”, thì bà phước ấy và câu nói của người điên này cho tôi thấy khía cạnh “yêu người” của những tâm hồn Công giáo ưu tư. Không thiếu gì những ni cô cũng có một cuộc đời cao quý như vậy, nhưng có chỗ khác nhau: là vị ni cô tuy đầy từ bi dịu hiền, lại có cái gì như điềm đạm tĩnh mặc; còn nơi bà phước lại có cái gì tươi đẹp ấm áp, gần như trìu mến âu yếm. Vị ni cô có thể cao xa hơn, còn bà phước gần gũi hơn! Đối với vị ni cô tôi có thể kính mến; với bà phước, tôi có thể mến yêu, tôi có cảm tưởng mình dễ làm nũng, vòi vĩnh hơn! Vị ni cô chỉ có phần xoa dịu, còn bà phước có cái gì gần như ấp ủ. Cụ thể hơn: khó hình dung vị ni cô cúi xuống hôn trán bệnh nhân, còn nếu bà phước có cử chỉ ấy, bà có cúi xuống hôn lên má bệnh nhân thì mình cũng thấy là tự nhiên! và nếu gặp một vị ni cô thì chắc rằng anh khùng kia không dám cầm tay mà nói lời gần như hỗn xược trên. Cũng tương tự như thế, khi so sánh Đức Bà Ma-ri-a, với Đức Quan Thế Âm, so sánh Đức Thích Ca với Chúa Giêsu; cũng như khó mà hình dung được Nhan Hồi dựa đầu vào ngực Đức Khổng Tử hay Ca Diếp dựa đầu vào ngực Đức Thích Ca, như tông đồ Gio-an đã dựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly.
Xin nhắc lại, tôi chỉ đối chiếu để vạch rõ khác nhau như thế nào, chứ không có ý so sánh hơn thua. Bởi vì, nếu như so sánh hơn thua, thì cũng có thể chê Giêsu Na-da-rét là xuề xoà, thiếu “lễ” làm cho môn sinh có thể đi đến chỗ “lờn”! Có thể chê Giêsu là không được “mô phạm” lắm. Thầy trò chứ có phải bồ bịch đâu mà dựa đầu kề vai! Cái cảnh Giêsu Na-da-rét để cho Maria Bê-ta-ni-a ngồi dưới chân nói chuyện, rồi cái cảnh để cho ả giang hồ xõa tóc lau chân, ôm hôn cũng thật thiếu lễ! Giêsu mới hơn 30 tuổi đầu chứ đâu đã già như Liễu Hạ Huệ! Vả lại, có già đi nữa cũng phải giữ lễ chứ! Đọc Tin Mừng thường thấy Giêsu bị chê trách như vậy chứ không phải được suy tôn như một vị thầy khả kính đâu. Ngài có nhiều hành động bị coi là “đáng chê”, tương tự như hành động của một gã si tình, gây xì-căng-đan nhiều lắm! Ngài bị đóng đinh phần lớn cũng chỉ vì vậy, chứ Ngài có làm gì nên tội nên tình đâu! Thật ra Giêsu không có dáng dấp tiên phong đạo cốt chân tu tí nào cả! Vì Ngài nói Ngài làm nhiều cái chướng tai gai mắt người lớn lắm, chỉ có trẻ con là khoái chí thôi kể cả đứa trẻ con về mặt tâm hồn; là bọn hành khất đui què mẻ sứt phong cùi, trộm cướp giang hồ ở ngoài rìa xã hội! Lẽ dĩ nhiên là bọn làm đĩ ăn cướp công khai, chứ không phải ăn cướp ngụy trang hay mệnh phụ đánh đĩ kiểu Cai- Pha hay Hê-rô-đi-a đâu, có lẽ vì thế một nhà trí thức vô thần cỡ lớn đã nói với tôi rằng là “Nếu giả sử tôi theo một tôn giáo thì tôi sẽ chọn Phật giáo, vì cao siêu hơn, còn Kitô giáo sao mà có vẻ ‘bình dân’ quá!
Còn từ 14, 15 đến 20 tuổi, đời sống tính dục của tôi ra sao? Hình như nhu cầu tình dục đã khơi dậy khá sớm nơi tôi. Nhưng giáo dục gia đình không đề cập đến vấn đề này, chỉ có dạy bảo đừng ăn nói tục tĩu, và cho nghe các bài gia huấn dạy con cái đừng dâm đãng, đàng điếm. Cái luân lý tính dục ấy nặng về trật tự gia đình xã hội chứ không chủ yếu nhằm một lý tưởng khiết tịnh cá nhân. Vì thế, những thói xấu về tính dục, có tính cách cá nhân, không hề bị xem là tội lỗi gì, và không bao giờ thấy đề cập đến; cho nên, tôi đã qua tuổi dậy thì với những thói tật thông thường của tuổi ấy mà không có ý thức là lội lỗi xấu xa gì cả! Vả lại, vì quan niệm hôn nhân quá thiên về nối dõi tông đường của Nho giáo nên tôi có một quan niệm về tính dục không được đúng đắn lắm. Hình như địa hạt này được chia thành ba thành tố gần như tách biệt nhau:
- Việc lập gia đình: do cha mẹ, họ hàng, xã hội chi phối lo liệu nhằm mục đích nối dòng. Vì vậy, kết hôn mà không cần biết nhau, chẳng qua là thi hành bổn phận gia đình và xã hội mà thôi.
- Nhu cầu sinh lý: xem như hạ cấp, có quyền thoả mãn cá nhân, miễn đừng di hại sức khỏe và quy luật xã hội chỉ vì chuyện vệ sinh cá nhân, và trật tự xã hội mà phải biết tiết độ có kỷ cương chứ không phải là vấn đề đức hạnh cá nhân.
- Tình yêu: gần như hoặc dành riêng cho những tâm hồn nghệ sĩ đặc biệt, có tính cách mơ mộng, trữ tình “platonique”. Tôi không nhớ rõ trong một cuộc phỏng vấn nào đó, có nhà nho đã trả lời: “Theo tôi ái tình là zéro!”.
Cho nên về đời sống tình dục của tôi cũng chia ra làm ba mặt:
- Việc lập gia đình hình như chỉ chờ đến lúc của nó là sẽ thực hiện theo lối cổ truyền.
- Nhu cầu sinh lý thì buông theo những thói tật không thường của tuổi thanh niên, không có một ý thức tội lỗi nào.
- Tình yêu thì theo lối mơ mộng văn chương theo kiểu Hồn bướm mơ tiên: yêu trong tâm hồn, trong lý tưởng: như Đạm Thủy, Tố Tâm.
Có lẽ vì vậy mà tôi khi nghĩ tới “tình yêu” là chỉ hình dung qua những mối tình không đi đến hôn nhân (hôn nhân bị tách rời với tình yêu! Hôn nhân là bổn phận của gia đình, xã hội! Giao hợp là nhu cầu thể lý! Tình yêu là một nhu cầu tình cảm thuần túy!) -Như Thúy Kiều và Kim Trọng, Lan và Điệp, Ngọc và Lan, Loan và Dũng! Tình yêu được xem hoặc như là một sinh hoạt tình cảm tinh thần: nặng nghệ sĩ tính, chỉ có thể ở những tâm hồn phong phú tế nhị mới có, như là một khát vọng có tính cách ít nhiều huyền bí (mystique) với những đặc tính là cao thượng, phi vật chất, vĩnh cửu và tuyệt đối (noble, immatériel, éternel et absolu). Quan niệm tình yêu ấy vừa do ảnh hưởng văn chương lãng mạn, vừa do ảnh hưởng một quan niệm do các hiệp sĩ Tây Phương thời Trung cổ (quan niệm trước chịu ảnh hưởng Platon, quan niệm sau chịu ảnh hưởng Kitô Giáo), chứ không phải từ văn hóa Đông phương. Chung kết lại, quan niệm và cảm thức của tôi về tình yêu là cho tôi thấy có một khát vọng mà kinh nghiệm ái tình của tôi không được thỏa mãn: Vì tôi thấy tình yêu nhân thế (Amour humain) nào cũng hữu hạn, tương đối, mong manh, - Trong lúc tôi khao khát một tình yêu vĩnh cửu, tuyệt đối. Vô hình chung, tôi đã gián tiếp chịu ảnh hưởng của một tình yêu bắt nguồn từ tình yêu thần hiệp (mystique) với ít nhiều lệch lạc, tuy có một phần nào là cao thượng.
Tóm lại, quan niệm tình yêu của tôi cũng nằm trong một nhân sinh quan coi mọi sự chỉ là tương đối, chóng qua, hữu hạn trong lúc khát vọng của con người là vĩnh cửu, tuyệt đối, vô biên. Nhất là sau khi chịu ảnh hưởng của Pascal, điều ấy lại càng in sâu vào tâm trí tôi. Có thể nói rằng mặc dầu cũng cố gắng học giỏi, mong thành đạt, có yêu đương vớ vẩn ít nhiều, có buông theo những đòi hỏi tình dục, nhưng tận đáy tâm hồn tôi vẫn có một khát vọng sâu xa nào đó, mà không có gì làm tôi thỏa mãn hoàn toàn. Về toàn bộ nhân sinh - tổng kết lại, tôi như ước mơ một cái gì khác, một cái gì không rõ, mông lung như là một cõi khác: vừa như Nghiêu Thuấn của Nho giáo, vừa như Non Bồng Nước Nhược của Lão giáo, vừa như Cực Lạc của Phật giáo, vừa như Thiên Đường của Kitô giáo. Nhưng khát vọng ấy có tính cách ít nhiều nghệ sĩ, nhẹ nhàng, thoang thoảng, làm cho tôi thích những đêm trăng, những chiều tà, những trời rộng sông dài mà tâm hồn được lâng lâng như thoát tục.
Tôi rất thích những bức tranh thủy mạc của Tàu vẽ những túp lều bên suối, khóm trúc, chóp núi, làn mây theo thú ẩn dật tiêu dao của Lão giáo. Tôi ham học cũng như các bạn khác ham thể dục, ham văn nghệ, chứ không phải là theo đuổi một mục đích nào có tính cách danh vọng địa vị! Có lẽ cả sự hiếu tri bác học cũng không nhắm luôn, bởi vì từ khi chịu ảnh hưởng của Pascal, học cũng chỉ là cách tìm lẽ sống hơn là hiếu tri bác học. Chính Pascal cũng đã bỏ sự nghiệp văn chương, khoa học để hướng về Tuyệt Đối là Thiên Chúa, cho đó là lẽ sống đời người. Tôi tuy chưa tin vào Thiên Chúa, nhưng cái tâm hướng về Tuyệt Đối đã chớm nở từ thuở đó. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một hạt giống gieo vào tâm tư, rồi cũng lại bị vùi sâu vào những thúc bách của những năm cố dùi mài chuẩn bị cho kỳ thi Tú tài.
Có lẽ vì kinh nghiệm cái nhục hỏng thi vào Quốc học Huế năm 38, nên trong hai năm 43 và 44, tôi mải miết học hành quyết tâm thế nào cũng thi đỗ cho được tú tài I. Động lực sâu xa nhất là ý thức về dòng dõi khoa bảng; con một ông Hoàng giáp đậu đại khoa lúc 19 tuổi, thì thế nào cũng phải là người tốt nghiệp đại học. Rồi sau đó làm gì hẵng hay! Tất cả những năng lực của tôi đều dồn vào mục đích ấy. Hơn nữa, trong số bạn học cùng lớp có anh Phan Ngọc, cũng học rất giỏi, cũng con nhà Khoa bảng (cụ thân sinh anh Ngọc đỗ phó bảng), nên giữa tôi và anh Ngọc có sự thi đua rất hào hùng trong tình thân thiện. Bằng tú tài được coi như cái mốc nhất định phải tới, rồi mới tính chuyện cao xa hơn, không phải là “phi cao đẳng bất thành phu phụ”, nhưng là “phi đại học bất thành sự nghiệp”. Muốn làm gì thì cũng phải là con người trí thức đã. Và hình như lúc đó tôi có ước mơ thành văn sĩ hay một giáo sư dạy khoa văn. Lý tưởng ấy bắt nguồn từ hình ảnh vị “vạn thế sư biểu” là Khổng Tử qua cái truyền thống làm chức tư nghiệp (phó giám hiệu Quốc tử giám) và gương của các bậc đàn anh mà tôi có lòng khâm phục như các ông Đặng Thái Mai, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Tạ Quang Bửu, họ vừa là thầy dạy giỏi, vừa mô phạm về đức hạnh, vừa có sinh hoạt văn hóa và có thái độ chính trị tuy không phải là kiêu hùng như các nhà cách mạng thực sự nhưng cũng giữ được cái sĩ khí, không luồn lụy bon chen, không xu nịnh ai. Nếu không có những biến cố dồn dập xảy đến năm 45, có lẽ tôi đã theo chân các bậc đàn anh ấy sẽ không làm quan cho Nam triều, làm công chức cho Pháp, mà sau khi tốt nghiệp đại học sẽ làm nghề viết văn, viết báo, dạy học tư, đào tạo thanh niên. Chuẩn bị có một cái gì đó chưa rõ ràng, nhưng hướng về mục đích làm sao cho nước nhà được độc lập. Có lẽ vì bản tính nhút nhát, sợ bạo động, nên tôi có xu hướng đấu tranh ôn hòa, để từ từ nước nhà tiến lên tự trị, liên hiệp, độc lập... Những năm Nhật chiếm đóng Đông Dương, tuy biết rằng có phong trào Ngô Đình Diệm: chủ trương dựa vào Nhật để thực hiện Việt Nam độc lập trong khối Đại Đông Á nhưng có lẽ vì được mục kích sự tàn bạo của quân đội Nhật nên tôi không mấy tin tưởng. Nhưng dầu sao thì tôi vẫn tự bảo: đậu tú tài xong ra học Đại học Hà Nội rồi hãy hay.
Thế rồi, mấy tháng cuối niên học 43, 44, tôi bị đau kiết lị nặng cộng thêm chứng đau dạ dày, phải nghỉ học thường xuyên. Kết quả kỳ thi tú tài I tôi chỉ đậu hạng bình thứ. Trường Thiên Hựu chỉ có các lớp ban tú tài I. Cuối năm 44, tôi sang học triết học tại trường Khải Định. Sang trường Khải Định tôi thấy vô cùng lạc lõng. Đã quen sống bầu không khí đại gia đình của trường Thiên Hựu, tôi thấy trường Khải Định có cái gì lạnh nhạt, máy móc của một guồng máy từ nhân viên hành chính đến các giám thị, các giáo sư cho đến bạn bè, đều thiếu không khí ấm cúng của trường Thiên Hựu.
Hình như ngoài không khí của gia đình mình, ra ngoài xã hội tôi đã quá thấm nhập môi trường thấm nhuần tinh thần Kitô Giáo là môi trường trường Thiên Hựu. Cho nên, về mặt cảm tính, tôi không thấy thích ứng được với một xã hội nào mà thiếu cái tinh thần căn bản xây trên tình yêu người như một ngã vị, một chủ thể độc nhất vô nhị như tôi nói trên kia, thì ra trong sáu năm trời tôi đã thấm nhuần một nhân sinh quan nhân vị mà sau này tôi mới biết đã thành tư tưởng hệ thống trong triết học của: E. Mounier, G. Marcel, Nédoncelle, Jean La Croix,... Hình như tôi chỉ thoải mái khi sinh hoạt trong một môi trường đượm nhuần tinh thần Kitô Giáo, bởi vì có lẽ về mặt tâm lý, tôi đã thấm nhuần cái tinh thần ấy: cảm tính, tư duy, động thái của tôi đã được nhuần nhuyễn một nền văn hóa Kitô -giáo và nhân bản Tây phương theo mô hình văn minh Hy lạp - La tinh.
Thế nhưng, đồng thời tôi cũng giữ được bản sắc Đông phương và Việt Nam. Trong chương trình nhà trường không dạy văn hóa Đông phương cũng như văn chương, lịch sử và địa lý Việt Nam, nhưng tôi đã tự tìm nghiên cứu qua các bộ Nho giáo, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; tự học Kiều, Cung oán, Chinh phụ; rất mê thơ Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Huy Cận, và chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn một cách khá sâu, các tiểu thuyết như Đôi bạn, Hồn bướm mơ tiên, cũng như các tạp chí Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, tôi đều rất ham đọc. Riêng cuốn “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân thì tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Các truyện cổ như Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du Tiền Hán Diễn Nghĩa, Chinh Đông, Ngũ Hổ Bình Tây và các loại kiếm hiệp tôi đều đọc cả và rất thích. Cuốn “Cổ học tinh hoa”, các bài Hịch Tướng Sĩ, Bình Ngô Đại Cáo, một số thơ văn của Cụ Phan Bội Châu tôi đều có đọc, tôi cũng thích và thuộc rất nhiều ca dao tục ngữ qua giọng hát dặm Nghệ Tĩnh, qua các điệu hò ru con ở Huế. Sau này khi giảng dạy triết học tôi vẫn mượn tỉ dụ những hình ảnh và cả những khởi hứng từ trong văn chương Đông phương và văn hóa Việt Nam, hàn lâm cũng như bình dân - để giải thích những tư tưởng triết học của Tây phương. Tuy là giáo trình của triết học Tây phương, nhưng những nội dung của Quy Khứ Lai Từ, của Phong Kiều Dạ Lạc của Tỳ Bà Hành, của Xích Bích Phú, của Kim Vân Kiều, của ca dao, đều được lồng vào một cách khá hài hòa, hòa hợp.
Sau này, khi đã thành người Công giáo, một ước mơ của tôi là sao có được một dòng văn học Việt Nam thấm nhuần Kitô giáo và một dòng văn hóa Kitô giáo thuần túy Việt Nam và nhất là một truyền thống thiêng liêng (spiritualité) phù hợp với tinh thần Á Đông mà vẫn chính thống Kitô giáo, và xin quý vị lãnh đạo trường Đại Học Đà Lạt thời trước thứ lỗi cho tôi, nếu tôi có ý nghĩ hối tiếc là giả sử vốn liếng và nỗ lực dồn cho trường Chính trị Kinh doanh được dành để nghiên cứu và xuất bản một số tác phẩm như của các vị J. De Monchanin, John Wu, F. Hoang, Dom Lou, Thomas Merton thì có lẽ hay hơn. Và bản thân tôi, tôi cũng không khỏi tự trách mình đã chần chừ chưa chịu bắt tay vào việc ấy một cách tích cực hơn. Đến nay tôi vẫn chưa rõ các bậc đàn anh như linh mục Nguyễn Văn Thích, linh mục Bửu Dưỡng đã có những công trình gì về mặt này rồi. Nhiều lúc tôi vẫn âm thầm tự hỏi, nếu ngay lúc này đây mà có một người Công giáo Việt Nam nào thực hiện được những công trình nghiên cứu suy tư như công trình của cha Yves Raguin thì biết đâu trong một tương lai nào đó lại chẳng có nhiều công dụng cho văn hóa Đông Phương như tác phẩm của các Thánh Âu Tinh, Grê-gô-ri-ô thành Nysse... Ở phương Tây, tôi tin chắc rằng vẫn có những khao khát về một đời sống tâm linh không gì làm tắt ngúm hay khô cạn đi được, và còn gì thích hợp cho bằng một tổng hợp giữa Kitô giáo với nền cổ học Đông Phương. Thế nhưng, cũng có thể là chủ nghĩa Mác-xít sẽ quét sạch tất cả và một nền văn hoá hoàn toàn mới sẽ phổ biến khắp toàn cầu và Kitô giáo sẽ phải thực hiện một cuộc tổng hợp hoàn toàn mới, mà hiện nay chưa có ai ngờ được? Tương lai thuộc về Thiên Chúa. Đây chỉ là những suy nghĩ lung tung vậy thôi, tôi chưa dám kết luận như thế nào cả... Dầu sao, chỉ có mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Đức Kitô mới là ánh đuốc cho nhân loại. Mọi nền văn hóa rồi cũng sẽ qua đi, như Paul Valéry đã nói: “Nous, cilivisations, nous sommes mortelles” “các nền văn hoá chúng tôi, chúng tôi đâu có bất tử!” và như Chúa Giêsu đã phán “Hình bóng thế gian này sẽ qua đi, Lời Ta Hằng Sống”. Hình như từ năm 1943, tôi đã bị hấp dẫn bởi một bầu khí sinh hoạt nhuần Kitô giáo, và hẳn đã có những biểu lộ nào đó nên tôi mới được linh mục Lefas, giáo sư văn chương Pháp tại trường Thiên Hựu để ý, cả linh mục Cotté dòng Chúa Cứu Thế, giám đốc kí túc xá Nguyễn Trường Tộ cũng vậy. Hình như cả hai vị đều đôi khi có gợi vấn đề tôn giáo ra với tôi một cách rất kín đáo, tế nhị, nhưng tôi đã hết sức lánh xa các vấn đề ấy, mặc dù tôi rất kính mến các vị và cũng được các vị dành cho rất nhiều thiện cảm, ưu ái. Đồng thời tôi lại cũng rất quen thân với một số bạn học người Công Giáo nhất là một số chủng sinh dòng Đa Minh ở Bắc và dòng Chúa Cứu Thế ở Huế gởi học tại Thiên Hựu đặc biệt trong đó có anh Long Đình Lương, em ruột linh mục Vương Đình Ái (gia đình Vương Đình còn có các linh mục: Vương Đình Tài, Vương Đình Khởi, Vương Đình Bích, Vương Đình Lâm). Tôi xin mượn một số hình ảnh để mô tả cảm tưởng do các bạn ấy gây ra cho tôi: đó là một làn hương dịu dàng của những tâm hồn đơn sơ và nhất là khiết tịnh, nhưng lại có cái gì đằm thắm, da diết, nồng nàn của những tâm hồn đa tình, đa tình mà khiết tịnh! Sau nữa, các bạn ấy học giỏi mà lại có cái gì khiêm tốn, chứ không có vẻ tự hào như anh Phan Ngọc và tôi. Thứ ba nữa là: các bạn ấy có cái gì rất khác người học sinh thường, nhưng đồng thời cũng rất nhân bản. Những mẫu người Công Giáo ấy phá vỡ cái quan niệm, cái ấn tượng Công giáo là mê tín dị đoan, mù quáng. Qua các bạn ấy tôi thấy lờ mờ rằng: đó là những tâm hồn đã thả neo vào một lý tưởng rất cao quý, không phải là một lý thuyết trừu tượng hay một sự nghiệp nào đó, nhưng là tình yêu đối với một người có vẻ rất cụ thể, rất gần gũi, rất “người”: Giêsu. Tôi trực cảm được rằng những chàng trai sáng sủa, khỏe mạnh ấy (lắm anh rất giỏi thể thao, văn nghệ, lắm anh học rất giỏi có tài tháo vát), tóm lại những thanh niên ưu tú ấy, rất bình thường, rất lành mạnh ấy, là một mẫu người vừa khác hẳn, vừa hoàn toàn giống như mọi người, thấm nhuần một tình yêu rất kì lạ! Đôi khi tôi có thắc mắc: họ yêu Giêsu ra sao? như cha con? như thầy trò? như vua tôi? như anh em? như bạn bè? như nam nữ? Thật là kì lạ vô cùng? Nhưng kết quả thì đầy hấp dẫn làm cho tôi vừa mến, vừa kinh ngạc, vừa thích gần gũi vừa ngần ngại, vừa muốn bắt chước, vừa sợ bị lây!?
Sự tiếp xúc với các chủng sinh ấy đã cho tôi gặp được một quan niệm rất lạ đối với tôi: hình ảnh vị sư trẻ tôi thấy đêm rằm tháng bảy thuở còn bé ở Khánh Hòa là biểu tượng của một cuộc đời thoát tục, diệt dục; Lan trong Hồn Bướm Mơ Tiên cũng vậy; Lan trong Tắt Lửa Lòng cũng vậy; quan niệm thoát tục trong Cung Oán cũng vậy! Nói tóm lại, đối với tôi, tu hành là tu theo quan niệm nhà Phật: “Tu là cội phúc, tình là giây oan”. Còn quan niệm của tôi lúc ấy về “tình yêu”, tuy đượm màu sắc vĩnh cửu, nhưng là cái gì vị kỷ, cá nhân, ngược với bổn phận gia đình, xã hội. Tình yêu chỉ là một thứ khoái lạc vị kỷ như Conreille đặt vào miệng Don Rodrigue: “L'amour n’est que plaisir” (Tình yêu chỉ là lạc thú). Nhưng các chủng sinh này là những chàng thanh niên như bất cứ thanh niên ưu tú nào, nhất là thầy Q. (nay là một vị linh mục ở Bắc) thì quả là đầy nhiệt huyết, hăng say, ăn mặc diêm dúa (xem ra có vẻ còn trau chuốt hình dong là đàng khác): bề ngoài hào hoa bặt thiệp, không có vẻ gì là thoát tục cả, mà lại là “tu”! Tu mà miệng lại luôn nói tới “yêu mến” với những từ ngữ có vẻ đắm đuối, say sưa. Lần đầu tiên tôi gặp một nhân sinh quan rất lạ: một thứ tu chẳng những không diệt dục mà còn đắm đuối chữ “tình”. Tình mà lại bao hàm hy sinh. Ái tình lại là điểm cao của một thứ bổn phận cao nhất. Tôi thoáng thấy một sự tổng hợp kỳ lạ: cái tình cảm mãnh liệt nhất, sâu xa nhất, đem lại hạnh phúc sâu xa nhất của con người là “tình yêu” (mà nói chung các nhà hiền triết thường lên án như là một đam mê si dại cuồng loạn), lại đồng thời là cái bổn phận cao thượng nhất, lý tưởng tuyệt vời nhất, đòi phải hy sinh, tiết dục, khiết tịnh nhất! Một thứ tình yêu mang nhiều nét giống tình yêu nhân thế (amour humain) mà lại thúc đẩy người thanh niên đầy nhiệt huyết, đầy tài năng, đầy nhựa sống ấy ẵm nhận đời sống tu hành; song tu mà lại rất vui, rất nhộn, rất “đời”: thật chẳng có gì là bi quan yếm thế cả! Các chủng sinh này cho tôi thấy trong Kitô giáo có một quan niệm tu và một nhân sinh quan, một quan niệm (một thứ, một loại) tình yêu vô cùng đặc biệt, vô cùng kỳ lạ, khác hẳn mọi tình yêu trên đời, đưa đến một kiểu tu khác: tu vì yêu, yêu nên mới tu. Họ nói họ hiến thân cho Chúa Giêsu vì tình yêu: vì Chúa Giêsu yêu họ, vì họ yêu Chúa Giêsu. Tình yêu kỳ quặc! Thế nhưng kết quả lại là những tâm hồn thật đẹp, thật phong phú; vừa rất người, rất đời, vừa có cái gì như ít nhiều cách biệt, khác hẳn con người thế tục. Mỗi chủ nhật thầy Q. chải chuốt ăn mặc tươm tất đi chơi với các anh em lưu học sinh trường Thiên Hựu (phần đông đều thuộc loại “đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi”) thì thầy Q. ăn đứt. Hình như đôi khi thầy ấy còn xức nước hoa, chải tóc láng mượt, hay ít ra cũng dùng một thứ xà phòng thơm khá sang. Sau này, khi đọc Tin Mừng tôi mới biết Chúa Giêsu có dạy các môn đệ xức dầu thơm trong khi ăn chay!!! Chứ lúc ấy, nhiều lúc thấy thầy Q. có vẻ quá phong lưu công tử, tôi cứ bảo thầm: “anh này mà tu được thì tôi đi đầu xuống đất!”. Nay thì thầy Q. đã là một linh mục có cuộc đời rất đáng kính phục. Đúng là tu với yêu đã kết hợp nhuần nhuyễn.
Nhưng còn Giêsu? tôi cũng kính mến Ngài lắm, nhưng Ngài chết gần 2000 năm rồi còn gì! Làm sao mà có thể yêu Ngài đắm đuối du dương da diết như đôi tình nhân đương thời vậy được? Mà yêu làm sao cả trăm, cả ngàn, cả vạn, cả triệu linh mục và nam nữ tu sĩ như vậy. Dần dần tôi còn biết, qua gần 20 thế kỉ, những người tu sĩ vì yêu như vậy rất nhiều và nhiều người đã đạt đỉnh cao của những thực hiện nhân loại (réalisations humaines) về mọi mặt: khoa học, triết học, nghệ thuật, từ thiện bác ái và cả chính trị xã hội nữa. Sau này đọc tác phẩm của Bergson, tôi mới hiểu cái thần hiệp của Kitô giáo (mystique chrétienne)! Chứ lúc ấy, tôi vô cùng ngạc nhiên và thấy thích thú, vừa thấy ngan ngán làm sao ấy! Tôi vừa như thấy bị thu hút, hấp dẫn vừa thấy sợ như sợ đụng vào phải dây điện cao thế! Những lúc vào các nguyện đường Công giáo nhất là khi nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, tôi đều thấy có sức thu hút mãnh liệt, nhưng đồng thời có cái gì rờn rợn, khiến cho mình phải ở vào thế đề phòng như sợ bị điện giật. Trái hẳn với không khí êm ả, thanh thản, điềm nhiên lắng đọng của tượng Phật trong cảnh u tịnh, tịch mịch của một ngôi chùa. Sau này đọc Thánh Gio-an và Phao-lô, đọc tiểu sử Thánh Phan-xi-cô At-xi-di, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, đọc các tác phẩm Thánh Gio-an thánh giá, của Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a A-la-cốc .... Thì tôi mới hiểu, chứ lúc ấy thì thật vô cùng thắc mắc và lấy làm vô cùng kì lạ. Như vậy, điều đã khiến tôi đổi quan niệm đầy thành kiến đối với Kitô giáo chính là khía cạnh thần hiệp của tôn giáo ấy, một thứ thần hiệp kì lạ chứa đầy những điều làm cho tôi phải suy nghĩ và tìm tòi.
Sau hết là Đức Mẹ Maria. Ngoài những hang đá trong nhà nguyện, nhà thờ, mà tôi đã tò mò đi xem trong dịp lễ Noel, có ba tác phẩm văn nghệ đã làm cho tôi vô cùng xúc động mỗi khi hình ảnh Đức Mẹ hiện đến trong tâm trí tôi: Một là bức tranh của họa sĩ Lê Văn Đệ được chụp lại và in thành ảnh nhỏ, đáng lưu ý nhất là bàn tay bé nhỏ của Chúa Giêsu luồn vào làn tóc như một dòng suối ngọc huyền của đức Mẹ buông xuống. Hai là bài thơ Ave Maria của Hàn Mạc Tử. Mỗi lần ngâm bài thơ ấy, tôi cứ muốn qùy xuống với tấm lòng “trìu mến”. Và cuối cùng là bài Salve Regina mà các lưu học sinh trường Thiên Hựu hát trước khi đi ngủ. Cứ mỗi buổi tối, bài ca ấy lại vang lên trong đêm dầy bao phủ cánh đồng An Cựu, như một làn hương, như một luồng hơi ấm xoa dịu tâm hồn. So với lời niệm Đức Quan Thế Âm và tiếng chuông thu không của nhà chùa có lẽ cũng có phần nào tương tự, nhưng ở đây có cái gì ấm áp hơn, dịu dàng hơn, tình người hơn, vui vẻ hơn.
Có lẽ tôi cũng nên ghi lại một hình ảnh ăn sâu vào ký ức: Năm ấy, vào khoảng năm ‘40, '41, tôi có người anh rể bị đau ho lao, điều trị tại viện bài lao Huế. Một hôm vào thăm anh, tôi gặp bà phước rất trẻ đẹp phục vụ bệnh nhân. Thật ra hình bóng các bà phước tại các bệnh viện, tôi đã gặp nhiều lần; nhưng bệnh ho lao là bệnh hay lây. Hình ảnh một thiếu phụ trẻ đẹp, trọn đời phục vụ loại bệnh nhân ấy nhất là biết rằng thiếu phụ ấy tự cõi trời Tây văn minh giàu mạnh đến phục vụ tại xứ nghèo kém, vào thời mà một phụ nữ Pháp như thế đáng ra là ở vị trí các “bà đầm” rất oai, rất hách, rất xa cách người Việt: hình ảnh ấy khiến tôi như đứng trước một cái gì vô cùng cao đẹp. Sự tương phùng giữa những bệnh nhân nan y với một hình ảnh tươi trẻ đẹp đẽ dịu dàng và có phần vui tươi, êm ả vừa tạo nên một cái gì vừa bi đát vừa hài hòa, tự nhiên đưa hồn người vào một thế giới khác, vượt mọi biên cương, mọi tầng lớp, mọi phân cách đối kháng, tranh chấp. Rồi một sự việc xảy ra làm cho tôi sửng sốt: Lúc ấy ở Huế có một người điên nhưng không phá phách hung tợn vẫn được để cho tự đo đi lại. Hôm ấy anh ta lạc vào bệnh viện, chạy lại gần bà phước nắm lấy tay bà và nói: “Sơ trẻ đẹp như vậy mà đi tu uổng quá!”
Câu nói ấy giúp tôi ý thức được cái cao quý trong sự hy sinh của các bà phước Công giáo. Nếu các chủng sinh bạn học hé mở cho tôi thấy khía cạnh “yêu Chúa”, thì bà phước ấy và câu nói của người điên này cho tôi thấy khía cạnh “yêu người” của những tâm hồn Công giáo ưu tư. Không thiếu gì những ni cô cũng có một cuộc đời cao quý như vậy, nhưng có chỗ khác nhau: là vị ni cô tuy đầy từ bi dịu hiền, lại có cái gì như điềm đạm tĩnh mặc; còn nơi bà phước lại có cái gì tươi đẹp ấm áp, gần như trìu mến âu yếm. Vị ni cô có thể cao xa hơn, còn bà phước gần gũi hơn! Đối với vị ni cô tôi có thể kính mến; với bà phước, tôi có thể mến yêu, tôi có cảm tưởng mình dễ làm nũng, vòi vĩnh hơn! Vị ni cô chỉ có phần xoa dịu, còn bà phước có cái gì gần như ấp ủ. Cụ thể hơn: khó hình dung vị ni cô cúi xuống hôn trán bệnh nhân, còn nếu bà phước có cử chỉ ấy, bà có cúi xuống hôn lên má bệnh nhân thì mình cũng thấy là tự nhiên! và nếu gặp một vị ni cô thì chắc rằng anh khùng kia không dám cầm tay mà nói lời gần như hỗn xược trên. Cũng tương tự như thế, khi so sánh Đức Bà Ma-ri-a, với Đức Quan Thế Âm, so sánh Đức Thích Ca với Chúa Giêsu; cũng như khó mà hình dung được Nhan Hồi dựa đầu vào ngực Đức Khổng Tử hay Ca Diếp dựa đầu vào ngực Đức Thích Ca, như tông đồ Gio-an đã dựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly.
Xin nhắc lại, tôi chỉ đối chiếu để vạch rõ khác nhau như thế nào, chứ không có ý so sánh hơn thua. Bởi vì, nếu như so sánh hơn thua, thì cũng có thể chê Giêsu Na-da-rét là xuề xoà, thiếu “lễ” làm cho môn sinh có thể đi đến chỗ “lờn”! Có thể chê Giêsu là không được “mô phạm” lắm. Thầy trò chứ có phải bồ bịch đâu mà dựa đầu kề vai! Cái cảnh Giêsu Na-da-rét để cho Maria Bê-ta-ni-a ngồi dưới chân nói chuyện, rồi cái cảnh để cho ả giang hồ xõa tóc lau chân, ôm hôn cũng thật thiếu lễ! Giêsu mới hơn 30 tuổi đầu chứ đâu đã già như Liễu Hạ Huệ! Vả lại, có già đi nữa cũng phải giữ lễ chứ! Đọc Tin Mừng thường thấy Giêsu bị chê trách như vậy chứ không phải được suy tôn như một vị thầy khả kính đâu. Ngài có nhiều hành động bị coi là “đáng chê”, tương tự như hành động của một gã si tình, gây xì-căng-đan nhiều lắm! Ngài bị đóng đinh phần lớn cũng chỉ vì vậy, chứ Ngài có làm gì nên tội nên tình đâu! Thật ra Giêsu không có dáng dấp tiên phong đạo cốt chân tu tí nào cả! Vì Ngài nói Ngài làm nhiều cái chướng tai gai mắt người lớn lắm, chỉ có trẻ con là khoái chí thôi kể cả đứa trẻ con về mặt tâm hồn; là bọn hành khất đui què mẻ sứt phong cùi, trộm cướp giang hồ ở ngoài rìa xã hội! Lẽ dĩ nhiên là bọn làm đĩ ăn cướp công khai, chứ không phải ăn cướp ngụy trang hay mệnh phụ đánh đĩ kiểu Cai- Pha hay Hê-rô-đi-a đâu, có lẽ vì thế một nhà trí thức vô thần cỡ lớn đã nói với tôi rằng là “Nếu giả sử tôi theo một tôn giáo thì tôi sẽ chọn Phật giáo, vì cao siêu hơn, còn Kitô giáo sao mà có vẻ ‘bình dân’ quá!
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |