Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
22. CƯ SĨ
Năm 1983, vì tôi hay đau yếu, các anh ở Ủy ban Khoa học Kỹ thuật cho tôi được tìm cách chuyển công tác về miền xuôi: sau một thời gian tưởng như có khả năng phục vụ tại Đại học Sư phạm Tp. HCM hoặc Huế, nhưng cuối cùng không thành, tôi lại tiếp tục ở Ủy Ban Khoa học Kỹ Thuật, cho đến ngày 28-2-86 thì được nghỉ hưu và tôi lấy quyết định ở lại Đà lạt, cơ quan chấp nhận cho tôi tiếp tục cư trú tại gian phòng dành cho tôi tại khu tập thể của cơ quan, tọa lạc tại số nhà 32 A Đào Duy từ, phường Đà Lạt là nơi tôi ghi những dòng “hồi ký” này. Một sự tình cờ đưa tôi đến chỗ được một sinh viên cũ (cũng làm nghề dạy học và cùng được nghỉ việc cùng lúc) dành cho tôi vài băng đất nơi miếng rẫy của anh, tại ấp Tân Thành, phường 2, ở dưới một thung lũng cuối đường 3 tháng 4, dầu dốc đèo Prenn, phía tay trái, quốc lộ 20 (kể từ Đà lạt đi xuống). Tôi trồng cà phê, hồng, táo, dâu, rau và một ao cá, một giàn su su, chuẩn bị an hưởng tuổi già.
Cuộc đời của tôi như thế là kết thúc khá êm ả nhẹ nhàng: một viên chức về hưu, ngày ngày đi lễ đọc kinh, đi lại thăm viếng anh em thân thuộc trong cảnh đạm bạc nhưng an bình. Có trà dư tửu hậu thì làm thơ nói chuyện đời (như kiểu bình luận Tam Quốc), chuyện đạo, chuyện triết học, văn chương, thảnh thơi thơ túi rượu bầu! (rượu thì không có, chỉ có nước chè xanh do người bạn vãn niên là anh Phạm Phú Thành, trước là giáo viên trường Trần Hưng Đạo, nay thì làm cùng cơ quan, thỉnh thoảng cho vài nắm nấu uống, có đường thì cho đường, hay cho cà phê mà gần đây giá tăng lên vùn vụt).
Về phần cá nhân, tôi tự thấy mình quả được đầy đủ về mọi mặt, từ vật chất đến thiêng liêng! Nhưng, cùng sống với đồng bào, với anh em tín hữu, tôi thông dự với tất cả những nỗi niềm của họ trong sự hiệp thông của tình người, tình đồng bào, tình đồng đạo. Những vui buồn, mong ước, khát vọng của họ, tôi đều thông dự sâu xa, ngày đêm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết với sự kiên trì trông đợi. Dù sao thì tất cả đều là Ân sủng, và chúng ta không thể đòi đi bước trước, trước đường lối của Chúa Quan Phòng, như lời thánh Vinh Sơn Phaolô đã dạy. Về mặt tâm lý, tôi cùng anh em chia sẻ với tất cả những nỗi niềm của anh chị em qua những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống hằng ngày, vất vả kiếm cơm ăn áo mặc, thuốc thang, sách vở, hương nến thắp bàn thờ, giờ giấc, nơi chốn phụng tự… . Mà như phần trên đã nói, trần gian này đâu là thực sự vừa lòng toại ý! Phần riêng tôi, tôi vẫn không biết lấy gì mà tạ ơn Chúa đã ban cho tôi Ơn vô cùng lớn lao - là đã được Tin vui, tôi chỉ mong tất cả mọi người cũng được ơn như vậy, chẳng những được hạnh phúc đời sau, mà ngay đời này cũng được hưởng niềm vui hiện hữu (la Joie d’exister) nhờ ơn Sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa Tình Yêu ban cho nhưng không. Thánh Têrêsa Hài Đồng có nói rằng: lên Trời rồi Ngài vẫn không yên nghỉ, và vẫn góp sức vào việc làm cho mọi người biết đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, đang muốn đổ xuống tràn đầy cho ai vui lòng đón nhận, tôi chưa được hưởng phúc Thiên Đàng như ngài, nhưng đã được phúc biết Tin vui, tôi cũng chỉ có một nguyện vọng ấy mà thôi! Còn mọi sự khác, thì làm người ai chẳng muốn điều này, điều nọ; nhưng được thì cũng hay, không thì cũng chỉ là tương đối, mà biết đâu trong sự mầu nhiệm của thiên Chúa, không được lại càng hay hơn, mai sau về Trời mới rõ! Những ngày còn lại, tôi hoàn toàn phó thác trong Tay từ ái Quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu, theo tinh thần của Thánh Têrêsa Hài Đồng mà tôi vẫn tin là ngôi sao đã dắt dìu tôi qua bao nhiêu sóng gió để có ngày hôm nay sắp cập bến yên hàn.
Nói vậy, nhưng đó chỉ là nguyên tắc, là ước nguyện chứ trong thực tế, một cuộc đời như tôi khác nào như một dòng sông quả không biết bao nhiêu khúc, chảy tới không biết bao nhiêu vùng, đón nhận, giao tiếp với bao nhiêu nguồn tư tưởng, dính dự vào bao nhiêu sự việc, về mặt tâm lý, thật khác nào như một bát thập cẩm “tạp pí lù” mà trong ấy, Kitô-tính tuy là phần chủ yếu, là yếu tố tổng hợp, nhưng sự tổng hợp ấy chưa được hoàn toàn nhuần nhuyễn, đôi khi từng mảng vẫn rơi ra như sống biệt lập, gây xung khắc rối loạn nội tâm; có đôi lúc suy nghĩ, cảm xúc như một ông đồ nho, có đôi lúc gần như một kẻ nương náu cửa thiền, thỉnh thoảng lại gần như người trí thức tư sản vô tín ngưỡng, không hiếm khi tưởng như cán bộ xã hội chủ nghĩa. Và ngay trong Kitô-tính cũng không thuần nhất: khi thì hướng về lý tưởng “ẩn tu”, khi thì ao ước được trở thành một Gabriel Marcel chẳng hạn! Nói ra mà xấu hổ, có khi muốn là Linh mục, nhậm chí là giám mục nữa kia!!! Có lúc lại nghĩ rằng dòng họ mình chưa có ai là Công giáo, giá như mình có con cháu là Công giáo, thì sẽ có người mang họ Nguyễn - Khắc mà thờ phượng Chúa, phục vụ Hội thánh. Lắm lúc tâm tư như cả một chiến trường, các xu hướng lôi kéo đủ mọi nẻo! Rồi những vấn đề của xã hội, của Hội Thánh Việt Nam trong Xã hội chủ nghĩa, suy nghĩ về một nền Thần học Viễn đông, một kiểu tu thích hợp với văn hóa Việt Nam, với Xã hội chủ nghĩa. Thậm chí có lúc hoài nghi đến cả sự trung thực của niềm tin của bản thân mình (chứ không phải về giá trị Chân lý khách quan và Nội dung đức tin), đến vị trí của Kitô giáo trong lịch sử Nhân loại, nhất là sự căng thẳng giữa hai xu hướng nhập thế và siêu thăng, lịch sử tính và cánh chung tính. Rồi chính bản thân: miếng cơm manh áo, mái nhà, khi ốm đau, lúc nhắm mắt; lại thêm tương quan với gia đình, phường khóm, chính quyền địa phương, với xứ đạo với giáo phận, với các anh chị em tín hữu thuộc mọi loại khi họ đến thăm viếng trao đổi về đủ mọi vấn đề! Và nặng nề nhất là cái cảm thức đã lãng phí đời mình với bao nhiêu là Ân sủng Chúa ban cho về mọi mặt. Tính sổ lại suốt cuộc đời gần như một cuộc ngao du tài tử không có gì tệ mạt lắm, nhưng cũng không có đóng góp gì nên thân cho gia đình, đất nước và Hội Thánh cả! Gần 10 năm dạy Đại học mà cũng không có nổi một giáo trình biên soạn hoàn thành! Bây giờ còn nói chuyện mua vui một vài trống canh nữa! Xin các bạn đọc, ai là tín hữu Kitô, hãy thương tôi, ngừng lại cầu nguyện cho tôi để Chúa dủ lòng thương tha thứ; Chúa đã đặt vào tay tôi khá nhiều vốn liếng về mọi mặt, mà tôi đã lãng phí hoàn toàn! Nay tôi biết Chúa Quan phòng đầy xót thương, đã chẳng nỡ để tôi mất linh hồn, nhưng theo Chúa, đâu phải chỉ để khỏi mất linh hồn, mà để góp phần vào cơ nghiệp chung! Nếu không được trang bị bởi bài học hoàn toàn phó thác vào Tình yêu thương xót vô cùng của Thiên Chúa do Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu đã in sâu vào tâm khảm thì tôi đến phải ngã lòng!! Và nếu không tin vào sự che đậy nhờ Tà áo tuyết trinh của Đức Mẹ Maria, thì tôi chẳng biết còn mặt mũi nào mà ra trình diện Chúa giờ đây. Tôi càng ngày càng thấy sự sâu xa thấm. thía của lời kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Đó là mảng bè cuối cùng cứu vớt dành cho những tấm linh hồn đã chìm tận đáy sâu vực thẳm được ngoi lên. Có nhiều lúc tôi thấy lời kinh nào cũng không thành thực, chỉ có lời kêu cứu đến Đức Mẹ là còn chân tình. Và rõ ràng chỉ có Giá Máu cực trọng của Con Đức Chúa Trời mới đền bồi cân xứng mà thôi! Những tín điều trong sách bổn mà các em bé lên 10 đọc thuộc lòng, mãi đến nay tôi mới thấy là lời chân lý vàng ngọc, mọi suy tư biện luận chỉ là tiếng phèng la trống rỗng cho rộn ràng giảng đường lý thuyết trừu tượng và cảm xúc mau qua mà thôi! Bây giờ mới rõ Con Chiên gánh tội thiên hạ phải gánh những gì, và mình đã đặt lên vai Con Chiên ấy những gì. Chả trách nào Ngài phiền não đến toát mồ hôi máu, dưới bóng những cây dầu vườn Giệt-si-ma-ni! Và những lời suy niệm của Pascal bây giờ mới thật là hiểu thấu: “Chúa Giêsu quằn quại cho đến tận thế” và, “Hỡi con, Ta yêu hơn con mê đắm những điều gớm ghiếc ấy” – “Ta giành riêng giọt máu này cho con đó!”. Ôi, gánh nặng của một linh hồn lội lỗi! Chỉ có Tình yêu Thiên Chúa mới vác nổi mà thôi. Thì ra, cây thánh giá Ngài vác lên đỉnh núi Sọ chính là linh hồn của tôi đó mà thôi! cái cảm thức tội phạm về mặt thiêng liêng ấy kéo theo cái cảm thức tội phạm đối với gia đình và xã hội. Tôi đã rời bỏ gia đình, rời bỏ địa phương, trong một tình trạng không lấy gì làm vui tươi, đã gỡ mình khỏi mọi ràng buộc là để được tự do phụng sự Chúa trong một đời tu hành. Thế nhưng rồi lý tưởng tu hành không thực hiện được, chỉ suốt đời ngao du tài tử, thành ra sự tháo cởi khỏi ràng buộc gia đình và xã hội, chỉ là một sự trốn tránh! Do đó, sau năm 1975, gặp lại gia đình, gặp lại người cũ ở miền Bắc, tôi như bị đè nặng bởi một mặc cảm tội lỗi nào đó! Phụng sự Chúa cũng không! Phục vụ gia đình và xã hội cũng không! Và có lúc tôi nghĩ rằng thay vì nêu gương sáng đối với gia đình và người cũ ở miền Bắc, tôi đã làm gương xấu phần nào chăng? Và lắm lúc tôi có cảm tưởng những việc làm của tôi sau ‘75 phải chăng là – múa may quay cuồng, tìm bù trừ vớt vát một cách vô vọng, ví như tục ngữ có câu: “ăn năn thì sự đã rồi!”; “C’est trop tard, mon vieux!” – Có đáp lại “mieux vaut tard que jamais!”, thì cũng là vớt vát phần đuôi. Nếu không có gương người trộm lành được thứ tha vào phút chót, thì hai chữ “trop tard” làm sao cất nổi! Và rồi sẽ đến cái giây phút cuối cùng của đời tôi. Chỉ còn biết cầu xin Đức Mẹ như trong kinh kính Mừng để tôi còn được sáng suốt mượn lời hai vị thánh nữ Tê-rê-sa mà thưa lên với Chúa rằng: “Dù một mình con có phạm tất cả tội lỗi của Nhân loại, từ A-dam cho đến người cuối cùng, thì con cũng cứ sa vào lòng thương xót vô cùng vô tận vô biên của thiên Chúa! (Tê-rê-sa thành Li-di-ơ), và “Lạy Chúa, con chỉ là kẻ bội nghĩa bạc tình vong ân, đáng hư mất đời dời, nhưng điều an ủi con là con càng tệ bạc thì lại càng làm sáng tỏ rạng ngời lòng xót thương vô cùng vô tận vô biên của Chúa!” (Tê-rê-sa thành A-vi-la).
Và như vậy mai sau tôi cậy trông sẽ được cùng các vị như Ma-đa-lê-na, Marguerite Cortonne, Louise de la Vallière, Marie de Jésus (sáng lập dòng Cát-Minh Paris), mượn lời của chính Đức Nữ Đồng trinh Vô nhiễm mà rằng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…
Vì lòng xót thương của Người đến muôn thuở muôn đời!”
Sự kỳ diệu chính là chỗ ấy: những linh hồn tội lỗi ấy mà cuối cùng còn được cảm tạ tán dương Lòng thương xót Chúa chứ nói gì đến những linh hồn thánh thiện như Gio-an tông đồ, Tê-rê-sa thành Li-di-ơ, Cla-ra, Lu-i Gông-da-ga, Đa-minh Sa-vi-ô, Maria Gô-rét-ti…
Tất cả những dòng tôi viết lên đây cũng chỉ muốn làm chứng lỗi một điều này: như tôi mà còn được vậy, huống hồ là anh chị em đâu đến nỗi như tôi, xin hãy vững lòng tin tưởng cậy trông đến với Chúa Giêsu, đến với Mẹ Ngài, rồi Hai Đấng sẽ ban cho được yêu mến Ngài muôn thuở. Amen.
Như tôi dã trình bày trên kia, nếu năm l975, tôi không được đưa đi học tập cải tạo, thì tôi sẽ phục vụ Hội Thánh có lẽ là dưới hình thức một nhân viên của Tòa Giám Mục Đà Lạt (có thể là có chức linh mục, mà cũng có thể là dưới dạng thức “người nhà Đức Chúa Trời” theo kiểu các kẻ giảng thuở đầu tiên của Hội thánh Việt Nam). Nhưng việc tôi bị đưa đi học tập cải tạo làm xáo trộn hẳn những dự định của tôi. Thành ra tôi lại tiếp tục sống cuộc đời của một tín hữu “đơn độc”, với ít nhiều khao khát một đời sống thiêng liêng có nồng độ cao, thiên về chiêm niệm ngay giữa đời với bao nhiêu là nghịch cảnh. Tình cờ, tôi được thông dự với rất nhiều anh chị em tín hữu khác cũng rơi vào tình trạng tương tự, do những biến cố năm 75 mà ra. Hiện nay rất nhiều tâm hồn ở vào tình trạng “dang dở” như vậy, khác nào kẻ đi trong đêm tối, mà không biết bao giờ bình minh ló dạng. Chỉ có khác ở chỗ lôi gần như có một kinh nghiệm về tình trạng “dang dở” ấy kéo dài khá lâu, từ năm 1954, nghĩa là trên 20 năm đằng đẵng, còn các anh chị em ấy thì đột ngột bị rơi vào tình trạng ấy, tình trạng của một thành phần đông đảo của Dân Chúa, mà lại là một thành phần tạm gọi là khá “ưu tú”, dáng lẽ ra có những chức năng, những vị trí đáng kể trong việc phục vụ Hội Thánh cũng như xã hội. Sau nữa, mỗi khi có dịp gặp gỡ trao đổi, tôi cũng có được phần nào để đóng góp cùng các anh chị em đang chung một lối sống trong cảnh mịt mù lạc lõng ấy. Có thể tạm ví như tôi là một kẻ lữ hành dã dầy dạn gió sượng, nay hoàn cảnh đưa đẩy, trên con đường lữ thứ bỗng gặp một số anh chị em đột xuất bị hất ra giữa dặm trường mưa gió, chưa quen đối phó với cảnh lang thang lạc lõng bơ vơ, thì trước hết là “đồng cảnh tương thân”, cùng cảm thông chia sẻ, sau là cố gắng trao lại những bài học đã thâu nhận được trên 20 năm qua giữa cuộc đời “một mình”, “lạc lõng”, “bơ vơ”, nhưng không đến nỗi sa chìm lạc lối. Và rồi, tự nhiên trong đáy tâm hồn tôi như có một cái gì vô cùng an ổn, có một cái gì như được triển nở âm thầm, rất kín đáo, rất e dè ngượng ngập, nhưng khá êm ả tươi mát an vui.
Đời “cư sĩ” vô danh về qui ước, về thể chế; chưa dám gọi là đời “độc tu”, vì không có cái ràng buộc chặt chẽ hiến dâng, với sự chấp thuận của Giáo quyền chính thức; nhưng có dáng dấp một đời tu được cộng đoàn nói chung nhìn thấy và tán đồng một cách mặc nhiên, với một tác dụng “chứng tá” tiềm tàng, bàng bạc, vô hình, có một sức gợi ý (suggestif) và mời gọi nào đó, ngay cả đối với những anh chị em ngoại giáo (kể cả những anh chị em xa, rất xa về nhân sinh - vũ trụ quan) vẫn có một tác dụng như một câu hỏi được dặt ra. Cái giấc mơ “am mây”, “lều cỏ”, với một “thiền sư”, “đạo sĩ” dưa muối nâu sồng, tuy không thực hiện được một cách cụ thể về hình thức, nhưng hình như thoang thoảng phảng phất vẽ lên được vài nét thoáng qua, như một sự mò mẫm tìm kiếm ướm thử, như một bản nháp, còn nguệch ngoạc lem nhem, nhưng có thể dần dần hiện lên vài nét rõ ràng, tuy chưa xác định hẳn!
Đôi lúc tôi thấy như một làn gió nhẹ thoảng qua với một đốm lứa lóe lên tận dáy tâm hồn, mà tự hỏi: phải chăng 20 năm dang dở, do sự tái tạo toàn năng của Thiên Chúa, lại trở nên như 20 năm tìm lối đường? Một cái gì còn dang dở chưa thành, nhưng không phải không có khả năng có được người tiếp tục dể sẽ thành. Nếu ví hồn tôi như một tổ chim, thì tàn gió ấy, đốm lửa ấy có cái gì mong manh, bấp bênh, có phần non yếu, như một chú chim mới nở, yếu ớt ngại gió sương, e có khả năng gặp nhiều điều không thuận lợi bên cạnh những chờ mong hứa hẹn, không có gì là bảo đảm chắc chắn trăm phần trăm! Đôi lúc nhìn lại đời tôi, tôi thấy như một gốc cây tàn tạ… nhưng rồi hình như bên một cành nách nào đó, hình như, chỉ hình như thôi, có một mầm non rất yếu ớt dang như có khả năng nứt chồi, với rất nhiều đe dọa bị héo khô, nhưng cũng có khả năng tăng trưởng; và nghe đâu đây có tiếng nhè nhẹ nứt mầm như vậy ở nhiều gốc cây khác, chưa tàn tạ, nhưng bị chặt ngang hông một cách phũ phàng trong lúc còn vươn lên đầy nhựa sống! Gốc cây tàn tạ, có giúp gì được cho những thân cây vững chắc bị chặt ngang lưng một cách thô bạo phũ phàng chăng? Trăm sự cũng nhờ Lượng Thánh trên ban!
Sau 30 năm xa cách, mẹ tôi đã phần nào nhìn thấy nơi tôi hình ảnh của người con lưu lạc trở về gặp mẹ, khi đầu đã có tóc hoa râm! Còn cha linh hồn của tôi khi tôi ở Pháp trở về Việt Nam, ngài liên tưởng đến Benoit Joesph Labre! Hai hình ảnh rất khác xa nhau: một bên là lưu lạc giang hồ nơi chốn bùn nhơ; một bên là hiến dâng cuộc đời hành hương khắp các nơi Thánh địa, với tâm hồn gần như băng tuyết! Tự kiểm lại đời mình, tôi nghĩ rằng có thể mẹ tôi, người mẹ thể xác, Anh sáng đức tin, nhưng đã thấy rõ được bản chất “lưu lạc giang hồ” giữa chốn bùn nhơ của đứa con lãng tử. Đó là xuất xứ của cái “tôi” đầy tội lỗi từ trong lòng mẹ như lời Thánh vịnh 50! Còn linh mục Pacifique Bình An, con cái vị Thánh khó nghèo, đã nhìn tôi xuyên qua cặp kính thánh thiện của ngài như ban phép giải tội, làm ngơ, xóa nhòa những vết bùn nhơ hoen ố, mà cố tìm cho ra những nét nào khả dĩ thâu nhận được vào kho lẫm muôn đời, nên đã phóng lên cái tấm màn rách nát hoen ố là thực tế đời tôi - cái hình ảnh tuyệt vời - của vị Thánh hành hương khất sĩ, như ban cho tôi lời kêu gọi cổ vũ, nâng đỡ khích lệ, an ủi, xoa dịu, như lời bà mẹ hiền vừa tắm rửa cái thân đầy ghẻ chốc của con mình, vừa an ủi: “Cố lên, mai sau khôn lớn con sẽ được trở nên cường tráng, lành mạnh!
Bên cạnh bà chị đã dạy cho tôi bài học phó thác vô điều kiện từ năm ‘75 đến nay, hình ảnh Thánh Benoit Joseph Labre hiện lên trong tâm tư tôi, như một sự phù trợ, một đỉnh non cao chót vót để cho tôi có nơi mà ngước mắt, trông lên, mặc dầu chân còn lún sâu dưới bùn lầy của vực thẳm. Ít nhất cũng có chỗ mà ngước mắt trông lên, trông lên như một lời tha thiết kêu cầu từ đáy vực sâu, như một sự cậy trông: Thánh nhân bầu cử cho mai sau, được đứng vào hàng cùng rốt của những kẻ đui què, mẻ sứt, la lết bên lề đường đầy bụi bặm rác rến, bỗng được người của Nhà vua gọi vào dự tiệc. Nhưng rồi áo đẹp ở đâu? Áo đẹp nào đáng để che đi cái thân cùi hủi hoen ố lở lói này? Áo ở đâu? Tôi bỗng sực nhớ, ngày 09-01-1949, sau khi tôi chịu phép rửa, cha xứ Nghĩa Yên đã khoác vào đầu tôi chiếc áo Đức Bà núi Cát Minh, mà nói: “Mặc áo này, con sẽ được ơn chết lành”. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng là nữ tu dòng Đức Bà núi Cát Minh! Tôi tin rằng tà áo của Đức Mẹ sẽ phủ lên hồn tôi khi ra trước mặt Chúa để nhận phép lành, như Gia-cóp đã nhờ mẹ cực khôn cực ngoan lấy da bọc lên mình để nhận phép lành của cha mình vậy. Và đi ngược dòng lịch sử, hình như suốt 2000 năm lịch sử Hội Thánh, không phải không có một dòng nước thiêng liêng theo dạng lờ mờ phảng phất tiềm tàng như vậy, mà những bông hoa trổi trang nhất là thánh Duon (thế kỷ l2), thánh Roch (tk l3), Thánh B. J. Labre (tk l8), và xa xưa có thể kể tên tiên tri Yê-rê-mi-a, Ê-li-a và trên hết là tổ phụ A-bra-ham, suốt đời lưu lạc, từ khi rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn ở đất Lưỡng Hà! Lạc lõng, bơ vơ. Lữ hành, dang dở, nửa vời. Có thể chăng đây cũng là một khía cạnh nào đó chắt chiu trong cái thời đại mà hầu như không có lối, phải chăng đây cũng là một khía cạnh của chính Tình Xót Thương vô cùng của chính Tình yêu Thiên Chúa tái tạo? Và trong cái thời đại mà Nhân loại hầu như cũng lơ vơ lạc lõng giữa trăm ngàn vạn nẻo đường dường như không có lối, và phải chăng như thế cũng là một cách để thông dự “bước phong trần” chung? “Bắt phong trần phải phong trần!” đường đời gió bụi có một lữ hành hát bài “Kẻ lưu đày” của Lamennais (Emile): có thể chỉ là dạng của kiếp người muôn thuở. Trên đường lữ thứ ấy, rồi chỉ còn dấu chân lạc lõng in lại trên cát bụi, chỉ trong chốc lát, rồi gió cuốn mưa sa sẽ xoá nhòa không dấu vết!
Năm 1985, trong một cuộc tái ngộ của một số anh em bè bạn tụ họp sau gần 10 năm ly tán, trong tiếng đàn nhạc vui buồn, đáp lời yêu cầu của các bạn, tôi đã ngâm mấy câu thơ sau đây:
Trái tim Mẹ là chiếc thuyền bát nhã
Vớt hồn con phiêu bạt biển trầm luân,
Trái tim Mẹ là trùng dương bát ngát
Nơi chảy về muôn suối lệ của trần gian,
Trái tim Mẹ là ngọc tuyền lai láng
Nước cam lộ xoa dịu mảnh hồn đau,
Trái tim Mẹ là nguyện đường mầu nhiệm
Nơi hồn con chiêm ngưỡng Chúa Tình Yêu.
Mẹ là chiếc mâm vàng đôi đũa ngọc,
Con là hoa hèn cỏ mọn tiến dâng lên.
Và cỏ mọn hoa hèn nên đẹp mắt
Đấng muôn trùng khứng nhận đời con!
“Kể chuyện đời mình” nói là mua vui một vài trống canh, nhưng trong thâm tâm là gói ghém cỏ mọn hoa hèn, liều lĩnh đặt vào chiếc mâm vàng có đôi đũa ngọc, với lòng cậy trông sẽ được Đấng Muôn Trùng khứng nhận trong Lượng thương xót vô cùng vô tận vô biên. Amen.
Năm 1983, vì tôi hay đau yếu, các anh ở Ủy ban Khoa học Kỹ thuật cho tôi được tìm cách chuyển công tác về miền xuôi: sau một thời gian tưởng như có khả năng phục vụ tại Đại học Sư phạm Tp. HCM hoặc Huế, nhưng cuối cùng không thành, tôi lại tiếp tục ở Ủy Ban Khoa học Kỹ Thuật, cho đến ngày 28-2-86 thì được nghỉ hưu và tôi lấy quyết định ở lại Đà lạt, cơ quan chấp nhận cho tôi tiếp tục cư trú tại gian phòng dành cho tôi tại khu tập thể của cơ quan, tọa lạc tại số nhà 32 A Đào Duy từ, phường Đà Lạt là nơi tôi ghi những dòng “hồi ký” này. Một sự tình cờ đưa tôi đến chỗ được một sinh viên cũ (cũng làm nghề dạy học và cùng được nghỉ việc cùng lúc) dành cho tôi vài băng đất nơi miếng rẫy của anh, tại ấp Tân Thành, phường 2, ở dưới một thung lũng cuối đường 3 tháng 4, dầu dốc đèo Prenn, phía tay trái, quốc lộ 20 (kể từ Đà lạt đi xuống). Tôi trồng cà phê, hồng, táo, dâu, rau và một ao cá, một giàn su su, chuẩn bị an hưởng tuổi già.
Cuộc đời của tôi như thế là kết thúc khá êm ả nhẹ nhàng: một viên chức về hưu, ngày ngày đi lễ đọc kinh, đi lại thăm viếng anh em thân thuộc trong cảnh đạm bạc nhưng an bình. Có trà dư tửu hậu thì làm thơ nói chuyện đời (như kiểu bình luận Tam Quốc), chuyện đạo, chuyện triết học, văn chương, thảnh thơi thơ túi rượu bầu! (rượu thì không có, chỉ có nước chè xanh do người bạn vãn niên là anh Phạm Phú Thành, trước là giáo viên trường Trần Hưng Đạo, nay thì làm cùng cơ quan, thỉnh thoảng cho vài nắm nấu uống, có đường thì cho đường, hay cho cà phê mà gần đây giá tăng lên vùn vụt).
Về phần cá nhân, tôi tự thấy mình quả được đầy đủ về mọi mặt, từ vật chất đến thiêng liêng! Nhưng, cùng sống với đồng bào, với anh em tín hữu, tôi thông dự với tất cả những nỗi niềm của họ trong sự hiệp thông của tình người, tình đồng bào, tình đồng đạo. Những vui buồn, mong ước, khát vọng của họ, tôi đều thông dự sâu xa, ngày đêm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết với sự kiên trì trông đợi. Dù sao thì tất cả đều là Ân sủng, và chúng ta không thể đòi đi bước trước, trước đường lối của Chúa Quan Phòng, như lời thánh Vinh Sơn Phaolô đã dạy. Về mặt tâm lý, tôi cùng anh em chia sẻ với tất cả những nỗi niềm của anh chị em qua những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống hằng ngày, vất vả kiếm cơm ăn áo mặc, thuốc thang, sách vở, hương nến thắp bàn thờ, giờ giấc, nơi chốn phụng tự… . Mà như phần trên đã nói, trần gian này đâu là thực sự vừa lòng toại ý! Phần riêng tôi, tôi vẫn không biết lấy gì mà tạ ơn Chúa đã ban cho tôi Ơn vô cùng lớn lao - là đã được Tin vui, tôi chỉ mong tất cả mọi người cũng được ơn như vậy, chẳng những được hạnh phúc đời sau, mà ngay đời này cũng được hưởng niềm vui hiện hữu (la Joie d’exister) nhờ ơn Sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa Tình Yêu ban cho nhưng không. Thánh Têrêsa Hài Đồng có nói rằng: lên Trời rồi Ngài vẫn không yên nghỉ, và vẫn góp sức vào việc làm cho mọi người biết đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, đang muốn đổ xuống tràn đầy cho ai vui lòng đón nhận, tôi chưa được hưởng phúc Thiên Đàng như ngài, nhưng đã được phúc biết Tin vui, tôi cũng chỉ có một nguyện vọng ấy mà thôi! Còn mọi sự khác, thì làm người ai chẳng muốn điều này, điều nọ; nhưng được thì cũng hay, không thì cũng chỉ là tương đối, mà biết đâu trong sự mầu nhiệm của thiên Chúa, không được lại càng hay hơn, mai sau về Trời mới rõ! Những ngày còn lại, tôi hoàn toàn phó thác trong Tay từ ái Quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu, theo tinh thần của Thánh Têrêsa Hài Đồng mà tôi vẫn tin là ngôi sao đã dắt dìu tôi qua bao nhiêu sóng gió để có ngày hôm nay sắp cập bến yên hàn.
Nói vậy, nhưng đó chỉ là nguyên tắc, là ước nguyện chứ trong thực tế, một cuộc đời như tôi khác nào như một dòng sông quả không biết bao nhiêu khúc, chảy tới không biết bao nhiêu vùng, đón nhận, giao tiếp với bao nhiêu nguồn tư tưởng, dính dự vào bao nhiêu sự việc, về mặt tâm lý, thật khác nào như một bát thập cẩm “tạp pí lù” mà trong ấy, Kitô-tính tuy là phần chủ yếu, là yếu tố tổng hợp, nhưng sự tổng hợp ấy chưa được hoàn toàn nhuần nhuyễn, đôi khi từng mảng vẫn rơi ra như sống biệt lập, gây xung khắc rối loạn nội tâm; có đôi lúc suy nghĩ, cảm xúc như một ông đồ nho, có đôi lúc gần như một kẻ nương náu cửa thiền, thỉnh thoảng lại gần như người trí thức tư sản vô tín ngưỡng, không hiếm khi tưởng như cán bộ xã hội chủ nghĩa. Và ngay trong Kitô-tính cũng không thuần nhất: khi thì hướng về lý tưởng “ẩn tu”, khi thì ao ước được trở thành một Gabriel Marcel chẳng hạn! Nói ra mà xấu hổ, có khi muốn là Linh mục, nhậm chí là giám mục nữa kia!!! Có lúc lại nghĩ rằng dòng họ mình chưa có ai là Công giáo, giá như mình có con cháu là Công giáo, thì sẽ có người mang họ Nguyễn - Khắc mà thờ phượng Chúa, phục vụ Hội thánh. Lắm lúc tâm tư như cả một chiến trường, các xu hướng lôi kéo đủ mọi nẻo! Rồi những vấn đề của xã hội, của Hội Thánh Việt Nam trong Xã hội chủ nghĩa, suy nghĩ về một nền Thần học Viễn đông, một kiểu tu thích hợp với văn hóa Việt Nam, với Xã hội chủ nghĩa. Thậm chí có lúc hoài nghi đến cả sự trung thực của niềm tin của bản thân mình (chứ không phải về giá trị Chân lý khách quan và Nội dung đức tin), đến vị trí của Kitô giáo trong lịch sử Nhân loại, nhất là sự căng thẳng giữa hai xu hướng nhập thế và siêu thăng, lịch sử tính và cánh chung tính. Rồi chính bản thân: miếng cơm manh áo, mái nhà, khi ốm đau, lúc nhắm mắt; lại thêm tương quan với gia đình, phường khóm, chính quyền địa phương, với xứ đạo với giáo phận, với các anh chị em tín hữu thuộc mọi loại khi họ đến thăm viếng trao đổi về đủ mọi vấn đề! Và nặng nề nhất là cái cảm thức đã lãng phí đời mình với bao nhiêu là Ân sủng Chúa ban cho về mọi mặt. Tính sổ lại suốt cuộc đời gần như một cuộc ngao du tài tử không có gì tệ mạt lắm, nhưng cũng không có đóng góp gì nên thân cho gia đình, đất nước và Hội Thánh cả! Gần 10 năm dạy Đại học mà cũng không có nổi một giáo trình biên soạn hoàn thành! Bây giờ còn nói chuyện mua vui một vài trống canh nữa! Xin các bạn đọc, ai là tín hữu Kitô, hãy thương tôi, ngừng lại cầu nguyện cho tôi để Chúa dủ lòng thương tha thứ; Chúa đã đặt vào tay tôi khá nhiều vốn liếng về mọi mặt, mà tôi đã lãng phí hoàn toàn! Nay tôi biết Chúa Quan phòng đầy xót thương, đã chẳng nỡ để tôi mất linh hồn, nhưng theo Chúa, đâu phải chỉ để khỏi mất linh hồn, mà để góp phần vào cơ nghiệp chung! Nếu không được trang bị bởi bài học hoàn toàn phó thác vào Tình yêu thương xót vô cùng của Thiên Chúa do Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu đã in sâu vào tâm khảm thì tôi đến phải ngã lòng!! Và nếu không tin vào sự che đậy nhờ Tà áo tuyết trinh của Đức Mẹ Maria, thì tôi chẳng biết còn mặt mũi nào mà ra trình diện Chúa giờ đây. Tôi càng ngày càng thấy sự sâu xa thấm. thía của lời kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Đó là mảng bè cuối cùng cứu vớt dành cho những tấm linh hồn đã chìm tận đáy sâu vực thẳm được ngoi lên. Có nhiều lúc tôi thấy lời kinh nào cũng không thành thực, chỉ có lời kêu cứu đến Đức Mẹ là còn chân tình. Và rõ ràng chỉ có Giá Máu cực trọng của Con Đức Chúa Trời mới đền bồi cân xứng mà thôi! Những tín điều trong sách bổn mà các em bé lên 10 đọc thuộc lòng, mãi đến nay tôi mới thấy là lời chân lý vàng ngọc, mọi suy tư biện luận chỉ là tiếng phèng la trống rỗng cho rộn ràng giảng đường lý thuyết trừu tượng và cảm xúc mau qua mà thôi! Bây giờ mới rõ Con Chiên gánh tội thiên hạ phải gánh những gì, và mình đã đặt lên vai Con Chiên ấy những gì. Chả trách nào Ngài phiền não đến toát mồ hôi máu, dưới bóng những cây dầu vườn Giệt-si-ma-ni! Và những lời suy niệm của Pascal bây giờ mới thật là hiểu thấu: “Chúa Giêsu quằn quại cho đến tận thế” và, “Hỡi con, Ta yêu hơn con mê đắm những điều gớm ghiếc ấy” – “Ta giành riêng giọt máu này cho con đó!”. Ôi, gánh nặng của một linh hồn lội lỗi! Chỉ có Tình yêu Thiên Chúa mới vác nổi mà thôi. Thì ra, cây thánh giá Ngài vác lên đỉnh núi Sọ chính là linh hồn của tôi đó mà thôi! cái cảm thức tội phạm về mặt thiêng liêng ấy kéo theo cái cảm thức tội phạm đối với gia đình và xã hội. Tôi đã rời bỏ gia đình, rời bỏ địa phương, trong một tình trạng không lấy gì làm vui tươi, đã gỡ mình khỏi mọi ràng buộc là để được tự do phụng sự Chúa trong một đời tu hành. Thế nhưng rồi lý tưởng tu hành không thực hiện được, chỉ suốt đời ngao du tài tử, thành ra sự tháo cởi khỏi ràng buộc gia đình và xã hội, chỉ là một sự trốn tránh! Do đó, sau năm 1975, gặp lại gia đình, gặp lại người cũ ở miền Bắc, tôi như bị đè nặng bởi một mặc cảm tội lỗi nào đó! Phụng sự Chúa cũng không! Phục vụ gia đình và xã hội cũng không! Và có lúc tôi nghĩ rằng thay vì nêu gương sáng đối với gia đình và người cũ ở miền Bắc, tôi đã làm gương xấu phần nào chăng? Và lắm lúc tôi có cảm tưởng những việc làm của tôi sau ‘75 phải chăng là – múa may quay cuồng, tìm bù trừ vớt vát một cách vô vọng, ví như tục ngữ có câu: “ăn năn thì sự đã rồi!”; “C’est trop tard, mon vieux!” – Có đáp lại “mieux vaut tard que jamais!”, thì cũng là vớt vát phần đuôi. Nếu không có gương người trộm lành được thứ tha vào phút chót, thì hai chữ “trop tard” làm sao cất nổi! Và rồi sẽ đến cái giây phút cuối cùng của đời tôi. Chỉ còn biết cầu xin Đức Mẹ như trong kinh kính Mừng để tôi còn được sáng suốt mượn lời hai vị thánh nữ Tê-rê-sa mà thưa lên với Chúa rằng: “Dù một mình con có phạm tất cả tội lỗi của Nhân loại, từ A-dam cho đến người cuối cùng, thì con cũng cứ sa vào lòng thương xót vô cùng vô tận vô biên của thiên Chúa! (Tê-rê-sa thành Li-di-ơ), và “Lạy Chúa, con chỉ là kẻ bội nghĩa bạc tình vong ân, đáng hư mất đời dời, nhưng điều an ủi con là con càng tệ bạc thì lại càng làm sáng tỏ rạng ngời lòng xót thương vô cùng vô tận vô biên của Chúa!” (Tê-rê-sa thành A-vi-la).
Và như vậy mai sau tôi cậy trông sẽ được cùng các vị như Ma-đa-lê-na, Marguerite Cortonne, Louise de la Vallière, Marie de Jésus (sáng lập dòng Cát-Minh Paris), mượn lời của chính Đức Nữ Đồng trinh Vô nhiễm mà rằng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…
Vì lòng xót thương của Người đến muôn thuở muôn đời!”
Sự kỳ diệu chính là chỗ ấy: những linh hồn tội lỗi ấy mà cuối cùng còn được cảm tạ tán dương Lòng thương xót Chúa chứ nói gì đến những linh hồn thánh thiện như Gio-an tông đồ, Tê-rê-sa thành Li-di-ơ, Cla-ra, Lu-i Gông-da-ga, Đa-minh Sa-vi-ô, Maria Gô-rét-ti…
Tất cả những dòng tôi viết lên đây cũng chỉ muốn làm chứng lỗi một điều này: như tôi mà còn được vậy, huống hồ là anh chị em đâu đến nỗi như tôi, xin hãy vững lòng tin tưởng cậy trông đến với Chúa Giêsu, đến với Mẹ Ngài, rồi Hai Đấng sẽ ban cho được yêu mến Ngài muôn thuở. Amen.
Như tôi dã trình bày trên kia, nếu năm l975, tôi không được đưa đi học tập cải tạo, thì tôi sẽ phục vụ Hội Thánh có lẽ là dưới hình thức một nhân viên của Tòa Giám Mục Đà Lạt (có thể là có chức linh mục, mà cũng có thể là dưới dạng thức “người nhà Đức Chúa Trời” theo kiểu các kẻ giảng thuở đầu tiên của Hội thánh Việt Nam). Nhưng việc tôi bị đưa đi học tập cải tạo làm xáo trộn hẳn những dự định của tôi. Thành ra tôi lại tiếp tục sống cuộc đời của một tín hữu “đơn độc”, với ít nhiều khao khát một đời sống thiêng liêng có nồng độ cao, thiên về chiêm niệm ngay giữa đời với bao nhiêu là nghịch cảnh. Tình cờ, tôi được thông dự với rất nhiều anh chị em tín hữu khác cũng rơi vào tình trạng tương tự, do những biến cố năm 75 mà ra. Hiện nay rất nhiều tâm hồn ở vào tình trạng “dang dở” như vậy, khác nào kẻ đi trong đêm tối, mà không biết bao giờ bình minh ló dạng. Chỉ có khác ở chỗ lôi gần như có một kinh nghiệm về tình trạng “dang dở” ấy kéo dài khá lâu, từ năm 1954, nghĩa là trên 20 năm đằng đẵng, còn các anh chị em ấy thì đột ngột bị rơi vào tình trạng ấy, tình trạng của một thành phần đông đảo của Dân Chúa, mà lại là một thành phần tạm gọi là khá “ưu tú”, dáng lẽ ra có những chức năng, những vị trí đáng kể trong việc phục vụ Hội Thánh cũng như xã hội. Sau nữa, mỗi khi có dịp gặp gỡ trao đổi, tôi cũng có được phần nào để đóng góp cùng các anh chị em đang chung một lối sống trong cảnh mịt mù lạc lõng ấy. Có thể tạm ví như tôi là một kẻ lữ hành dã dầy dạn gió sượng, nay hoàn cảnh đưa đẩy, trên con đường lữ thứ bỗng gặp một số anh chị em đột xuất bị hất ra giữa dặm trường mưa gió, chưa quen đối phó với cảnh lang thang lạc lõng bơ vơ, thì trước hết là “đồng cảnh tương thân”, cùng cảm thông chia sẻ, sau là cố gắng trao lại những bài học đã thâu nhận được trên 20 năm qua giữa cuộc đời “một mình”, “lạc lõng”, “bơ vơ”, nhưng không đến nỗi sa chìm lạc lối. Và rồi, tự nhiên trong đáy tâm hồn tôi như có một cái gì vô cùng an ổn, có một cái gì như được triển nở âm thầm, rất kín đáo, rất e dè ngượng ngập, nhưng khá êm ả tươi mát an vui.
Đời “cư sĩ” vô danh về qui ước, về thể chế; chưa dám gọi là đời “độc tu”, vì không có cái ràng buộc chặt chẽ hiến dâng, với sự chấp thuận của Giáo quyền chính thức; nhưng có dáng dấp một đời tu được cộng đoàn nói chung nhìn thấy và tán đồng một cách mặc nhiên, với một tác dụng “chứng tá” tiềm tàng, bàng bạc, vô hình, có một sức gợi ý (suggestif) và mời gọi nào đó, ngay cả đối với những anh chị em ngoại giáo (kể cả những anh chị em xa, rất xa về nhân sinh - vũ trụ quan) vẫn có một tác dụng như một câu hỏi được dặt ra. Cái giấc mơ “am mây”, “lều cỏ”, với một “thiền sư”, “đạo sĩ” dưa muối nâu sồng, tuy không thực hiện được một cách cụ thể về hình thức, nhưng hình như thoang thoảng phảng phất vẽ lên được vài nét thoáng qua, như một sự mò mẫm tìm kiếm ướm thử, như một bản nháp, còn nguệch ngoạc lem nhem, nhưng có thể dần dần hiện lên vài nét rõ ràng, tuy chưa xác định hẳn!
Đôi lúc tôi thấy như một làn gió nhẹ thoảng qua với một đốm lứa lóe lên tận dáy tâm hồn, mà tự hỏi: phải chăng 20 năm dang dở, do sự tái tạo toàn năng của Thiên Chúa, lại trở nên như 20 năm tìm lối đường? Một cái gì còn dang dở chưa thành, nhưng không phải không có khả năng có được người tiếp tục dể sẽ thành. Nếu ví hồn tôi như một tổ chim, thì tàn gió ấy, đốm lửa ấy có cái gì mong manh, bấp bênh, có phần non yếu, như một chú chim mới nở, yếu ớt ngại gió sương, e có khả năng gặp nhiều điều không thuận lợi bên cạnh những chờ mong hứa hẹn, không có gì là bảo đảm chắc chắn trăm phần trăm! Đôi lúc nhìn lại đời tôi, tôi thấy như một gốc cây tàn tạ… nhưng rồi hình như bên một cành nách nào đó, hình như, chỉ hình như thôi, có một mầm non rất yếu ớt dang như có khả năng nứt chồi, với rất nhiều đe dọa bị héo khô, nhưng cũng có khả năng tăng trưởng; và nghe đâu đây có tiếng nhè nhẹ nứt mầm như vậy ở nhiều gốc cây khác, chưa tàn tạ, nhưng bị chặt ngang hông một cách phũ phàng trong lúc còn vươn lên đầy nhựa sống! Gốc cây tàn tạ, có giúp gì được cho những thân cây vững chắc bị chặt ngang lưng một cách thô bạo phũ phàng chăng? Trăm sự cũng nhờ Lượng Thánh trên ban!
Sau 30 năm xa cách, mẹ tôi đã phần nào nhìn thấy nơi tôi hình ảnh của người con lưu lạc trở về gặp mẹ, khi đầu đã có tóc hoa râm! Còn cha linh hồn của tôi khi tôi ở Pháp trở về Việt Nam, ngài liên tưởng đến Benoit Joesph Labre! Hai hình ảnh rất khác xa nhau: một bên là lưu lạc giang hồ nơi chốn bùn nhơ; một bên là hiến dâng cuộc đời hành hương khắp các nơi Thánh địa, với tâm hồn gần như băng tuyết! Tự kiểm lại đời mình, tôi nghĩ rằng có thể mẹ tôi, người mẹ thể xác, Anh sáng đức tin, nhưng đã thấy rõ được bản chất “lưu lạc giang hồ” giữa chốn bùn nhơ của đứa con lãng tử. Đó là xuất xứ của cái “tôi” đầy tội lỗi từ trong lòng mẹ như lời Thánh vịnh 50! Còn linh mục Pacifique Bình An, con cái vị Thánh khó nghèo, đã nhìn tôi xuyên qua cặp kính thánh thiện của ngài như ban phép giải tội, làm ngơ, xóa nhòa những vết bùn nhơ hoen ố, mà cố tìm cho ra những nét nào khả dĩ thâu nhận được vào kho lẫm muôn đời, nên đã phóng lên cái tấm màn rách nát hoen ố là thực tế đời tôi - cái hình ảnh tuyệt vời - của vị Thánh hành hương khất sĩ, như ban cho tôi lời kêu gọi cổ vũ, nâng đỡ khích lệ, an ủi, xoa dịu, như lời bà mẹ hiền vừa tắm rửa cái thân đầy ghẻ chốc của con mình, vừa an ủi: “Cố lên, mai sau khôn lớn con sẽ được trở nên cường tráng, lành mạnh!
Bên cạnh bà chị đã dạy cho tôi bài học phó thác vô điều kiện từ năm ‘75 đến nay, hình ảnh Thánh Benoit Joseph Labre hiện lên trong tâm tư tôi, như một sự phù trợ, một đỉnh non cao chót vót để cho tôi có nơi mà ngước mắt, trông lên, mặc dầu chân còn lún sâu dưới bùn lầy của vực thẳm. Ít nhất cũng có chỗ mà ngước mắt trông lên, trông lên như một lời tha thiết kêu cầu từ đáy vực sâu, như một sự cậy trông: Thánh nhân bầu cử cho mai sau, được đứng vào hàng cùng rốt của những kẻ đui què, mẻ sứt, la lết bên lề đường đầy bụi bặm rác rến, bỗng được người của Nhà vua gọi vào dự tiệc. Nhưng rồi áo đẹp ở đâu? Áo đẹp nào đáng để che đi cái thân cùi hủi hoen ố lở lói này? Áo ở đâu? Tôi bỗng sực nhớ, ngày 09-01-1949, sau khi tôi chịu phép rửa, cha xứ Nghĩa Yên đã khoác vào đầu tôi chiếc áo Đức Bà núi Cát Minh, mà nói: “Mặc áo này, con sẽ được ơn chết lành”. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng là nữ tu dòng Đức Bà núi Cát Minh! Tôi tin rằng tà áo của Đức Mẹ sẽ phủ lên hồn tôi khi ra trước mặt Chúa để nhận phép lành, như Gia-cóp đã nhờ mẹ cực khôn cực ngoan lấy da bọc lên mình để nhận phép lành của cha mình vậy. Và đi ngược dòng lịch sử, hình như suốt 2000 năm lịch sử Hội Thánh, không phải không có một dòng nước thiêng liêng theo dạng lờ mờ phảng phất tiềm tàng như vậy, mà những bông hoa trổi trang nhất là thánh Duon (thế kỷ l2), thánh Roch (tk l3), Thánh B. J. Labre (tk l8), và xa xưa có thể kể tên tiên tri Yê-rê-mi-a, Ê-li-a và trên hết là tổ phụ A-bra-ham, suốt đời lưu lạc, từ khi rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn ở đất Lưỡng Hà! Lạc lõng, bơ vơ. Lữ hành, dang dở, nửa vời. Có thể chăng đây cũng là một khía cạnh nào đó chắt chiu trong cái thời đại mà hầu như không có lối, phải chăng đây cũng là một khía cạnh của chính Tình Xót Thương vô cùng của chính Tình yêu Thiên Chúa tái tạo? Và trong cái thời đại mà Nhân loại hầu như cũng lơ vơ lạc lõng giữa trăm ngàn vạn nẻo đường dường như không có lối, và phải chăng như thế cũng là một cách để thông dự “bước phong trần” chung? “Bắt phong trần phải phong trần!” đường đời gió bụi có một lữ hành hát bài “Kẻ lưu đày” của Lamennais (Emile): có thể chỉ là dạng của kiếp người muôn thuở. Trên đường lữ thứ ấy, rồi chỉ còn dấu chân lạc lõng in lại trên cát bụi, chỉ trong chốc lát, rồi gió cuốn mưa sa sẽ xoá nhòa không dấu vết!
Năm 1985, trong một cuộc tái ngộ của một số anh em bè bạn tụ họp sau gần 10 năm ly tán, trong tiếng đàn nhạc vui buồn, đáp lời yêu cầu của các bạn, tôi đã ngâm mấy câu thơ sau đây:
Trái tim Mẹ là chiếc thuyền bát nhã
Vớt hồn con phiêu bạt biển trầm luân,
Trái tim Mẹ là trùng dương bát ngát
Nơi chảy về muôn suối lệ của trần gian,
Trái tim Mẹ là ngọc tuyền lai láng
Nước cam lộ xoa dịu mảnh hồn đau,
Trái tim Mẹ là nguyện đường mầu nhiệm
Nơi hồn con chiêm ngưỡng Chúa Tình Yêu.
Mẹ là chiếc mâm vàng đôi đũa ngọc,
Con là hoa hèn cỏ mọn tiến dâng lên.
Và cỏ mọn hoa hèn nên đẹp mắt
Đấng muôn trùng khứng nhận đời con!
“Kể chuyện đời mình” nói là mua vui một vài trống canh, nhưng trong thâm tâm là gói ghém cỏ mọn hoa hèn, liều lĩnh đặt vào chiếc mâm vàng có đôi đũa ngọc, với lòng cậy trông sẽ được Đấng Muôn Trùng khứng nhận trong Lượng thương xót vô cùng vô tận vô biên. Amen.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |