Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
13. TRONG BỘ ĐỒ LÍNH
Thế rồi, đùng một cái tôi và một thày trẻ nhất trong nhóm Triết bị gọi trình diện nhập ngũ. Thày kia thì vì ở trong lứa tuổi, tôi thì vì có khai đậu bằng tú tài. Dù tôi đã quá tuổi, nhưng thuộc diện nhân lực bổ sung lớp sĩ quan trừ bị. Bấy giờ quân đội Pháp đã tính chuyện rút lui. Việt Nam – hóa toàn diện quân đội của chính quyền Quốc gia: lệnh động viên được áp dụng triệt để do khẩu hiệu “Je fais la guerre” của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm.
Thế là tháng 4 năm 1954, hai chúng tôi rời khỏi nhà dòng lên đường vào trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Đối với tôi thật là chuyện kinh hoàng vì nhiều lẽ: bản chất tôi vốn ốm yếu, vốn sợ bạo động mà nay lại bị ném vào cái nghiệp binh đao. Tình hình chính trị thì đất nước chia đôi mà gia đình tôi lại ở miền Bắc. Tòng quân còn có phần nào như đi lính cho Pháp. Rời bỏ cuộc sống “tu sĩ”, rơi tỏm vào cuộc sống “binh lính” ở quân trường, đầy những tập tục không mấy thanh cao của đời “đi lính” tôi như rơi xuống hoả ngục trần gian. Cũng may là nhờ sự can thiệp của Giáo Hội, chúng tôi được hưởng hai đặc miễn:
Không phải ra chiến đấu mà sẽ chỉ làm việc văn phòng, hoặc những ngành không trực tiếp đổ máu.
Sau hai năm nghĩa vụ sẽ được giải ngũ trở về tu viện. Do đó tôi cũng còn được nuôi hy vọng là sau thời gian tạm ngưng hai năm, sẽ lại được tiếp tục “đời tu”.
Sau 6 tháng học tập lại quân trường Thủ Đức, tôi được điều động lên Buôn Mê Thuột với cấp bậc Thiếu úy trừ bị phụ trách ban tiếp vận của phòng 4 đệ Tứ quân khu (sau đổi là quân khu 2). Tuy lúc ấy, quân đội đã gọi là Quân lực việt Nam do tướng Hinh làm Tham mưu trưởng: nhưng tư lệnh quân khu 4, trưởng phòng 4 vẫn là sĩ quan người Pháp. Mãi sau khi chuyển hẳn cho người Việt Nam mới hoàn toàn do sĩ quan người Việt chỉ huy, sau ngày ông Ngô Đình Diệm chấp chính. Trong thời gian tôi còn ở Thủ Đức thì Hiệp định Genève được ký kết. Theo đó thì nước Việt Nam tạm chia thành 2 vùng quân sự, chờ ngày Tổng tuyển cử đi đến “thống nhất”. Tôi còn nhớ rõ, hôm ấy, tôi đang ở trên một vọng canh trong trường Võ bị Thủ Đức, thì nghe đài truyền thanh loan tin “đình chiến”. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người Việt Nam trong giờ phút ấy đều vui mừng hớn hở, chờ đợi một ngày mai tươi sáng sẽ đến sau hai năm tạm phân chia. Cũng như 10 năm kháng chiến chống giặc Minh, chắc hẳn 9 năm chống Pháp cũng sẽ đem lại hoà bình cho một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Do đó nên suốt 2 năm (54-56) ở trong quân đội của chính phủ miền Nam, tôi khá yên tâm; vì theo Hiệp định Genève, vị trí của tôi cũng không đến nỗi bị xem như có gì là đắc tội với Tổ quốc; hai chính phủ phần nào công nhận nhau, tìm một giải pháp để mọi người Việt Nam sẽ được yên tâm hướng về tương lai mà không sợ bị trả thù, kỳ thị… nhất là đối với những kẻ bị cưỡng bách tòng quân. Trong thời gian ở bộ tham mưu đệ Tứ quân khu, công việc chính của tôi là thâu nhập, sắp xếp các hồ sơ về quân trang quân dụng, quân cụ, quân y, quân nhu của các đơn vị miền Bắc rút vào miền Nam và bị giải thể. Công việc của tôi là công việc mang sắc thái “hoà bình”: một số lớn hồ sơ là giải ngũ, phục viên, trợ cấp thương binh liệt sĩ! Kể ra không có việc gì là có mùi khói lửa cả, mà chỉ là những việc mang hy vọng “hoà bình”. Chỉ có một việc duy nhất mang tính cách chiến tranh là gọi sư đoàn Nùng tiếp cứu cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm, có cơ bị Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh đảo chánh. Tuy nhiên, đó chỉ là sự tranh chấp giữa 2 xu hướng chánh trị của phe miền Nam, chứ không phải giữa 2 miền Nam-Bắc.
Ngoài giờ làm việc tại văn phòng, cuộc sống của tôi chỉ là: dự thánh lễ, đọc kinh, lần hạt. Tôi sống chung với một vài anh em chủng sinh và tu sĩ bị động viên cùng làm việc ở Buôn Mê Thuột được mấy tháng. Sau khi các anh em ấy được giải ngũ, vì họ nhập ngũ trước tôi và được tròn hai năm nghĩa vụ quân sự, tôi lại sống một mình tại phòng mặc áo lễ của nhà thờ tuyên úy đệ Tứ quân khu. Hai năm sống trong quân đội ấy, thực ra chỉ là hai năm làm thơ ký thu thập hồ sơ cho phòng 4 bộ tham mưu của một quân đội trên đường rút lui, án binh bất động, mà một số lớn đơn vị bị giải thể. Tôi tiếp tục cuộc sống với tinh thần “tu sĩ”: ngoài công việc chuyên ngành, thì không giao du tiếp xúc với bất cứ giới nào. Hàng tháng tôi viết thư báo cáo với Bề trên về mọi mặt: thiêng liêng, sức khoẻ, kể cả việc sử dụng tiền lương, vì tuy được tạm thời chuẩn lời khấn, nhưng vẫn giữ tinh thần lời khấn để sau 2 năm lại trở về tiếp tục đời tu. Trong sự đối đầu giữa 2 miền Nam-Bắc, sự tranh chấp giữa các phe phái ở miền Nam, tôi chẳng có một suy nghĩ, một lựa chọn nào, vì tự cho mình đã là tu sĩ, thì chỉ biết dâng mình cho Chúa; còn mọi sự thế gian không thuộc về mình nữa. Tôi chỉ cốt giữ làm sao cho công việc chuyên ngành trôi chảy, nhất là xúc tiến việc trợ cấp thương binh và gia đình tử sĩ cho đầy đủ, công bằng, nhanh chóng.
Tôi cố gắng giữ mình khỏi mọi lôi cuốn thế tục và nóng lòng hướng về ngày giải ngũ trở lại Tu viện.
Nói chung, hai năm ấy trôi qua vô sự trong một tình trạng khá an ổn của đất nước, mặc dù bị tạm chia cắt. Chỉ có một chấm đen là tin buồn về vụ cải cách ruộng đất. Thân phụ tôi bị đấu tố, kết án 20 năm tù, vừa đi cải tạo được vài hôm thì sức khoẻ yếu, nên đã từ trần; còn ở gia đình thì mẹ và các em sống rất cơ cực. Tôi chỉ thương tiếc đau buồn, dâng lên cho Thiên Chúa trong sự thuận tình với Thánh Ý, cậy trông vào mầu nhiệm “Khổ giá” với lòng tin rằng: trong tình yêu Cứu độ – thì đau thương nào cũng có ít nhiều, xa gần gắn liền với nỗi khổ đau của “Con Người đau khổ” (l'Homme de douleur) trên Thánh giá. Quả vậy, như trên kia đã nói: cuối đời, thân phụ tôi có ít nhiều ý thức về những sai lầm khó tránh khỏi trong mấy chục năm quan trường, nên người có thái độ đón nhận với tinh thần đền bồi những đau khổ mất mát xảy đến cho bản thân cũng như gia đình. Cho nên, tuy thân phụ tôi không trực tiếp được đón nhận Tin mừng Cứu độ của Đấng Cứu thế Chuộc tội, tôi tin tưởng rằng với thái độ khiêm tốn và với ý thức đền bồi đón nhận những đau khổ như thế, thân phụ tôi đã được thông dự phần nào vào mầu nhiệm Tử nạn của Đấng Cứu Thế, qua cái chết đau đớn khá nhục nhã trong cải cách ruộng đất. Chỉ vì nghĩ thế mà tôi không hề có gì là oán thù, phẫn nộ đối với những người, những việc đã có ít nhiều đưa chén đắng cay đến cho thân phụ và gia đình tôi. Bóng cây Thánh giá, có Đức Mẹ trên đồi Núi Sọ, đã phủ lên tang tóc đau thương của gia đình tôi một cái gì êm dịu, tuy xót xa đau đớn. Tôi tự hỏi: nếu thân phụ tôi, mẹ tôi, anh chị em tôi cứ ở mãi trên đà hãnh tiến, sống trong giàu sang phú quí, chết trong tống táng linh đình thì số phận đời sau không biết sẽ ra sao? “Phúc cho những ai khóc lóc”, đó là Ánh sáng dẫn đường cho tôi khi được tin buồn về chuyện gia đình ở miền Bắc. Tôi chỉ xin Chúa xót thương, an ủi, thứ tha và cứu độ cho tất cả, sự phán xét hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chỉ tiếc là với cái vốn liếng Nho học và Đông y của thân phụ tôi, nếu không bị mất đi ở trại cải tạo, thì sau còn có thể đóng góp được cho Đất Nước. Quả là hơi lãng phí, mà chẳng lợi gì cho ai cả! Nhưng ý Chúa nhiệm mầu làm sao biết được! Mọi suy tư cảm xúc chỉ là cái hạn hẹp của con người, trong thâm tâm tôi vẫn xác định: “Tất cả đều là Ân sủng” và tạ ơn Chúa, bởi vì tâm hồn tôi đã thấm nhuần tinh thần “khổ nạn” mà Hội Thánh đã tán tụng là: “La bienheureuse passion”, “La glorieuse passion” – “Cuộc khổ nạn Đại phúc và Vinh quang”, và “khóc lóc” là một trong 8 Mối Phúc Thật. Mai sau, những giọt nước mắt của những kẻ thành tâm thiện chí sẽ được lau khô, và biến thành những viên ngọc muôn đời rạng rỡ: nước mắt chúng sinh chứa đầy bốn bể đại dương đã được thâu gồm trong một Trái Tim bị lưỡi đòng đâm thâu treo trên khổ giá, và một Trái Tim tan nát như bị lưỡi gươm xuyên qua, lặng yên dưới chân cây khổ giá. Hơi thở cuối cùng của thân phụ tôi trong rừng sâu của miền núi non Hương Khê; những giọt nước mắt của mẹ tôi, anh chị em tôi – khóc chồng, khóc cha không đến nỗi là hoàn toàn vô ý nghĩa – dưới cái nhìn của một Kitô hữu hàng năm ngắm đàng Thánh giá vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Trong hai năm tòng quân, tôi rút ra được kết quả có thể nói là tích cực sau đây:
Thứ nhất là có dịp nhìn rõ xã hội miền Nam. Tôi đã có kinh nghiệm ngoài đời về 2 chế độ: Chế độ của thực dân Pháp trước năm 45 và chế độ “dân chủ cộng hoà” sau 45. Còn từ 50-54, tôi được đùm bọc che chở bởi một môi trường thanh tịnh của Tu viện. Từ năm 51 đến 54, tuy sống ở miền Nam, nhưng tôi không hề biết được thực trạng của xã hội như thế nào. Nhờ 2 năm 1954-56, tôi tiếp xúc với xã hội mới khác hẳn với thời trước 1945, lại qua trung gian môi trường quân đội viễn chinh Pháp và quân đội Cộng hoà miền Nam trong ngày đầu còn nhiều tàn tích của quân đội Pháp, tôi thấy rõ cuộc đời bên ngoài – không được mấy trong sạch, cho nên lại càng tăng thêm lòng ao ước được trở về đời sống tu hành bình dị, trong sạch, an vui trong gia đình tu viện. Thật cuộc đời hào hoa loè loẹt chẳng có gì hấp dẫn cả, đôi khi còn làm cho tôi ớn ngấy nếu không dám nói là buồn nôn. Xét về phương diện này, cuộc đời trần thế ở khu 4 năm 45-49 trong sạch, đẹp đẽ hơn, có đạo đức hơn, con người sống có lý tưởng hơn, dù là lý tưởng “độc lập dân tộc” hay lý tưởng “cộng sản chủ nghĩa”. Còn xã hội miền Nam chạy theo cái bả vinh hoa quyền lợi, có phần nặng về vật chất và ít nhiều mang nhiều màu sắc dâm bôn. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, với hình ảnh vị Thượng Thư treo ấn từ quan ở Huế của ông Ngô Đình Diệm, tôi vẫn nuôi hy vọng là có sự thanh lọc cải thiện. Và nhất là nếu Đất Nước thống nhất hài hoà thì tương lai dần dần sẽ cải tiến.
– Thứ hai là băn khoăn về việc “truyền giáo”: từ ngày rửa tội, tôi liền hướng lòng về việc sống kết hiệp với Thiên Chúa trong một sự Mặt đối Mặt tay đôi, chỉ chuyên vào vấn đề tu đức và đời sống thiêng liêng, nội tâm của riêng mình với Chúa, tôi gần như tạm gác thế gian ra ngoài nhãn giới của mình. Bây giờ, với 2 năm tiếp xúc lại với đời trong một môi trường mà 9/10 đồng bào là ngoài Công giáo. Vấn đề Hội Thánh Việt Nam và Dân Tộc Việt Nam trong nhãn giới truyền giáo được đặt ra và không khỏi nói lên nhiều băn khoăn thao thức. (Đó là chưa nói về một sự đố kỵ ngấm ngầm nào đó, khi một nước có 9/10 ngoài Công giáo, mà vị Quốc trưởng lại là người Công giáo. Vai trò của Giám mục, Linh mục, tu sĩ sẽ càng có xu hướng lớn so với tỷ số mật độ giáo dân l/10; dù là ảnh hưởng tốt cũng có vấn đề, chứ chưa nói đến ảnh hưởng xấu.
Nhưng đã có một điều tiêu cực xuất hiện trong 2 năm tòng quân: khi trở lại với đời sống bình thường, một xu hướng thuộc “tâm chứng” của tôi từ thuở nhỏ hình như tái phát tuy không phải gây nên những trở ngại bất khả cho đời sống tu hành và cộng đoàn; nhưng cũng có thể tạo ra những khó khăn cho sự thực hiện cái khát vọng dâng mình của tôi cho Thiên Chúa trong một cộng đoàn tu sĩ, tương tự như Phaolô cũng có cái gai nhọn nhức nhối đến phải ba lần kêu cầu với Chúa! Cái khó khăn ấy, khi trở lại nhà dòng, các Bề trên cũng như các Linh mục giải tội và linh hướng đều cho là không đáng ngại, và khuyên tôi cứ cậy trông mà tiếp tục, vì cũng như trường hợp Phaolô: Chúa không thử thách ai quá sức mình, và Ngài sẽ nâng đỡ những ai phó thác cho Ngài.
Thế rồi, đùng một cái tôi và một thày trẻ nhất trong nhóm Triết bị gọi trình diện nhập ngũ. Thày kia thì vì ở trong lứa tuổi, tôi thì vì có khai đậu bằng tú tài. Dù tôi đã quá tuổi, nhưng thuộc diện nhân lực bổ sung lớp sĩ quan trừ bị. Bấy giờ quân đội Pháp đã tính chuyện rút lui. Việt Nam – hóa toàn diện quân đội của chính quyền Quốc gia: lệnh động viên được áp dụng triệt để do khẩu hiệu “Je fais la guerre” của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm.
Thế là tháng 4 năm 1954, hai chúng tôi rời khỏi nhà dòng lên đường vào trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Đối với tôi thật là chuyện kinh hoàng vì nhiều lẽ: bản chất tôi vốn ốm yếu, vốn sợ bạo động mà nay lại bị ném vào cái nghiệp binh đao. Tình hình chính trị thì đất nước chia đôi mà gia đình tôi lại ở miền Bắc. Tòng quân còn có phần nào như đi lính cho Pháp. Rời bỏ cuộc sống “tu sĩ”, rơi tỏm vào cuộc sống “binh lính” ở quân trường, đầy những tập tục không mấy thanh cao của đời “đi lính” tôi như rơi xuống hoả ngục trần gian. Cũng may là nhờ sự can thiệp của Giáo Hội, chúng tôi được hưởng hai đặc miễn:
Không phải ra chiến đấu mà sẽ chỉ làm việc văn phòng, hoặc những ngành không trực tiếp đổ máu.
Sau hai năm nghĩa vụ sẽ được giải ngũ trở về tu viện. Do đó tôi cũng còn được nuôi hy vọng là sau thời gian tạm ngưng hai năm, sẽ lại được tiếp tục “đời tu”.
Sau 6 tháng học tập lại quân trường Thủ Đức, tôi được điều động lên Buôn Mê Thuột với cấp bậc Thiếu úy trừ bị phụ trách ban tiếp vận của phòng 4 đệ Tứ quân khu (sau đổi là quân khu 2). Tuy lúc ấy, quân đội đã gọi là Quân lực việt Nam do tướng Hinh làm Tham mưu trưởng: nhưng tư lệnh quân khu 4, trưởng phòng 4 vẫn là sĩ quan người Pháp. Mãi sau khi chuyển hẳn cho người Việt Nam mới hoàn toàn do sĩ quan người Việt chỉ huy, sau ngày ông Ngô Đình Diệm chấp chính. Trong thời gian tôi còn ở Thủ Đức thì Hiệp định Genève được ký kết. Theo đó thì nước Việt Nam tạm chia thành 2 vùng quân sự, chờ ngày Tổng tuyển cử đi đến “thống nhất”. Tôi còn nhớ rõ, hôm ấy, tôi đang ở trên một vọng canh trong trường Võ bị Thủ Đức, thì nghe đài truyền thanh loan tin “đình chiến”. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người Việt Nam trong giờ phút ấy đều vui mừng hớn hở, chờ đợi một ngày mai tươi sáng sẽ đến sau hai năm tạm phân chia. Cũng như 10 năm kháng chiến chống giặc Minh, chắc hẳn 9 năm chống Pháp cũng sẽ đem lại hoà bình cho một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Do đó nên suốt 2 năm (54-56) ở trong quân đội của chính phủ miền Nam, tôi khá yên tâm; vì theo Hiệp định Genève, vị trí của tôi cũng không đến nỗi bị xem như có gì là đắc tội với Tổ quốc; hai chính phủ phần nào công nhận nhau, tìm một giải pháp để mọi người Việt Nam sẽ được yên tâm hướng về tương lai mà không sợ bị trả thù, kỳ thị… nhất là đối với những kẻ bị cưỡng bách tòng quân. Trong thời gian ở bộ tham mưu đệ Tứ quân khu, công việc chính của tôi là thâu nhập, sắp xếp các hồ sơ về quân trang quân dụng, quân cụ, quân y, quân nhu của các đơn vị miền Bắc rút vào miền Nam và bị giải thể. Công việc của tôi là công việc mang sắc thái “hoà bình”: một số lớn hồ sơ là giải ngũ, phục viên, trợ cấp thương binh liệt sĩ! Kể ra không có việc gì là có mùi khói lửa cả, mà chỉ là những việc mang hy vọng “hoà bình”. Chỉ có một việc duy nhất mang tính cách chiến tranh là gọi sư đoàn Nùng tiếp cứu cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm, có cơ bị Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh đảo chánh. Tuy nhiên, đó chỉ là sự tranh chấp giữa 2 xu hướng chánh trị của phe miền Nam, chứ không phải giữa 2 miền Nam-Bắc.
Ngoài giờ làm việc tại văn phòng, cuộc sống của tôi chỉ là: dự thánh lễ, đọc kinh, lần hạt. Tôi sống chung với một vài anh em chủng sinh và tu sĩ bị động viên cùng làm việc ở Buôn Mê Thuột được mấy tháng. Sau khi các anh em ấy được giải ngũ, vì họ nhập ngũ trước tôi và được tròn hai năm nghĩa vụ quân sự, tôi lại sống một mình tại phòng mặc áo lễ của nhà thờ tuyên úy đệ Tứ quân khu. Hai năm sống trong quân đội ấy, thực ra chỉ là hai năm làm thơ ký thu thập hồ sơ cho phòng 4 bộ tham mưu của một quân đội trên đường rút lui, án binh bất động, mà một số lớn đơn vị bị giải thể. Tôi tiếp tục cuộc sống với tinh thần “tu sĩ”: ngoài công việc chuyên ngành, thì không giao du tiếp xúc với bất cứ giới nào. Hàng tháng tôi viết thư báo cáo với Bề trên về mọi mặt: thiêng liêng, sức khoẻ, kể cả việc sử dụng tiền lương, vì tuy được tạm thời chuẩn lời khấn, nhưng vẫn giữ tinh thần lời khấn để sau 2 năm lại trở về tiếp tục đời tu. Trong sự đối đầu giữa 2 miền Nam-Bắc, sự tranh chấp giữa các phe phái ở miền Nam, tôi chẳng có một suy nghĩ, một lựa chọn nào, vì tự cho mình đã là tu sĩ, thì chỉ biết dâng mình cho Chúa; còn mọi sự thế gian không thuộc về mình nữa. Tôi chỉ cốt giữ làm sao cho công việc chuyên ngành trôi chảy, nhất là xúc tiến việc trợ cấp thương binh và gia đình tử sĩ cho đầy đủ, công bằng, nhanh chóng.
Tôi cố gắng giữ mình khỏi mọi lôi cuốn thế tục và nóng lòng hướng về ngày giải ngũ trở lại Tu viện.
Nói chung, hai năm ấy trôi qua vô sự trong một tình trạng khá an ổn của đất nước, mặc dù bị tạm chia cắt. Chỉ có một chấm đen là tin buồn về vụ cải cách ruộng đất. Thân phụ tôi bị đấu tố, kết án 20 năm tù, vừa đi cải tạo được vài hôm thì sức khoẻ yếu, nên đã từ trần; còn ở gia đình thì mẹ và các em sống rất cơ cực. Tôi chỉ thương tiếc đau buồn, dâng lên cho Thiên Chúa trong sự thuận tình với Thánh Ý, cậy trông vào mầu nhiệm “Khổ giá” với lòng tin rằng: trong tình yêu Cứu độ – thì đau thương nào cũng có ít nhiều, xa gần gắn liền với nỗi khổ đau của “Con Người đau khổ” (l'Homme de douleur) trên Thánh giá. Quả vậy, như trên kia đã nói: cuối đời, thân phụ tôi có ít nhiều ý thức về những sai lầm khó tránh khỏi trong mấy chục năm quan trường, nên người có thái độ đón nhận với tinh thần đền bồi những đau khổ mất mát xảy đến cho bản thân cũng như gia đình. Cho nên, tuy thân phụ tôi không trực tiếp được đón nhận Tin mừng Cứu độ của Đấng Cứu thế Chuộc tội, tôi tin tưởng rằng với thái độ khiêm tốn và với ý thức đền bồi đón nhận những đau khổ như thế, thân phụ tôi đã được thông dự phần nào vào mầu nhiệm Tử nạn của Đấng Cứu Thế, qua cái chết đau đớn khá nhục nhã trong cải cách ruộng đất. Chỉ vì nghĩ thế mà tôi không hề có gì là oán thù, phẫn nộ đối với những người, những việc đã có ít nhiều đưa chén đắng cay đến cho thân phụ và gia đình tôi. Bóng cây Thánh giá, có Đức Mẹ trên đồi Núi Sọ, đã phủ lên tang tóc đau thương của gia đình tôi một cái gì êm dịu, tuy xót xa đau đớn. Tôi tự hỏi: nếu thân phụ tôi, mẹ tôi, anh chị em tôi cứ ở mãi trên đà hãnh tiến, sống trong giàu sang phú quí, chết trong tống táng linh đình thì số phận đời sau không biết sẽ ra sao? “Phúc cho những ai khóc lóc”, đó là Ánh sáng dẫn đường cho tôi khi được tin buồn về chuyện gia đình ở miền Bắc. Tôi chỉ xin Chúa xót thương, an ủi, thứ tha và cứu độ cho tất cả, sự phán xét hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chỉ tiếc là với cái vốn liếng Nho học và Đông y của thân phụ tôi, nếu không bị mất đi ở trại cải tạo, thì sau còn có thể đóng góp được cho Đất Nước. Quả là hơi lãng phí, mà chẳng lợi gì cho ai cả! Nhưng ý Chúa nhiệm mầu làm sao biết được! Mọi suy tư cảm xúc chỉ là cái hạn hẹp của con người, trong thâm tâm tôi vẫn xác định: “Tất cả đều là Ân sủng” và tạ ơn Chúa, bởi vì tâm hồn tôi đã thấm nhuần tinh thần “khổ nạn” mà Hội Thánh đã tán tụng là: “La bienheureuse passion”, “La glorieuse passion” – “Cuộc khổ nạn Đại phúc và Vinh quang”, và “khóc lóc” là một trong 8 Mối Phúc Thật. Mai sau, những giọt nước mắt của những kẻ thành tâm thiện chí sẽ được lau khô, và biến thành những viên ngọc muôn đời rạng rỡ: nước mắt chúng sinh chứa đầy bốn bể đại dương đã được thâu gồm trong một Trái Tim bị lưỡi đòng đâm thâu treo trên khổ giá, và một Trái Tim tan nát như bị lưỡi gươm xuyên qua, lặng yên dưới chân cây khổ giá. Hơi thở cuối cùng của thân phụ tôi trong rừng sâu của miền núi non Hương Khê; những giọt nước mắt của mẹ tôi, anh chị em tôi – khóc chồng, khóc cha không đến nỗi là hoàn toàn vô ý nghĩa – dưới cái nhìn của một Kitô hữu hàng năm ngắm đàng Thánh giá vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Trong hai năm tòng quân, tôi rút ra được kết quả có thể nói là tích cực sau đây:
Thứ nhất là có dịp nhìn rõ xã hội miền Nam. Tôi đã có kinh nghiệm ngoài đời về 2 chế độ: Chế độ của thực dân Pháp trước năm 45 và chế độ “dân chủ cộng hoà” sau 45. Còn từ 50-54, tôi được đùm bọc che chở bởi một môi trường thanh tịnh của Tu viện. Từ năm 51 đến 54, tuy sống ở miền Nam, nhưng tôi không hề biết được thực trạng của xã hội như thế nào. Nhờ 2 năm 1954-56, tôi tiếp xúc với xã hội mới khác hẳn với thời trước 1945, lại qua trung gian môi trường quân đội viễn chinh Pháp và quân đội Cộng hoà miền Nam trong ngày đầu còn nhiều tàn tích của quân đội Pháp, tôi thấy rõ cuộc đời bên ngoài – không được mấy trong sạch, cho nên lại càng tăng thêm lòng ao ước được trở về đời sống tu hành bình dị, trong sạch, an vui trong gia đình tu viện. Thật cuộc đời hào hoa loè loẹt chẳng có gì hấp dẫn cả, đôi khi còn làm cho tôi ớn ngấy nếu không dám nói là buồn nôn. Xét về phương diện này, cuộc đời trần thế ở khu 4 năm 45-49 trong sạch, đẹp đẽ hơn, có đạo đức hơn, con người sống có lý tưởng hơn, dù là lý tưởng “độc lập dân tộc” hay lý tưởng “cộng sản chủ nghĩa”. Còn xã hội miền Nam chạy theo cái bả vinh hoa quyền lợi, có phần nặng về vật chất và ít nhiều mang nhiều màu sắc dâm bôn. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, với hình ảnh vị Thượng Thư treo ấn từ quan ở Huế của ông Ngô Đình Diệm, tôi vẫn nuôi hy vọng là có sự thanh lọc cải thiện. Và nhất là nếu Đất Nước thống nhất hài hoà thì tương lai dần dần sẽ cải tiến.
– Thứ hai là băn khoăn về việc “truyền giáo”: từ ngày rửa tội, tôi liền hướng lòng về việc sống kết hiệp với Thiên Chúa trong một sự Mặt đối Mặt tay đôi, chỉ chuyên vào vấn đề tu đức và đời sống thiêng liêng, nội tâm của riêng mình với Chúa, tôi gần như tạm gác thế gian ra ngoài nhãn giới của mình. Bây giờ, với 2 năm tiếp xúc lại với đời trong một môi trường mà 9/10 đồng bào là ngoài Công giáo. Vấn đề Hội Thánh Việt Nam và Dân Tộc Việt Nam trong nhãn giới truyền giáo được đặt ra và không khỏi nói lên nhiều băn khoăn thao thức. (Đó là chưa nói về một sự đố kỵ ngấm ngầm nào đó, khi một nước có 9/10 ngoài Công giáo, mà vị Quốc trưởng lại là người Công giáo. Vai trò của Giám mục, Linh mục, tu sĩ sẽ càng có xu hướng lớn so với tỷ số mật độ giáo dân l/10; dù là ảnh hưởng tốt cũng có vấn đề, chứ chưa nói đến ảnh hưởng xấu.
Nhưng đã có một điều tiêu cực xuất hiện trong 2 năm tòng quân: khi trở lại với đời sống bình thường, một xu hướng thuộc “tâm chứng” của tôi từ thuở nhỏ hình như tái phát tuy không phải gây nên những trở ngại bất khả cho đời sống tu hành và cộng đoàn; nhưng cũng có thể tạo ra những khó khăn cho sự thực hiện cái khát vọng dâng mình của tôi cho Thiên Chúa trong một cộng đoàn tu sĩ, tương tự như Phaolô cũng có cái gai nhọn nhức nhối đến phải ba lần kêu cầu với Chúa! Cái khó khăn ấy, khi trở lại nhà dòng, các Bề trên cũng như các Linh mục giải tội và linh hướng đều cho là không đáng ngại, và khuyên tôi cứ cậy trông mà tiếp tục, vì cũng như trường hợp Phaolô: Chúa không thử thách ai quá sức mình, và Ngài sẽ nâng đỡ những ai phó thác cho Ngài.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |