Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
19. TỈNH MỘT CƠN MÊ
Trên đây tôi có viết “giấc mơ dài từ 51-75”. Lấy năm 51 vì lý do tôi vào Nam; nhưng thực tế, thì từ năm 51-54, tôi sống trong dòng tu, tách biệt khỏi thế tục, cuộc sống tôi những năm ấy ở Nha Trang chẳng khác gì những năm ở Vinh (có khác là đời sống vật chất, nhất là bữa ăn, có khá hơn một tí; tôi có đèn điện để học bài, đọc kinh; thỉnh thoảng được di chuyển bằng xe có động cơ), cuộc sống thực sự thay đổi là từ ngày tôi bị động viên cưỡng bách tòng quân năm 54, cho đến ngày quân đội chính phủ miền Nam rút khỏi Đà Lạt năm 75; hai mươi mốt năm trời khởi đầu bằng hai sự việc thế trần, có liên hệ với nhau do tình thế của đất nước; sự kiện tôi bị động viên, sự kiện tôi đi học tập cải tạo. Sự kiện tôi bị động viên hoàn toàn trái ngược với ý muốn, trái với bản chất con người tôi, phá ngang cả một hướng đời - Bởi vì, nếu không bị động viên thì cuối năm 54, tôi đã khấn trọn đời trong dòng Phanxicô, tôi sẽ như các anh em cùng vào tập tu với tôi năm 51 ở Vinh, sẽ tuần tự tiến lên và nay mai sẽ nhắm mắt trong bộ áo tu màu nâu của vị Thánh nghèo khó! Đành rằng, năm 56 tôi có trở lại đời tu, rồi đã rời bỏ, năm 63 trở lại một lần nữa rồi lại rời bỏ. Sau cuộc giải phóng năm 75, tôi vừa có lời ướm hỏi, gợi ý xa xôi với Tòa Giám mục Đà Lạt thì bị chận đứng vì học tập cải tạo, một việc cũng hoàn toàn bất ngờ, có cái gì kỳ lạ, mà chưa ai giải thích rõ ràng là vì lý do nào; vì bấy giờ, một là đi học tập vì lý do chính trị, hai là không; chứ đã giải ngũ năm 1956 mà đi học tập với tư cách sĩ quan là sai chính sách!!
Trong lần rời khỏi dòng Phanxicô năm 56 và lần rời khỏi dòng Biển Đức năm 63 là do tôi quyết định, nhưng bị động viên năm 54 và bị đi cải tạo năm 75 là hoàn toàn do sự kiện bên ngoài! Tôi tuôn tự hỏi tôi đã đánh mất ơn kêu gọi hay tôi đã rõ ràng là không có ơn kêu gọi tu trì mà vẫn ngoan cố đeo đuổi, nên không hết lòng dấn thân trọn vẹn trên con đường sinh hoạt văn hóa thế trần (không làm xong luận án triết học, không chịu viết giáo trình, không chịu trước tác???). 21 năm trời dang dở, chẳng làm nên bất cứ công việc nào cả! Hay là? Có một linh mục bạn nói, ơn kêu gọi của cậu là suốt đời dang dở!!! Hoặc như linh mục Nguyễn Bình An nói: “hay là anh sẽ như Benoit joseph Labre”, tu dòng nào cũng không được, cuối cùng lang thang và hành khất???
Hành hương thì quả tôi có viếng: Lộ Đức hai lần, Lidiơ hai lần, vương cung thánh đường Thánh Tâm ở Montmartre và nguyện đường Nữ tử dòng bác ái ở Ruu Du Bac nhiều lần, nhà thờ La Vang một lần, nhà thờ Fatima Bình Triệu, dòng Cát Minh ở thành phố Hồ Chí Minh cũng khá nhiều lần, nguyện đường Đức Mẹ hiển thắng ở Paris hai lần, nguyện đường “Corpus Christi” của nhà mẹ dòng Thánh Thể khá nhiều lần, nguyện đường của nhà mẹ dòng Lazaristes ở Paris vài lần, nhà thờ Đức Bà Chartres ở Pháp hai lần, thánh đường thánh Benoit trên bờ sông Loire một lần.
Còn hành khất thì, từ năm 1975, thực tình cũng có nhiều lần đã đến nhà người quen chờ bữa ăn để được mời ăn, vì đã hết cái ăn ở nhà! Và tuy không trực tiếp ngửa tay xin ai, nhưng nếu không có một số ân nhân thỉnh thoảng bố thí thì có lúc “thật là đói rét”, quần áo tôi mặc hiện nay thực tế cũng hoàn toàn là do của bố thí! Và mặc dầu, hiện nay tôi cố gắng xây dựng vườn cây ao cá, mong tự lực cánh sinh, nhưng có lẽ chỉ được phần nào thôi, chứ rồi cũng một phần nhờ vào khách thập phương. Chính vốn liếng làm được vườn cây ao cá cũng là do ân nhân giúp đỡ! Tuy nhiên, Benoit Joseph Labre là tình nguyện hành khất; còn tôi là bị dồn vào thế kẹt! Vả lại, cũng do mấy năm làm ra tiền không biết dành dụm, vung tay quen thói bốc trời, thậm chí, như tôi đã ghi trên, sau năm 1975 còn mắc nợ kha khá!
Tôi xin đi đến kết tuận; năm 75 tôi như đứa con hoang đàng về nhà cha, sau khi phung phá bao nhiêu của cải mà Chúa đặt vào tay tôi; vật chất có, trí tuệ có, thiêng liêng có, trở về với hai bàn tay không, theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng! Đôi túc tôi tự nghĩ, ví dụ cái đêm 30-3-75 dưới đường mương, một viên đạn lạc xuyên qua ngực, đưa tôi ra khỏi đời này thì tôi sẽ thưa với Chúa làm sao? Và nếu cứ kéo dài cuộc đời nửa nạc nửa mở “hâm hẩm” như trước 75 cho đến mãn đời thì cũng bị Chúa mửa ra mà thôi! Càng ngày tôi càng thấm thía trong câu kinh cảm tạ “Chúa đã cứu tôi khỏi chết tươi ăn năn chẳng kịp”, quả là ơn vô cùng trọng đại! Mỗi lần đọc câu ấy ta nên ngưng lại suy gẫm hồi lâu, để xem ta thoát cái đại họa ấy bao nhiêu lần, một mặt để ý thức thêm về ơn Chúa đã cứu thoát ta trong quá khứ, mặt khác để đề phòng cảnh giác nghiêm túc hơn cho tương lai: một chuyến xe lật, một ngọn gió độc, một cơn dịch tả v.v… đủ đưa ta ra trước mặt Chúa một cách bất ngờ. Chính Chúa đã căn dặn về điều vô cùng quan trọng ấy rất nhiều lần! Xin thú nhận là suốt 21 năm trời, từ 54 đến 75, tôi quả đã quên bẵng đi lời nhắc nhở của Chúa về việc “tuôn tỉnh thức và cầu nguyện”, xin ghi lại bài học ấy để anh chị em độc giả cũng ôn lại kẻo quên, kẻo vô cùng nguy hiểm tai hại!
Có vị linh mục an ủi tôi rằng: “không đâu, có lẽ anh đã đi theo đúng con đường dang dở như Chúa dắt anh đi đó!” Có lẽ là vì thương tôi, vị ấy an ủi tôi để tôi an tâm: “Chứng cớ là anh tuôn tuôn khao khát một đời tu trì chiêm niệm thần hiệp, tại anh không tìm ra đó thôi; và biết đâu Chúa gọi anh theo một kiểu tu trì mới mà anh phải dày công tìm kiếm! Có thể đó là một hình thức tương tự như của Benoit Joseph Labre, nhưng kín đáo âm thầm hơn, một kiểu “ẩn tu” ở giữa đời, “ẩn tu” trong chính lòng mình!”. Lý do ấy, theo tôi nghĩ, không phải là lý do thực sự đã đưa đời tôi chìm nổi dở dang trên 20 năm trời. Tôi nghĩ rằng 20 năm trôi dạt dang dở của tôi, cũng chẳng khác gì 40 năm của Dân chúa sau khi vượt qua Biển Đỏ, còn phải lạc lõng qua sa mạc, mới có thể gột cho thật sạch những gì đã huấn tập lâu đời trong đất Ai Cập! Dưới dạng này dạng kia, chính tôi cũng còn chờn vờn, nghiêng ngửa như dân Do thái: khi thì thờ bò vàng, khi thì đòi trở lại Ai cập, tiếc nuối củ hành củ tỏi, vòi vĩnh chim cút và man-na. Môsê thì nghi ngờ gõ lên tảng đá ở Mê-ri-ba 2 cái thay vì 1 cái như Chúa bảo. Còn tôi cũng đã nhiều lần chần chờ như vậy! Môsê không được vào đất hứa, thì tôi không được dâng mình cho Chúa với lời khấn trọn đời hay với cái bước dấn thân bước qua ngưỡng chức phó tế, âu là “đáng đời”! Và làm sáng tỏ thêm sự “Công chính”, sự “Thánh thiện” của Thiên Chúa không thể thoả hiệp với cái “nửa vời”, với cái “lợn cợn”. Rồi còn từ 1975 cho đến cuối đời, nếu tôi biết bền đỗ với “cuộc trở lại thứ hai” và được Chúa ban cho làm được chút gì phụng sự Chúa và phục vụ anh em, thì đó là Chúa bày tỏ “lòng xót thương vô hạn” của Chúa, và “quyền năng vô cùng” của Chúa. Chúa xót thương nên không chấp 20 năm “lợn cợn” của hồn tôi; Chúa quyền năng nên đã biến đổi một điều lẽ ra đã hoàn toàn hỏng, đáng vất đi, thì lại vẫn sửa chữa lại được, có thể dùng tạm vào một việc gì đó để không đến nỗi hoàn toàn vô dụng. Chúa vẫn cư xử như thế để chúng ta tuôn tuôn cậy trông và phó thác, dù chúng ta có lỡ sa chìm đến mức nào đi nữa, như Thánh Gioan đã dạy: “Nếu lòng ta có lên án ta, thì lòng Chúa còn rộng rãi hơn lòng ta”.
Sau khi đã khẳng định chân lý ấy, tôi xin được phân tích phô bày sự “lợn cợn” của tôi, và dự đoán: phải chăng Chúa đã tỏ quyền năng của Ngài bằng cách biến chính cái “lợn cợn” đáng lẽ phải vứt bỏ đi ấy trở thành có thể hữu dụng chút nào đó chăng?
Tôi nghĩ rằng lý do căn bản sâu xa nhất là ở điểm này: trong hai câu “Ai mệt nhọc hãy đến cùng Ta”, và “Ai theo Ta, hãy vác thập giá mà theo Ta”, hình như tôi chỉ thực sự nghe câu thứ nhất, còn câu thứ hai chẳng khác nào lý thuyết suông thôi! Quả vậy, tôi chỉ chạy đến với Chúa để tìm an ủi (dù là an ủi thiêng liêng, thì cũng chỉ là an ủi cho mình), chứ tôi chưa hề tự nguyện nhỏ một giọt mồ hôi nào vì danh Chúa cả! Các sự đau đớn toàn là do bên ngoài đưa đến chứ không phải là tôi tự đi tới đón gặp chúng, vì để tìm gặp Chúa, hình như Chúa phải dùng đến chúng để hầu như buộc tôi phải “giáp mặt”, “đụng trận” với chúa! Vì nếu không thì tôi cứ mải mê chạy theo, đuổi bắt những hoa những bướm ở dọc đường mà quên đi mục đích thuở ban đầu là gặp Chúa! Nói tóm lại suốt 20 năm, tôi vẫn tìm chính mình tôi (recherche de soi camouflée) dưới dạng này hay dạng khác, dù là đang tìm một đường tu trì, chứ không phải là thực sự tinh tuyền tìm Chúa (recherche de Dieu). Nói cách khác, hồn tôi, lòng tôi còn quá nhiều lợn cợn không thật tinh thuần (pureté de coeur).
Vả chăng, âu đó là quy tuật: từ một thế giới xa lạ bước vào Nước Chúa, làm sao cho hết “lợn cợn” ngay được, nhất là những cái lợn cợn khá tinh vi! Quả vậy, như tôi đã nói ở trên kia: Danh, Lợi, Sắc không mê hoặc được tôi! Nhưng một cái nguy hiểm hơn, cái “tôi” vẫn còn chiếm hữu chính mình tôi. Danh, lợi, sắc chẳng qua là ngoại vật tương đối! Còn chính cái “tôi” mới là vô cùng độc hại, vì nó tuôn tuôn dính liền, bám sát bản nhân mình. Sau đây tôi xin mô tả phân tích cái tôi ấy để anh chị em được thấy phần nào kẻ thù chung của chúng ta. Cái tôi của mỗi người mỗi khác, nhưng giống nhau ở chỗ nó đều là cái tôi “không chịu nhường ngôi cho Thiên Chúa và tha nhân”.
A. Trước hết là trong vấn đề tu trì:
Về mặt tri thức tuận lý, tôi vẫn biết “đi tu” hiểu theo Kitô giáo là đáp lại, chạy theo tiếng gọi Tình yêu Thiên Chúa đến nỗi rứt bỏ mối dây ràng buộc, dính bén, luyến ái. Những điều mà người ta rứt bỏ là những giá trị thật sự (vì mọi thụ tạo tự nó đều là tốt) mà người ta muốn khước từ Tình yêu, để có thể rảnh rang mà yêu thương, như thể làm bằng chứng cho sức mạnh của tình yêu mình dành cho Thiên Chúa, nói cách khác người ta muốn hy sinh những giá trị ấy, dâng nó lên cho Thiên Chúa như những của quý giá làm vật tế lễ, chứ không phải là khinh chê như những vật vô giá trị. Ví dụ, Thánh nữ Têrêxa ở thành A-vi-la rứt bỏ sự trìu mến của gia đình, nhất là “những anh em họ” cùng trang lứa, quấn quít bên mình. Phan-xi-cô Xa-vi-ê rứt bỏ sự nghiệp Đại học Hàn lâm ở Paris. Tê-rê-sa Hài Đồng rứt bỏ tình phụ tử vô cùng khắng khít, sâu đậm đối với thân phụ. Còn phần tôi! Tôi chưa hề cảm nghiệm một sự rứt bỏ nào như thế. Những sự thế gian đã rời khỏi tôi trước khi tôi tìm Chúa! Chẳng hạn:
Suy cho cùng, trên thực tế, về cảm nghiệm bản thân, tôi đã đi tìm đời tu theo tinh thần “hiền triết”, “đạo gia” ngoại giáo, tìm giải thoát khỏi mọi vấn vương hệ lụy “cho mình”, chứ không có gì là hy sinh làm của lễ tế hiến dâng cho Thiên Chúa để phục vụ cho Hội Thánh và tha nhân cả! Ngày nay, càng suy gẫm tôi cảm nghĩ rằng có lẽ điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi tôi là hy sinh chính cái mộng tu trì kiểu ngoại giáo ấy. Chẳng vậy mà tôi hễ cứ nhào vào dòng tu nào là y như bị dội ra! Một số người thấy rõ tâm tư tôi nên gọi tôi là “trích tiên” (moine manqué), có lẽ tôi quá ham, quá mê đời tu kiểu ngoại giáo (thoát tục, tị thế) nên Chúa đã khước từ.
“Phải chăng, đáng lẽ tôi phải biết như thế để bỏ cái ham mê ấy mà cố gắng tạo một sự nghiệp văn hoá thế tục trần gian. Tôi chỉ hỏi thế thôi, chứ với sự giải thể Viện Đại học Công giáo Đà Lạt năm 75 thì cũng chưa rõ ý Chúa mầu nhiệm muốn gì, bởi vì như tôi đã ghi ở trên, kể từ năm 73, tôi đã tìm cách bắt tay vào tuy có hơi muộn nhưng cũng là chưa muộn màng lắm! Dầu sao, đến năm 75, thì lịch sử đã sang trang! Viện Đại học Đà Lạt nay là một trường đại học của một nền giáo dục xây dựng trên nền tảng lý thuyết Mác-Lê, Giáo Hoàng Học viện nay là cư xá của công nhân viên chức thuộc viện Nghiên cứu hạt nhân!
“Mua vui cũng được một vài trống canh”, suy nghĩ, tán gẫu về đời mình, quả là lếu láo! Thái độ phải có là quỳ gối cúi đầu thờ lạy Thiên Chúa mà dâng lên lời của Gióp: “Lạy Chúa, con đã nói vớ vẩn, đáng ra con phải đưa tay và bịt lấy miệng con!” (Góp 40, 4). “Con xin rút lời con lại… Và sấp mình ăn năn trên đống bụi tro” (Giop 42, 6).
B. Thái độ của “con cưng”:
Có câu rằng: “Hãy coi chừng những kẻ được ơn trở lại, họ dễ đi đến chỗ hợm mình!” Tôi nghĩ mình đã rơi vào khuyết điểm trầm trọng ấy. Trước hết là vị trí của gia đình tôi trước 45 khá cao trong xã hội, bản thân tôi cũng được tiếng là học giỏi, hạnh kiểm tốt, lại được ơn tòng giáo trong một hoàn cảnh đặc biệt của vùng khu 4 năm 1948, nên gia đình, Hội Thánh, kể cả dòng Phan-xi-cô, dành cho tôi một sự chiều chuộng, cưng nuông, dần dần tôi rơi vào chỗ hợm mình, tự đặt cho mình như có cái gì đặc biệt, khác người và “hơn người”! Tôi nghĩ rằng mình đã được “chọn” cách riêng thì chắc là sẽ được Chúa đưa đi theo một con đường nên Thánh đặc biệt. Vì thế cho nên, thay vì tuân giữ những gì chung cho tất cả nhà tập và học viện, tôi đã tự ý tò mò tìm đọc riêng rất nhiều sách dẫn đàng thiêng liêng, trong lúc trình độ thiêng liêng còn quá non nớt. Cái mớ kiến thức sơ sài về triết lý đông tây, làm cho tôi lầm tưởng tôi đã đi khá xa trong đời sống nội tâm!
Tôi đã ngấu nghiến đọc Tanquerey, Dom Marmion, Lallement, Gatry, Condren, Gioan Thánh giá, Jacques Ollier, Bérulle. Tôi đã bội thực về mặt này. Tình trạng càng tệ hại hơn nữa vì nó còn thêm phần hổ lốn thập cẩm là những hiểu biết sơ khai của tôi về Nho, Lão, Phật. Tôi đã có những ước mơ thần hiệp quá sớm, quá vội, vượt quá sức mình, chạy theo những điều mình đã tự ngấu nghiến, không có người hướng dẫn. Có thể nói nơi tôi đã xảy ra hiện tượng gần như là “tẩu hoả nhập ma”!
Đây cũng là kinh nghiệm cho những người được Chúa chọn một cách hơi ngoại lệ, ở những bước đầu, dễ phạm vào cái lỗi “chưa đi đã tưởng mình có sức chạy”. Nhất là trên đường thiêng liêng Kitô giáo thì việc đi như thế nào. Đi đến mức nào, là tuỳ ý Chúa ban ơn kêu gọi, chứ không phải do ý muốn riêng, không phải hễ cứ đọc, cứ học cho nhiều rồi luyện tập là thế nào cũng được và muốn vươn lên đến bậc nào cũng được như thể trong các thần hiệp ngoại giáo tự nhiên (mystique naturelle). Sự hợm mình ấy trong bản chất là cả một truyền thống lâu đời của các “Đạo” giải thoát theo trí lự tự nhiên của con người, mà tiêu biểu nhất là dị thuyết “Ngộ đạo” (Gnosticisme) đã từng tác hại trầm trọng ở các thế kỷ đầu của Hội Thánh ở vùng Cận Đông mà một vị tài đức cao thâm như Origène hình như cũng có mắc phải ít nhiều. Thuốc chữa là một sự khiêm nhường thật sự thâm sâu rộng lòng. Và thuốc chữa ấy thường chỉ có Chúa mới đem lại được cho kẻ mắc phải bằng cách cho vấp ngã nặng nề, rơi vào tận đáy vực sâu, để biết thân, biết phận mà kêu lên lời cầu: “Từ đáy vực sâu, tôi kêu lên cùng Chúa”. Ơn ấy Chúa đã ban cho tôi với những sự cố xảy ra trong hai năm 75 và 76. Cho nên tôi gọi đó là sự trở lại thứ hai của tôi (ma 2e conversion). Năm 75 cùng với năm 49 là hai năm “Đại hồng phúc” của đời tôi.
C. Cuối cùng là: Tệ nạn “duy trí” và “duy cảm” đời sống nội tâm ở nơi tôi có một sự thiếu quân bình: Trí năng và cảm năng thì cao và dồi dào, ngược lại, thể chất và ý chí thì yếu nhược. Như trên đã nói, từ trước 45, tôi học giỏi và mê học. Sau năm 49, tôi không mê học về kiến thức thế trần, nhưng mê học về các chủ trương linh đạo, và lại tự học, tôi đọc ngốn ngấu bao nhiêu là sách viết về đời sống thiêng liêng, thuộc về mọi hệ phái, kể cả thần học! Và tôi đã lầm tưởng rằng nắm được lý thuyết là đủ, và kèm theo những cảm xúc thiêng liêng là đạt rồi! Trong 20 năm trời, tôi chỉ sống đời tu về mặt lý trí (intellectuel) và cảm xúc (affectif) nhiều hơn là một cách thiết thực dựa trên nền tảng ý chí.
Xin trưng ra một việc: tôi đọc rất nhiều sách vở, nghiền ngẫm ở trình độ khá cao về lý thuyết, nhưng tôi không mấy thực hành những điều đã học. Nói cho dễ hiểu thì lý thuyết tương đối khá, còn thực hành thì gần như số không! Suốt 20 năm trời, đời sống thiêng liêng của tôi cứ như những trận mưa rào, chẳng giữ được bao nhiêu nước, chẳng được bao nhiêu hoa quả! Hay ví như nồi nước, cứ từng đợt sôi lên sùng sục rồi lại nguội đi, cứ như thế, cho nên chẳng nấu chín được thực phẩm gì cho đúng phẩm chất. Kết quả chỉ là tích lũy được một mớ kiến thức lý thuyết về đời sống tâm lý tôn giáo, như kiểu tác phẩm “cảm thức tôn giáo của nước Pháp” (Le sentiment religieux en France) của Lm. Henri Bremond. Tóm lại, tôi chỉ là kẻ tự học (autodidacte) về môn thần nhiệm học (Théologie mystique), tự học một cách vô kỷ luật, không thầy, không trường, chẳng kiểm tra thi cử gì cả, mà cũng chẳng thực tập thí nghiệm gì cả! Có thể nói là đã rơi vào cái đại hoạ “đa thư loạn tâm”! Cái đà này mà không có những biến cố năm 75–76 chận đứng lại thì chưa biết tuột dốc xuống vực thẳm nào! Có thể tôi sẽ kết thúc như nhân vật “Linh mục Cénabre” trong tác phẩm của văn hào Bernanos: L’imposture và La joie. Lm. Cénabre thì bị té ngã và mất trí khôn sau khi đọc được hai chữ “Lạy Cha”; còn tôi thì, sau khi tỉnh mộng cậu ấm theo kiểu Vương Quan, tỉnh mộng tiến sĩ, thạc sĩ triết học, lại rơi vào một cuộc “mộng du thần hiệp” mà ơn chúa với những biến cố 75-76 đã đánh thức tôi tỉnh dậy.
Một cái tệ hại của xu hướng “thần hiệp tự nhiên” là cái yếu tố săn tìm “cảm thức thần hiệp” để hưởng thụ như một thứ khoái lạc cao thượng tinh vi (sentir l’union divine au plan psychique), thưởng thức sự thần hiệp ở mức độ “tâm thức” và xem đó như là kết quả tất yếu đạt được do kỹ thuật tu tuyện (như kỹ thuật yoga chẳng hạn) chứ không phải là một ân sủng mà Chúa chỉ ban cho ai tùy Thánh Ý Ngài, nhất là Chúa cũng chỉ ban để làm dấu chỉ khuyến khích nâng đỡ lúc cần thiết, cho thêm vững mà bước đi trong bóng tối của đức Tin đức Cậy ở cuộc đời lữ thứ này mà bản chất vẫn còn là xa cách Mặt Chúa: Sự kiện đối diện tỏ tường mà chỉ có thể có được ở đời sau mà thôi. Đáng lẽ ra, đọc Thánh Gioan Thánh giá tôi phải hiểu như thế, nhưng trước 75 tôi chỉ hiểu về mặt trí tuệ lý thuyết chứ thực tế thì tôi vẫn săn tìm cảm thức “thần hiệp” theo kiểu ngộ đạo (gnostique) tự nhiên như vậy. Đó chính là điều làm cho tôi không được sự ổn định bằng yên trong đời sống nguyện gẫm suốt 20 năm trời không chuyên nhất; tiếp tục một giai đoạn săn tìm cảm thức không đạt, chán rồi bỏ cuộc; bỏ cuộc một thời gian, thấy tiếc nhớ, lại tiếp tục; tiếp tục rồi chán bỏ, rồi lại tiếp tục… Cứ như thế mãi cho đến sau ‘75 mới tỉnh ngộ (nhưng chưa biết đã lành hẳn chưa? Và bao giờ thì lành hẳn! ).
Điều cứu tôi khỏi chìm hẳn là thái độ phó thác theo tinh thần của Thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng: dù có gì đi nữa, tôi vẫn có thái độ “lăn xả vào Lòng từ bi thương xót và Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa”, vào sự cầu bầu của Đức Mẹ và đương nhiên của Thánh Nữ thành Li-di-ơ mà tôi tin chắc là luôn luôn gìn giữ tôi qua mỗi bước chìm nổi của cuộc đời về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, có nhiều lúc trên gầm trời siêu nhiên của tôi chỉ còn lấp lánh một ngôi sao nhỏ ở Li-di-ơ mà thôi, còn nữa thì chỉ dầy đặc sương mù!
Sự kỳ diệu là ở chỗ này: Cơn mộng du thần hiệp cũng đã đem lại một vài sở đắc, mà khi hồi tỉnh cũng có thể có công dụng, đó là một kinh nghiệm sống về một cuộc đời đơn độc. Chính vì thế mà ngay từ đầu tôi đã có ám chỉ đến 40 năm trong sa mạc của Dân Chúa sau khi vượt qua Biển Đỏ. Sau khi rửa tội và ra khỏi năm nhà tập, tôi như được đưa vào một sa mạc cô liêu trong tận đáy tâm hồn: một mình, không bạn, không thầy, vật lộn với đủ thứ, mà chỉ có một lòng tin vào sự phù trợ đặc biệt của bà chị thiêng liêng là Tê-rê-sa Hài đồng, dĩ nhiên là ngoài Thiên Chúa và Đức Mẹ ra!
Trên kia tôi đã dùng kiểu nói “Lạc bước miền Nam”. Hai chữ “lạc bước” ở đây không bao hàm đánh giá về xã hội, chính trị của miền Nam (mà tôi vốn sống ngoài lề, như ngoài lề bất cứ chế độ trần gian nào kể từ ngày tôi được ơn trở nên con cái Thiên Chúa trong Hội Thánh Công giáo), nhưng chính là lạc bước trong cơn mộng du thần hiệp mà tôi đã phác hoạ qua vài nét chính. Trong cơn mộng du khá dài ấy có thể có một điểm thuộc về lý do ngoại tại, khách quan: Các hình thức dòng tu cổ điển ở Âu Tây với quy chế chặt chẽ, với qui mô rộng lớn không phù hợp khao khát sâu xa của hồn tôi vốn như hướng tới một hình thức “Động tiên”, “Am mây”, “Lều cỏ” mà tôi nghĩ rằng có lẽ xưa kia tiên tri Elia cũng như về sau này các vị sáng lập tiên khởi ở trên đỉnh núi Cát Minh (trước khi dòng Cát Minh chưa phải di tản sang Âu Tây vào thế kỷ 12) đã sống, mà tinh thần còn phảng phất trong tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá. Và tôi cũng được nếm qua mùi vị chỉ chỉ có mấy tháng ở dưới mái tu viện nhỏ trên bờ con suối nhỏ ở một vùng quê khá hẻo lánh ở miền Bắc nước Pháp. Thời gian ấy là một cuộc thử nghiệm quá ngắn ngủi, mà lúc trở về Việt Nam tôi đã thiếu sáng kiến hoặc thiếu quả quyết tự thực hiện lấy một mình thử xem sao; thay vì như thế, tôi đã để mình bị lôi cuốn vào một sinh hoạt văn hoá giáo dục nửa vời (về phía tôi) hơi nặng tính cách tài tử trong một xã hội có số phận mong manh và vắn vỏi để rồi tất cả đều bị “cuốn theo chiếu gió” trong cơn lốc đã thổi mạnh trên đất nước Việt Nam này gần nửa thế kỷ vừa qua!
Rồi trong cơ chế xã hội mới thực ra tôi vẫn sống bên lề, trôi dạt từ trại cải tạo Sông Mao, hai năm lao động làm vườn sản xuất, hai năm ở Mặt trận Tổ Quốc, năm năm ở Ủy ban Khoa học Kỹ thuật, cho đến ngày hôm nay vẫn là bên lề và trôi dạt: Ở nhà tập thể cơ quan, trồng cây nuôi cá tại khu rẫy của một sinh viên cũ nhường cho, ghé tạm vào để nương náu tuổi già. Chỉ có cái khác là không còn “mộng du” nữa, mà hình như được nối tiếp lại những ngày đầu của ơn Thánh Tẩy của những năm ’49 – 50, dưới một chế độ chính trị và xã hội cũng như thời gian ấy! Một câu hỏi nẩy ra trong thâm tâm tôi: Phải chăng giữa đời sống thiêng liêng của tôi với chế độ chính trị và xã hội ấy có một cái gì gắn chặt sâu xa? Nói trắng ra là thế này: Chúa Giêsu mà tôi, yêu Hội Thánh mà tôi ẵm nhận làm gia đình thiêng liêng, chính là một Chúa Giêsu, một Hội Thánh tôi được gặp gỡ giây phút đầu tiên trong cái khí quyển của khu 4 năm '45 - 49. Hình như sau '75, tôi được hồi sinh về thiên liêng vì tôi gặp lại được hình dáng của Chúa Giêsu và hình dáng của Hội Thánh mà tôi đã gặp thuở ban đầu khi tôi cúi đầu trên giếng nước rửa tội! “Cái thuở ban đầu lưu tuyến ấy!”, cái hình ảnh đáng yêu ấy hình như có phần mờ nhạt khi tôi phải sống trong một chế độ khác với thời điểm 1945-49, tôi xin dùng một hình ảnh: Tôi yêu một thiếu nữ lúc cô ta còn là một thôn nữ - áo tứ thân, khăn mỏ quạ, tóc đuôi gà, miệng ăn trầu cắn chỉ; sau tôi cùng cô ấy ra thành thị, cô ta - uốn tóc, mặc áo Lemur, tô son điểm phấn v.v… Tự nhiên tôi như phai nhại mối tình đầu (có thể là do tôi chạy theo các cô thành thị khác, mà cũng có thể cô ta bớt vẻ kiều diễm dưới lớp y trang thành thị); thế rồi nay tôi lại được cùng cô ấy trở về nơi thôn dã, tôi như lại được sống lại mối tình đầu - lúc chúng tôi trao duyên gởi phận, bên bờ ao, có cành khế hoa tím rụng rơi trên những cánh bèo! - Có phải thế chăng, hỡi cô thôn nữ tôi yêu? Chỉ ở nông thôn, nét kiều diễm của cô mới còn nguyên vẹn và tình tôi mới trở lại vẹn nguyên chăng? Ôi! Ai biết được mầu nhiệm của Tình yêu??!! Và nếu trên kia tôi mượn lời Gióp, thì ở đây tôi xin mượn lời của Gio-an Thánh giá mà rằng:
“Tôi lặng yên trong quên lãng
Cúi mặt nhìn xuống người yêu
Tất cả đều ngưng đọng lại.
Và tôi cứ như vậy
Buông thả mối ưu tư,
Giữa những cành hoa huệ, tôi đã bị lãng quên rồi”.
(Khúc cuối của bài thơ “Lên đỉnh Cát Minh”)
Từ cuối đêm 26 rạng ngày 27 tháng 8 năm 1976, đêm đầu tiên tôi trở về lại Đà Lạt sau 16 tháng cải tạo, tại nhà Hòa Lạc của Đại học Đà Lạt, tôi quỳ gối phỏng ý bài thơ “Lên đỉnh Cát Minh”, ghi lại những dòng sau đây:
“Đêm nay mới thật là đêm
Bao năm lạc bước êm đềm về đây
Về đây sau những tháng ngày
Đau thương phúc lạc tràn đầy cả hai
Bắt đầu tất cả đêm nay:
Bình an, phúc lạc, an bình, bình an”.
Và sau mấy câu thơ ấy, tự nhiên tôi thay đổi chữ ký.
Trước thì: [chỗ này có chữ ký]
Nay đổi sang như sau: [chữ ký]
Sự thay đổi tự nhiên bột phát đêm hôm ấy có phải chăng là dấu hiệu tôi bước sang một giai đoạn mới, hoàn toàn mới của cuộc đời? Sự thay đổi mà trước kia đã bao nhiêu người khuyên tôi, vì họ cho chữ ký cũ là rất xấu và rất nguy, nhưng tôi đã nhất định không chịu nghe. Đêm ấy tự nhiên, gần như một cách vô thức, vô định ý, tôi đổi chữ ký, một việc làm mà tôi không hiểu do đâu, mà chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên!
Và quả thực, cuộc đời tôi đổi mới hoàn toàn.
Trên đây tôi có viết “giấc mơ dài từ 51-75”. Lấy năm 51 vì lý do tôi vào Nam; nhưng thực tế, thì từ năm 51-54, tôi sống trong dòng tu, tách biệt khỏi thế tục, cuộc sống tôi những năm ấy ở Nha Trang chẳng khác gì những năm ở Vinh (có khác là đời sống vật chất, nhất là bữa ăn, có khá hơn một tí; tôi có đèn điện để học bài, đọc kinh; thỉnh thoảng được di chuyển bằng xe có động cơ), cuộc sống thực sự thay đổi là từ ngày tôi bị động viên cưỡng bách tòng quân năm 54, cho đến ngày quân đội chính phủ miền Nam rút khỏi Đà Lạt năm 75; hai mươi mốt năm trời khởi đầu bằng hai sự việc thế trần, có liên hệ với nhau do tình thế của đất nước; sự kiện tôi bị động viên, sự kiện tôi đi học tập cải tạo. Sự kiện tôi bị động viên hoàn toàn trái ngược với ý muốn, trái với bản chất con người tôi, phá ngang cả một hướng đời - Bởi vì, nếu không bị động viên thì cuối năm 54, tôi đã khấn trọn đời trong dòng Phanxicô, tôi sẽ như các anh em cùng vào tập tu với tôi năm 51 ở Vinh, sẽ tuần tự tiến lên và nay mai sẽ nhắm mắt trong bộ áo tu màu nâu của vị Thánh nghèo khó! Đành rằng, năm 56 tôi có trở lại đời tu, rồi đã rời bỏ, năm 63 trở lại một lần nữa rồi lại rời bỏ. Sau cuộc giải phóng năm 75, tôi vừa có lời ướm hỏi, gợi ý xa xôi với Tòa Giám mục Đà Lạt thì bị chận đứng vì học tập cải tạo, một việc cũng hoàn toàn bất ngờ, có cái gì kỳ lạ, mà chưa ai giải thích rõ ràng là vì lý do nào; vì bấy giờ, một là đi học tập vì lý do chính trị, hai là không; chứ đã giải ngũ năm 1956 mà đi học tập với tư cách sĩ quan là sai chính sách!!
Trong lần rời khỏi dòng Phanxicô năm 56 và lần rời khỏi dòng Biển Đức năm 63 là do tôi quyết định, nhưng bị động viên năm 54 và bị đi cải tạo năm 75 là hoàn toàn do sự kiện bên ngoài! Tôi tuôn tự hỏi tôi đã đánh mất ơn kêu gọi hay tôi đã rõ ràng là không có ơn kêu gọi tu trì mà vẫn ngoan cố đeo đuổi, nên không hết lòng dấn thân trọn vẹn trên con đường sinh hoạt văn hóa thế trần (không làm xong luận án triết học, không chịu viết giáo trình, không chịu trước tác???). 21 năm trời dang dở, chẳng làm nên bất cứ công việc nào cả! Hay là? Có một linh mục bạn nói, ơn kêu gọi của cậu là suốt đời dang dở!!! Hoặc như linh mục Nguyễn Bình An nói: “hay là anh sẽ như Benoit joseph Labre”, tu dòng nào cũng không được, cuối cùng lang thang và hành khất???
Hành hương thì quả tôi có viếng: Lộ Đức hai lần, Lidiơ hai lần, vương cung thánh đường Thánh Tâm ở Montmartre và nguyện đường Nữ tử dòng bác ái ở Ruu Du Bac nhiều lần, nhà thờ La Vang một lần, nhà thờ Fatima Bình Triệu, dòng Cát Minh ở thành phố Hồ Chí Minh cũng khá nhiều lần, nguyện đường Đức Mẹ hiển thắng ở Paris hai lần, nguyện đường “Corpus Christi” của nhà mẹ dòng Thánh Thể khá nhiều lần, nguyện đường của nhà mẹ dòng Lazaristes ở Paris vài lần, nhà thờ Đức Bà Chartres ở Pháp hai lần, thánh đường thánh Benoit trên bờ sông Loire một lần.
Còn hành khất thì, từ năm 1975, thực tình cũng có nhiều lần đã đến nhà người quen chờ bữa ăn để được mời ăn, vì đã hết cái ăn ở nhà! Và tuy không trực tiếp ngửa tay xin ai, nhưng nếu không có một số ân nhân thỉnh thoảng bố thí thì có lúc “thật là đói rét”, quần áo tôi mặc hiện nay thực tế cũng hoàn toàn là do của bố thí! Và mặc dầu, hiện nay tôi cố gắng xây dựng vườn cây ao cá, mong tự lực cánh sinh, nhưng có lẽ chỉ được phần nào thôi, chứ rồi cũng một phần nhờ vào khách thập phương. Chính vốn liếng làm được vườn cây ao cá cũng là do ân nhân giúp đỡ! Tuy nhiên, Benoit Joseph Labre là tình nguyện hành khất; còn tôi là bị dồn vào thế kẹt! Vả lại, cũng do mấy năm làm ra tiền không biết dành dụm, vung tay quen thói bốc trời, thậm chí, như tôi đã ghi trên, sau năm 1975 còn mắc nợ kha khá!
Tôi xin đi đến kết tuận; năm 75 tôi như đứa con hoang đàng về nhà cha, sau khi phung phá bao nhiêu của cải mà Chúa đặt vào tay tôi; vật chất có, trí tuệ có, thiêng liêng có, trở về với hai bàn tay không, theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng! Đôi túc tôi tự nghĩ, ví dụ cái đêm 30-3-75 dưới đường mương, một viên đạn lạc xuyên qua ngực, đưa tôi ra khỏi đời này thì tôi sẽ thưa với Chúa làm sao? Và nếu cứ kéo dài cuộc đời nửa nạc nửa mở “hâm hẩm” như trước 75 cho đến mãn đời thì cũng bị Chúa mửa ra mà thôi! Càng ngày tôi càng thấm thía trong câu kinh cảm tạ “Chúa đã cứu tôi khỏi chết tươi ăn năn chẳng kịp”, quả là ơn vô cùng trọng đại! Mỗi lần đọc câu ấy ta nên ngưng lại suy gẫm hồi lâu, để xem ta thoát cái đại họa ấy bao nhiêu lần, một mặt để ý thức thêm về ơn Chúa đã cứu thoát ta trong quá khứ, mặt khác để đề phòng cảnh giác nghiêm túc hơn cho tương lai: một chuyến xe lật, một ngọn gió độc, một cơn dịch tả v.v… đủ đưa ta ra trước mặt Chúa một cách bất ngờ. Chính Chúa đã căn dặn về điều vô cùng quan trọng ấy rất nhiều lần! Xin thú nhận là suốt 21 năm trời, từ 54 đến 75, tôi quả đã quên bẵng đi lời nhắc nhở của Chúa về việc “tuôn tỉnh thức và cầu nguyện”, xin ghi lại bài học ấy để anh chị em độc giả cũng ôn lại kẻo quên, kẻo vô cùng nguy hiểm tai hại!
Có vị linh mục an ủi tôi rằng: “không đâu, có lẽ anh đã đi theo đúng con đường dang dở như Chúa dắt anh đi đó!” Có lẽ là vì thương tôi, vị ấy an ủi tôi để tôi an tâm: “Chứng cớ là anh tuôn tuôn khao khát một đời tu trì chiêm niệm thần hiệp, tại anh không tìm ra đó thôi; và biết đâu Chúa gọi anh theo một kiểu tu trì mới mà anh phải dày công tìm kiếm! Có thể đó là một hình thức tương tự như của Benoit Joseph Labre, nhưng kín đáo âm thầm hơn, một kiểu “ẩn tu” ở giữa đời, “ẩn tu” trong chính lòng mình!”. Lý do ấy, theo tôi nghĩ, không phải là lý do thực sự đã đưa đời tôi chìm nổi dở dang trên 20 năm trời. Tôi nghĩ rằng 20 năm trôi dạt dang dở của tôi, cũng chẳng khác gì 40 năm của Dân chúa sau khi vượt qua Biển Đỏ, còn phải lạc lõng qua sa mạc, mới có thể gột cho thật sạch những gì đã huấn tập lâu đời trong đất Ai Cập! Dưới dạng này dạng kia, chính tôi cũng còn chờn vờn, nghiêng ngửa như dân Do thái: khi thì thờ bò vàng, khi thì đòi trở lại Ai cập, tiếc nuối củ hành củ tỏi, vòi vĩnh chim cút và man-na. Môsê thì nghi ngờ gõ lên tảng đá ở Mê-ri-ba 2 cái thay vì 1 cái như Chúa bảo. Còn tôi cũng đã nhiều lần chần chờ như vậy! Môsê không được vào đất hứa, thì tôi không được dâng mình cho Chúa với lời khấn trọn đời hay với cái bước dấn thân bước qua ngưỡng chức phó tế, âu là “đáng đời”! Và làm sáng tỏ thêm sự “Công chính”, sự “Thánh thiện” của Thiên Chúa không thể thoả hiệp với cái “nửa vời”, với cái “lợn cợn”. Rồi còn từ 1975 cho đến cuối đời, nếu tôi biết bền đỗ với “cuộc trở lại thứ hai” và được Chúa ban cho làm được chút gì phụng sự Chúa và phục vụ anh em, thì đó là Chúa bày tỏ “lòng xót thương vô hạn” của Chúa, và “quyền năng vô cùng” của Chúa. Chúa xót thương nên không chấp 20 năm “lợn cợn” của hồn tôi; Chúa quyền năng nên đã biến đổi một điều lẽ ra đã hoàn toàn hỏng, đáng vất đi, thì lại vẫn sửa chữa lại được, có thể dùng tạm vào một việc gì đó để không đến nỗi hoàn toàn vô dụng. Chúa vẫn cư xử như thế để chúng ta tuôn tuôn cậy trông và phó thác, dù chúng ta có lỡ sa chìm đến mức nào đi nữa, như Thánh Gioan đã dạy: “Nếu lòng ta có lên án ta, thì lòng Chúa còn rộng rãi hơn lòng ta”.
Sau khi đã khẳng định chân lý ấy, tôi xin được phân tích phô bày sự “lợn cợn” của tôi, và dự đoán: phải chăng Chúa đã tỏ quyền năng của Ngài bằng cách biến chính cái “lợn cợn” đáng lẽ phải vứt bỏ đi ấy trở thành có thể hữu dụng chút nào đó chăng?
Tôi nghĩ rằng lý do căn bản sâu xa nhất là ở điểm này: trong hai câu “Ai mệt nhọc hãy đến cùng Ta”, và “Ai theo Ta, hãy vác thập giá mà theo Ta”, hình như tôi chỉ thực sự nghe câu thứ nhất, còn câu thứ hai chẳng khác nào lý thuyết suông thôi! Quả vậy, tôi chỉ chạy đến với Chúa để tìm an ủi (dù là an ủi thiêng liêng, thì cũng chỉ là an ủi cho mình), chứ tôi chưa hề tự nguyện nhỏ một giọt mồ hôi nào vì danh Chúa cả! Các sự đau đớn toàn là do bên ngoài đưa đến chứ không phải là tôi tự đi tới đón gặp chúng, vì để tìm gặp Chúa, hình như Chúa phải dùng đến chúng để hầu như buộc tôi phải “giáp mặt”, “đụng trận” với chúa! Vì nếu không thì tôi cứ mải mê chạy theo, đuổi bắt những hoa những bướm ở dọc đường mà quên đi mục đích thuở ban đầu là gặp Chúa! Nói tóm lại suốt 20 năm, tôi vẫn tìm chính mình tôi (recherche de soi camouflée) dưới dạng này hay dạng khác, dù là đang tìm một đường tu trì, chứ không phải là thực sự tinh tuyền tìm Chúa (recherche de Dieu). Nói cách khác, hồn tôi, lòng tôi còn quá nhiều lợn cợn không thật tinh thuần (pureté de coeur).
Vả chăng, âu đó là quy tuật: từ một thế giới xa lạ bước vào Nước Chúa, làm sao cho hết “lợn cợn” ngay được, nhất là những cái lợn cợn khá tinh vi! Quả vậy, như tôi đã nói ở trên kia: Danh, Lợi, Sắc không mê hoặc được tôi! Nhưng một cái nguy hiểm hơn, cái “tôi” vẫn còn chiếm hữu chính mình tôi. Danh, lợi, sắc chẳng qua là ngoại vật tương đối! Còn chính cái “tôi” mới là vô cùng độc hại, vì nó tuôn tuôn dính liền, bám sát bản nhân mình. Sau đây tôi xin mô tả phân tích cái tôi ấy để anh chị em được thấy phần nào kẻ thù chung của chúng ta. Cái tôi của mỗi người mỗi khác, nhưng giống nhau ở chỗ nó đều là cái tôi “không chịu nhường ngôi cho Thiên Chúa và tha nhân”.
A. Trước hết là trong vấn đề tu trì:
Về mặt tri thức tuận lý, tôi vẫn biết “đi tu” hiểu theo Kitô giáo là đáp lại, chạy theo tiếng gọi Tình yêu Thiên Chúa đến nỗi rứt bỏ mối dây ràng buộc, dính bén, luyến ái. Những điều mà người ta rứt bỏ là những giá trị thật sự (vì mọi thụ tạo tự nó đều là tốt) mà người ta muốn khước từ Tình yêu, để có thể rảnh rang mà yêu thương, như thể làm bằng chứng cho sức mạnh của tình yêu mình dành cho Thiên Chúa, nói cách khác người ta muốn hy sinh những giá trị ấy, dâng nó lên cho Thiên Chúa như những của quý giá làm vật tế lễ, chứ không phải là khinh chê như những vật vô giá trị. Ví dụ, Thánh nữ Têrêxa ở thành A-vi-la rứt bỏ sự trìu mến của gia đình, nhất là “những anh em họ” cùng trang lứa, quấn quít bên mình. Phan-xi-cô Xa-vi-ê rứt bỏ sự nghiệp Đại học Hàn lâm ở Paris. Tê-rê-sa Hài Đồng rứt bỏ tình phụ tử vô cùng khắng khít, sâu đậm đối với thân phụ. Còn phần tôi! Tôi chưa hề cảm nghiệm một sự rứt bỏ nào như thế. Những sự thế gian đã rời khỏi tôi trước khi tôi tìm Chúa! Chẳng hạn:
- Về gia đình: Thực sự từ năm 46 trở đi, tôi không còn nhận gì từ gia đình và gia đình cũng không còn chờ đợi gì được ở tôi nữa: hoàn cảnh gia đình đã xô tôi ra khỏi gia đình rồi! So sánh trường hợp tôi với trường hợp linh mục Nguyễn Văn Thích (con của cụ Thượng Nguyễn Văn Mại và linh mục Bửu Dưỡng (con cụ Thượng Ưng Trình) thật khác xa! túc hai vị ấy rời bỏ gia đình thì gia đình còn ở bậc quyền quí cao sang! Suy gẫm lại, tôi tìm đến cộng đoàn Công giáo phần nào cũng như con chim khi bị bão tố phá vỡ tổ ấm của tôi (là gia tộc và xóm làng kiểu trước 45) đi tìm một tổ ấm khác còn tồn tại (và tôi biết sẽ còn tồn tại mãi trong cơn bão táp!)
- Về học vấn: đâu có phải tôi rời bỏ một sự nghiệp Đại học đầy hứa hẹn như linh mục Nguyễn Văn Hòa (dòng Đa Minh) để đi tu; trái lại, khi tôi đặt chân đến Sorbonne, tôi đã chán ngay cái học sách vở rồi! Chứ nếu ngay sau khi đậu tú tài mà tôi “chộp” được món quà “Sorbonne” thì chắc gì tôi đã dám hy sinh cái học vị tiến sĩ, thạc sĩ triết học để đi tu? Đàng này, ngược lại có thể là tôi đã không biết “vâng theo ý Chúa” để cố gắng đạt cho xong cái bằng tấn sĩ, thạc sĩ triết; như linh mục Nguyễn Bình An nhấn mạnh khi khuyên tôi ở lại Pháp ghi danh học Đại học (trong khi ở một trường hợp tương tự, thân phụ của thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng đã biết nghe lời cha linh hướng, sống đầy đủ bậc vợ chồng, đem lại cho Hội Thánh một vị đại Thánh và 4 nữ tu thánh thiện!).
- Về danh lợi: Tôi không rời bỏ địa vị trần gian để theo chúa, bởi vì Cách mạng 45, đảo chính 63 v.v… đã cho tôi thấy mọi sự là hư không, vanitas vanitatis vanilatum rồi! Biết đâu, đáng lẽ ra tôi phải cố gắng nhận lấy một chức vị nào đó dù là ớn ngấy (như Thánh Lu-i IX trên ngai vàng vậy? Thánh Thomas More chẳng là một vị thượng quan đó sao?
- Về nữ sắc: Truyền thống Nho giáo coi việc lập gia đình là chủ yếu để nối dõi tông đường, cho nên nếu vì xã hội xáo trộn đảo điên mà không chịu lập gia đình thì chỉ là trốn tránh trách nhiệm chứ không phải là hy sinh cao quý gì cả! Sống độc thân có cái khó khăn là phải tự chế, nhưng cũng chỉ là “cho mình” đấy thôi, chẳng phải là “rứt bỏ” luyến ái vì Chúa, vì tha nhân…
Suy cho cùng, trên thực tế, về cảm nghiệm bản thân, tôi đã đi tìm đời tu theo tinh thần “hiền triết”, “đạo gia” ngoại giáo, tìm giải thoát khỏi mọi vấn vương hệ lụy “cho mình”, chứ không có gì là hy sinh làm của lễ tế hiến dâng cho Thiên Chúa để phục vụ cho Hội Thánh và tha nhân cả! Ngày nay, càng suy gẫm tôi cảm nghĩ rằng có lẽ điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi tôi là hy sinh chính cái mộng tu trì kiểu ngoại giáo ấy. Chẳng vậy mà tôi hễ cứ nhào vào dòng tu nào là y như bị dội ra! Một số người thấy rõ tâm tư tôi nên gọi tôi là “trích tiên” (moine manqué), có lẽ tôi quá ham, quá mê đời tu kiểu ngoại giáo (thoát tục, tị thế) nên Chúa đã khước từ.
“Phải chăng, đáng lẽ tôi phải biết như thế để bỏ cái ham mê ấy mà cố gắng tạo một sự nghiệp văn hoá thế tục trần gian. Tôi chỉ hỏi thế thôi, chứ với sự giải thể Viện Đại học Công giáo Đà Lạt năm 75 thì cũng chưa rõ ý Chúa mầu nhiệm muốn gì, bởi vì như tôi đã ghi ở trên, kể từ năm 73, tôi đã tìm cách bắt tay vào tuy có hơi muộn nhưng cũng là chưa muộn màng lắm! Dầu sao, đến năm 75, thì lịch sử đã sang trang! Viện Đại học Đà Lạt nay là một trường đại học của một nền giáo dục xây dựng trên nền tảng lý thuyết Mác-Lê, Giáo Hoàng Học viện nay là cư xá của công nhân viên chức thuộc viện Nghiên cứu hạt nhân!
“Mua vui cũng được một vài trống canh”, suy nghĩ, tán gẫu về đời mình, quả là lếu láo! Thái độ phải có là quỳ gối cúi đầu thờ lạy Thiên Chúa mà dâng lên lời của Gióp: “Lạy Chúa, con đã nói vớ vẩn, đáng ra con phải đưa tay và bịt lấy miệng con!” (Góp 40, 4). “Con xin rút lời con lại… Và sấp mình ăn năn trên đống bụi tro” (Giop 42, 6).
B. Thái độ của “con cưng”:
Có câu rằng: “Hãy coi chừng những kẻ được ơn trở lại, họ dễ đi đến chỗ hợm mình!” Tôi nghĩ mình đã rơi vào khuyết điểm trầm trọng ấy. Trước hết là vị trí của gia đình tôi trước 45 khá cao trong xã hội, bản thân tôi cũng được tiếng là học giỏi, hạnh kiểm tốt, lại được ơn tòng giáo trong một hoàn cảnh đặc biệt của vùng khu 4 năm 1948, nên gia đình, Hội Thánh, kể cả dòng Phan-xi-cô, dành cho tôi một sự chiều chuộng, cưng nuông, dần dần tôi rơi vào chỗ hợm mình, tự đặt cho mình như có cái gì đặc biệt, khác người và “hơn người”! Tôi nghĩ rằng mình đã được “chọn” cách riêng thì chắc là sẽ được Chúa đưa đi theo một con đường nên Thánh đặc biệt. Vì thế cho nên, thay vì tuân giữ những gì chung cho tất cả nhà tập và học viện, tôi đã tự ý tò mò tìm đọc riêng rất nhiều sách dẫn đàng thiêng liêng, trong lúc trình độ thiêng liêng còn quá non nớt. Cái mớ kiến thức sơ sài về triết lý đông tây, làm cho tôi lầm tưởng tôi đã đi khá xa trong đời sống nội tâm!
Tôi đã ngấu nghiến đọc Tanquerey, Dom Marmion, Lallement, Gatry, Condren, Gioan Thánh giá, Jacques Ollier, Bérulle. Tôi đã bội thực về mặt này. Tình trạng càng tệ hại hơn nữa vì nó còn thêm phần hổ lốn thập cẩm là những hiểu biết sơ khai của tôi về Nho, Lão, Phật. Tôi đã có những ước mơ thần hiệp quá sớm, quá vội, vượt quá sức mình, chạy theo những điều mình đã tự ngấu nghiến, không có người hướng dẫn. Có thể nói nơi tôi đã xảy ra hiện tượng gần như là “tẩu hoả nhập ma”!
Đây cũng là kinh nghiệm cho những người được Chúa chọn một cách hơi ngoại lệ, ở những bước đầu, dễ phạm vào cái lỗi “chưa đi đã tưởng mình có sức chạy”. Nhất là trên đường thiêng liêng Kitô giáo thì việc đi như thế nào. Đi đến mức nào, là tuỳ ý Chúa ban ơn kêu gọi, chứ không phải do ý muốn riêng, không phải hễ cứ đọc, cứ học cho nhiều rồi luyện tập là thế nào cũng được và muốn vươn lên đến bậc nào cũng được như thể trong các thần hiệp ngoại giáo tự nhiên (mystique naturelle). Sự hợm mình ấy trong bản chất là cả một truyền thống lâu đời của các “Đạo” giải thoát theo trí lự tự nhiên của con người, mà tiêu biểu nhất là dị thuyết “Ngộ đạo” (Gnosticisme) đã từng tác hại trầm trọng ở các thế kỷ đầu của Hội Thánh ở vùng Cận Đông mà một vị tài đức cao thâm như Origène hình như cũng có mắc phải ít nhiều. Thuốc chữa là một sự khiêm nhường thật sự thâm sâu rộng lòng. Và thuốc chữa ấy thường chỉ có Chúa mới đem lại được cho kẻ mắc phải bằng cách cho vấp ngã nặng nề, rơi vào tận đáy vực sâu, để biết thân, biết phận mà kêu lên lời cầu: “Từ đáy vực sâu, tôi kêu lên cùng Chúa”. Ơn ấy Chúa đã ban cho tôi với những sự cố xảy ra trong hai năm 75 và 76. Cho nên tôi gọi đó là sự trở lại thứ hai của tôi (ma 2e conversion). Năm 75 cùng với năm 49 là hai năm “Đại hồng phúc” của đời tôi.
C. Cuối cùng là: Tệ nạn “duy trí” và “duy cảm” đời sống nội tâm ở nơi tôi có một sự thiếu quân bình: Trí năng và cảm năng thì cao và dồi dào, ngược lại, thể chất và ý chí thì yếu nhược. Như trên đã nói, từ trước 45, tôi học giỏi và mê học. Sau năm 49, tôi không mê học về kiến thức thế trần, nhưng mê học về các chủ trương linh đạo, và lại tự học, tôi đọc ngốn ngấu bao nhiêu là sách viết về đời sống thiêng liêng, thuộc về mọi hệ phái, kể cả thần học! Và tôi đã lầm tưởng rằng nắm được lý thuyết là đủ, và kèm theo những cảm xúc thiêng liêng là đạt rồi! Trong 20 năm trời, tôi chỉ sống đời tu về mặt lý trí (intellectuel) và cảm xúc (affectif) nhiều hơn là một cách thiết thực dựa trên nền tảng ý chí.
Xin trưng ra một việc: tôi đọc rất nhiều sách vở, nghiền ngẫm ở trình độ khá cao về lý thuyết, nhưng tôi không mấy thực hành những điều đã học. Nói cho dễ hiểu thì lý thuyết tương đối khá, còn thực hành thì gần như số không! Suốt 20 năm trời, đời sống thiêng liêng của tôi cứ như những trận mưa rào, chẳng giữ được bao nhiêu nước, chẳng được bao nhiêu hoa quả! Hay ví như nồi nước, cứ từng đợt sôi lên sùng sục rồi lại nguội đi, cứ như thế, cho nên chẳng nấu chín được thực phẩm gì cho đúng phẩm chất. Kết quả chỉ là tích lũy được một mớ kiến thức lý thuyết về đời sống tâm lý tôn giáo, như kiểu tác phẩm “cảm thức tôn giáo của nước Pháp” (Le sentiment religieux en France) của Lm. Henri Bremond. Tóm lại, tôi chỉ là kẻ tự học (autodidacte) về môn thần nhiệm học (Théologie mystique), tự học một cách vô kỷ luật, không thầy, không trường, chẳng kiểm tra thi cử gì cả, mà cũng chẳng thực tập thí nghiệm gì cả! Có thể nói là đã rơi vào cái đại hoạ “đa thư loạn tâm”! Cái đà này mà không có những biến cố năm 75–76 chận đứng lại thì chưa biết tuột dốc xuống vực thẳm nào! Có thể tôi sẽ kết thúc như nhân vật “Linh mục Cénabre” trong tác phẩm của văn hào Bernanos: L’imposture và La joie. Lm. Cénabre thì bị té ngã và mất trí khôn sau khi đọc được hai chữ “Lạy Cha”; còn tôi thì, sau khi tỉnh mộng cậu ấm theo kiểu Vương Quan, tỉnh mộng tiến sĩ, thạc sĩ triết học, lại rơi vào một cuộc “mộng du thần hiệp” mà ơn chúa với những biến cố 75-76 đã đánh thức tôi tỉnh dậy.
Một cái tệ hại của xu hướng “thần hiệp tự nhiên” là cái yếu tố săn tìm “cảm thức thần hiệp” để hưởng thụ như một thứ khoái lạc cao thượng tinh vi (sentir l’union divine au plan psychique), thưởng thức sự thần hiệp ở mức độ “tâm thức” và xem đó như là kết quả tất yếu đạt được do kỹ thuật tu tuyện (như kỹ thuật yoga chẳng hạn) chứ không phải là một ân sủng mà Chúa chỉ ban cho ai tùy Thánh Ý Ngài, nhất là Chúa cũng chỉ ban để làm dấu chỉ khuyến khích nâng đỡ lúc cần thiết, cho thêm vững mà bước đi trong bóng tối của đức Tin đức Cậy ở cuộc đời lữ thứ này mà bản chất vẫn còn là xa cách Mặt Chúa: Sự kiện đối diện tỏ tường mà chỉ có thể có được ở đời sau mà thôi. Đáng lẽ ra, đọc Thánh Gioan Thánh giá tôi phải hiểu như thế, nhưng trước 75 tôi chỉ hiểu về mặt trí tuệ lý thuyết chứ thực tế thì tôi vẫn săn tìm cảm thức “thần hiệp” theo kiểu ngộ đạo (gnostique) tự nhiên như vậy. Đó chính là điều làm cho tôi không được sự ổn định bằng yên trong đời sống nguyện gẫm suốt 20 năm trời không chuyên nhất; tiếp tục một giai đoạn săn tìm cảm thức không đạt, chán rồi bỏ cuộc; bỏ cuộc một thời gian, thấy tiếc nhớ, lại tiếp tục; tiếp tục rồi chán bỏ, rồi lại tiếp tục… Cứ như thế mãi cho đến sau ‘75 mới tỉnh ngộ (nhưng chưa biết đã lành hẳn chưa? Và bao giờ thì lành hẳn! ).
Điều cứu tôi khỏi chìm hẳn là thái độ phó thác theo tinh thần của Thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng: dù có gì đi nữa, tôi vẫn có thái độ “lăn xả vào Lòng từ bi thương xót và Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa”, vào sự cầu bầu của Đức Mẹ và đương nhiên của Thánh Nữ thành Li-di-ơ mà tôi tin chắc là luôn luôn gìn giữ tôi qua mỗi bước chìm nổi của cuộc đời về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, có nhiều lúc trên gầm trời siêu nhiên của tôi chỉ còn lấp lánh một ngôi sao nhỏ ở Li-di-ơ mà thôi, còn nữa thì chỉ dầy đặc sương mù!
Sự kỳ diệu là ở chỗ này: Cơn mộng du thần hiệp cũng đã đem lại một vài sở đắc, mà khi hồi tỉnh cũng có thể có công dụng, đó là một kinh nghiệm sống về một cuộc đời đơn độc. Chính vì thế mà ngay từ đầu tôi đã có ám chỉ đến 40 năm trong sa mạc của Dân Chúa sau khi vượt qua Biển Đỏ. Sau khi rửa tội và ra khỏi năm nhà tập, tôi như được đưa vào một sa mạc cô liêu trong tận đáy tâm hồn: một mình, không bạn, không thầy, vật lộn với đủ thứ, mà chỉ có một lòng tin vào sự phù trợ đặc biệt của bà chị thiêng liêng là Tê-rê-sa Hài đồng, dĩ nhiên là ngoài Thiên Chúa và Đức Mẹ ra!
Trên kia tôi đã dùng kiểu nói “Lạc bước miền Nam”. Hai chữ “lạc bước” ở đây không bao hàm đánh giá về xã hội, chính trị của miền Nam (mà tôi vốn sống ngoài lề, như ngoài lề bất cứ chế độ trần gian nào kể từ ngày tôi được ơn trở nên con cái Thiên Chúa trong Hội Thánh Công giáo), nhưng chính là lạc bước trong cơn mộng du thần hiệp mà tôi đã phác hoạ qua vài nét chính. Trong cơn mộng du khá dài ấy có thể có một điểm thuộc về lý do ngoại tại, khách quan: Các hình thức dòng tu cổ điển ở Âu Tây với quy chế chặt chẽ, với qui mô rộng lớn không phù hợp khao khát sâu xa của hồn tôi vốn như hướng tới một hình thức “Động tiên”, “Am mây”, “Lều cỏ” mà tôi nghĩ rằng có lẽ xưa kia tiên tri Elia cũng như về sau này các vị sáng lập tiên khởi ở trên đỉnh núi Cát Minh (trước khi dòng Cát Minh chưa phải di tản sang Âu Tây vào thế kỷ 12) đã sống, mà tinh thần còn phảng phất trong tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá. Và tôi cũng được nếm qua mùi vị chỉ chỉ có mấy tháng ở dưới mái tu viện nhỏ trên bờ con suối nhỏ ở một vùng quê khá hẻo lánh ở miền Bắc nước Pháp. Thời gian ấy là một cuộc thử nghiệm quá ngắn ngủi, mà lúc trở về Việt Nam tôi đã thiếu sáng kiến hoặc thiếu quả quyết tự thực hiện lấy một mình thử xem sao; thay vì như thế, tôi đã để mình bị lôi cuốn vào một sinh hoạt văn hoá giáo dục nửa vời (về phía tôi) hơi nặng tính cách tài tử trong một xã hội có số phận mong manh và vắn vỏi để rồi tất cả đều bị “cuốn theo chiếu gió” trong cơn lốc đã thổi mạnh trên đất nước Việt Nam này gần nửa thế kỷ vừa qua!
Rồi trong cơ chế xã hội mới thực ra tôi vẫn sống bên lề, trôi dạt từ trại cải tạo Sông Mao, hai năm lao động làm vườn sản xuất, hai năm ở Mặt trận Tổ Quốc, năm năm ở Ủy ban Khoa học Kỹ thuật, cho đến ngày hôm nay vẫn là bên lề và trôi dạt: Ở nhà tập thể cơ quan, trồng cây nuôi cá tại khu rẫy của một sinh viên cũ nhường cho, ghé tạm vào để nương náu tuổi già. Chỉ có cái khác là không còn “mộng du” nữa, mà hình như được nối tiếp lại những ngày đầu của ơn Thánh Tẩy của những năm ’49 – 50, dưới một chế độ chính trị và xã hội cũng như thời gian ấy! Một câu hỏi nẩy ra trong thâm tâm tôi: Phải chăng giữa đời sống thiêng liêng của tôi với chế độ chính trị và xã hội ấy có một cái gì gắn chặt sâu xa? Nói trắng ra là thế này: Chúa Giêsu mà tôi, yêu Hội Thánh mà tôi ẵm nhận làm gia đình thiêng liêng, chính là một Chúa Giêsu, một Hội Thánh tôi được gặp gỡ giây phút đầu tiên trong cái khí quyển của khu 4 năm '45 - 49. Hình như sau '75, tôi được hồi sinh về thiên liêng vì tôi gặp lại được hình dáng của Chúa Giêsu và hình dáng của Hội Thánh mà tôi đã gặp thuở ban đầu khi tôi cúi đầu trên giếng nước rửa tội! “Cái thuở ban đầu lưu tuyến ấy!”, cái hình ảnh đáng yêu ấy hình như có phần mờ nhạt khi tôi phải sống trong một chế độ khác với thời điểm 1945-49, tôi xin dùng một hình ảnh: Tôi yêu một thiếu nữ lúc cô ta còn là một thôn nữ - áo tứ thân, khăn mỏ quạ, tóc đuôi gà, miệng ăn trầu cắn chỉ; sau tôi cùng cô ấy ra thành thị, cô ta - uốn tóc, mặc áo Lemur, tô son điểm phấn v.v… Tự nhiên tôi như phai nhại mối tình đầu (có thể là do tôi chạy theo các cô thành thị khác, mà cũng có thể cô ta bớt vẻ kiều diễm dưới lớp y trang thành thị); thế rồi nay tôi lại được cùng cô ấy trở về nơi thôn dã, tôi như lại được sống lại mối tình đầu - lúc chúng tôi trao duyên gởi phận, bên bờ ao, có cành khế hoa tím rụng rơi trên những cánh bèo! - Có phải thế chăng, hỡi cô thôn nữ tôi yêu? Chỉ ở nông thôn, nét kiều diễm của cô mới còn nguyên vẹn và tình tôi mới trở lại vẹn nguyên chăng? Ôi! Ai biết được mầu nhiệm của Tình yêu??!! Và nếu trên kia tôi mượn lời Gióp, thì ở đây tôi xin mượn lời của Gio-an Thánh giá mà rằng:
“Tôi lặng yên trong quên lãng
Cúi mặt nhìn xuống người yêu
Tất cả đều ngưng đọng lại.
Và tôi cứ như vậy
Buông thả mối ưu tư,
Giữa những cành hoa huệ, tôi đã bị lãng quên rồi”.
(Khúc cuối của bài thơ “Lên đỉnh Cát Minh”)
Từ cuối đêm 26 rạng ngày 27 tháng 8 năm 1976, đêm đầu tiên tôi trở về lại Đà Lạt sau 16 tháng cải tạo, tại nhà Hòa Lạc của Đại học Đà Lạt, tôi quỳ gối phỏng ý bài thơ “Lên đỉnh Cát Minh”, ghi lại những dòng sau đây:
“Đêm nay mới thật là đêm
Bao năm lạc bước êm đềm về đây
Về đây sau những tháng ngày
Đau thương phúc lạc tràn đầy cả hai
Bắt đầu tất cả đêm nay:
Bình an, phúc lạc, an bình, bình an”.
Và sau mấy câu thơ ấy, tự nhiên tôi thay đổi chữ ký.
Trước thì: [chỗ này có chữ ký]
Nay đổi sang như sau: [chữ ký]
Sự thay đổi tự nhiên bột phát đêm hôm ấy có phải chăng là dấu hiệu tôi bước sang một giai đoạn mới, hoàn toàn mới của cuộc đời? Sự thay đổi mà trước kia đã bao nhiêu người khuyên tôi, vì họ cho chữ ký cũ là rất xấu và rất nguy, nhưng tôi đã nhất định không chịu nghe. Đêm ấy tự nhiên, gần như một cách vô thức, vô định ý, tôi đổi chữ ký, một việc làm mà tôi không hiểu do đâu, mà chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên!
Và quả thực, cuộc đời tôi đổi mới hoàn toàn.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |