Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
6. TƯƠNG GIAO LIÊN NGÃ VỊ
Sau những năm “sôi kinh nấu sử” từ năm 1938 - 1944 tại trường Thiên Hựu tôi đậu tú tài bán phần thuộc chương trình Pháp. Năm 1945, tôi chuyển sang lớp triết tại trường trung học Khải Định, vì hồi đó trường Thiên Hựu chỉ có đến lớp Đệ nhất là hết. Sang trường Khải Định tôi cảm thấy như bị “thôi nôi” khỏi cái nôi đã nuôi dưỡng tôi từ năm 38 đến năm 44. Đối với tôi, danh từ “Alma Mater” (mẹ cưu mang nuôi nấng): đúng là để mô tả trường Thiên Hựu của tôi, là nơi tôi đã sống 6 năm có lẽ là đẹp đẽ nhất của cuộc đời, trong tình thầy trò bạn hữu êm đềm, để trau dồi trí thức dưới sự hướng dẫn của một ban giáo sư có phẩm chất, gồm phần lớn là linh mục Hội Thừa Sai Ba lê. Cũng có một số thầy Việt Nam như ông Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Huỳnh Ngọc Cang, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy... đều là những vị đáng bậc mô phạm. Hầu hết các vị này sau năm 1945 đều đứng vào hàng ngũ kháng chiến và còn sống mãi đến năm 1975 tại miền Bắc (đó cũng là điều mà anh chị em sau năm 1954 sinh sống tại miền Nam cần phải suy nghĩ).
Niên học '44-45 tuy ghi danh học lớp triết lý tại trường Khải Định, nhưng sau vài tháng tới trường khá chuyên cần tôi gần như bỏ học và không tới trường mấy khi: phần thì bệnh đau dạ dày tái phát, phần vì không thấy được thoải mái. Bầu không khí của ngôi trường Khải Định làm tôi thấy quá lạnh lẽo, thờ ơ, so với bầu không khí luôn luôn có vẻ gia đình tại trường Thiên Hựu vào mấy năm trước (hầu như thể những ai đã học tại các trường tư thục Công giáo đều đồng ý là ở đó có bầu không khí gia đình, kể cả các sinh viên trường Đại học công giáo tại Đà Lạt).
Điều đó giúp ta thấy rõ rằng, dù sao trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp). Nhiều nhà nghiên cứu về các tôn giáo đã nhận xét rằng: so một thiền viện với một cộng đoàn tu hành Công giáo, dù trình độ đạo đức bên thiền viện có cao thâm hơn bên cộng đoàn Công giáo đi nữa, bầu không khí của cộng đoàn Công giáo vẫn có cái gì thân hữu, đầm ấm, (dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp) mà thiền viện không có (dù ở đấy luôn luôn là hòa thuận, không hề có tranh chấp, cãi cọ). Nói cho quá lời một tý cho dễ hiểu: có thể nói giữa các Kitô hữu có khi thì “thương nhau lắm” nếu là tốt, có khi thì “cắn nhau đau” nếu là xấu, nhưng vẫn là có nhau - nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau. Còn trong những cộng đoàn tu sĩ Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo thì vô sự hơn, vì cuối cùng là vô ngã và vô tha bởi lẽ trong căn bản, tha và ngã đều hòa tan trong cái Vô ngã hoặc cái Đại ngã Tuyệt đối, duy nhất đơn độc. Sở dĩ trong Kitô giáo cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm THIÊN CHÚA tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí...) là bản tính của Hữu thể. Nói cách khác, nếu hỏi “Hữu thể là gì?” thì phải thưa: Hữu thể là cái tương quan lập hữu (relation subsistante) giữa ba ngã vị trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, mà mỗi ngã vị khác, với tính cách trường tồn kể cả thân xác được mời gọi thông dự vào trong một tương quan liên-ngã-vị tồn tại vĩnh cửu
Đối với tôi, bao giờ bị rơi vào một môi trường thiếu cái khí quyển tương giao liên-ngã-vị ấy, tôi có cảm tưởng như cá bị lên cạn; vì vậy cuối cùng tôi tìm đến những môi trường thấm nhuần tinh thần liên-ngã-vị Kitô giáo. Tôi sợ nhất là cái hờ hững lãnh đạm quay cuồng của những cơ chế quay như guồng máy một cách phi nhân tính (anhumain). Thậm chí tôi còn cho rằng thà còn có tương quan vô nhân đạo (inhumain) còn hơn là phi nhân tính một cách hoàn toàn, hoặc còn hơn là phi ngã vị một cách có thể nói là trừu tượng mông lung. Từ ngữ “cận nhân” người bên cạnh (le prochain) trong câu: (hãy yêu thương người bên cạnh như chính mình) là chỉ cậu X, cô Y, ông N, bà H, anh A, chị Z có xương thịt có vui buồn cụ thể, hic et nunc (nơi đây và lúc này - nơi đây: cạnh ghế ngồi, đứng trước cửa, dưới gốc cây, lúc mấy giờ mấy phút ngày ấy, trên giường bệnh, trong rạp hát ...: lúc này: mấy giờ, mấy phút, ngày ấy, tháng ấy, năm ấy ...) sự gặp gỡ ở đây và lúc này chỉ xẩy đến có một lần duy nhất như thế, với những yếu tố cụ thể: lúc ấy trời nắng hay mưa, êm ả hay oi bức, dưới trận oanh kích hay trong buổi tiệc liên hoan, đang có thai, hay sắp sinh con hoặc mới lập gia đình, vừa được tin con tử nạn hay mới thi đậu vv và vv... tôi rất ngại những người yêu Nhân Loại (N viết hoa) trong lúc vẫn ngồi yên trong ghế xe công cộng, mặc kệ một cụ già hay một phụ nữ mang thai đứng tha hồ cho xe lắc lư người chen chật. Tôi rất ngại những người lo lắng việc kinh bang tế thế, mà không hề lưu ý xem, em bé nhà bên cạnh trưa nay bố mẹ đi vắng, có cơm ăn không? Vì lịch sử đã cho thấy bao con người bằng xương máu cụ thể bị hiến tế trên bàn thờ của những danh từ trừu tượng. Bà Roland trước khi lên đoạn đầu đài đã hét lớn tiếng: “Ôi Tự do! Tự do!" (cố nhiên là T viết hoa). Người ta đã phạm bao nhiêu tội ác nhân danh người!” Hình như Albert Camus có viết: “tôi yêu nhân loại lắm, nhưng tôi yêu Mẹ tôi hơn”. Tôi hoàn toàn đồng ý, chỉ xin thêm vào ... anh X, chị Y, ông Z, bà J, cháu T ... là những người cụ thể có thật, ở gần tôi, ở bên cạnh tôi, chờ đợi nơi tôi một cái gì cụ thể tức khắc, “hic et nunc”, đôi khi chỉ là một nụ cười, một cái nhìn thông cảm, yêu người bên cạnh, yêu tức khắc, vì chắc gì một tích tắc sau tôi còn sống để mà yêu Nhân Loại (viết hoa)! cũng xin nhắc lại ở đây tôi chỉ tâm sự chứ không nói chuyện sai đúng hơn thua.
Chính vì thế, vào năm 1945, sau khi rời ký túc xá trường Nguyễn Trường Tộ do các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế quản lý tôi lại xin vào ở ký lúc xá trường Thiên Hựu, được Linh mục hiệu trưởng cho ở một phòng riêng, cùng với các anh Nguyễn Tu Khan (hy sinh tại mặt trận Lào năm l946) và anh Vương Đình Lương, hiện nay cùng với con cháu di cư vào lập nghiệp lại xã Xuân Sơn, Bình Giả, Đồng Nai, từ Nghệ Tĩnh vào Nam năm 1983. Được chung sống gần gũi với anh Vương Đình Lương là một sự cố rất quan trọng trong đời tôi, tôi sẽ nói sau. Có một điều rất đáng ghi nhớ là lúc ấy, anh Nguyễn Tu Khan và một anh khác cùng lớp có ý muốn gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì rất nhiều anh em bạn, trong đó tôi là một người hăng hái nhất, tìm mọi cách ngăn trở, tranh luận, châm biếm... tôi nghĩ rằng một người ngoài Công giáo muốn trở thành tín hữu thường gặp rất nhiều trở ngại, thuộc bình diện khách quan cũng như chủ quan, cần phải được ơn Chúa rất nhiều chứ không phải do tài hùng biện, lý luận hoặc đạo đức, gương sáng của người tông đồ mà đủ! Sau này tôi mới biết rằng trong Hội Thánh còn có những dòng tu chuyên việc cầu nguyện xin Chúa ban ơn cho kẻ khác, quả là một việc rất đúng! Do đó, về sau tôi càng xác tín rằng ơn được trở lại của tôi, chủ yếu là do ơn Chúa ban nhờ lời cầu nguyện của những tâm hồn thánh thiện, trong đó tôi có cảm tưởng Thánh nữ Tê-rê- sa Hài Đồng là vai chính. Khi qua Pháp được diễm phúc hành hương tại Li-di-ơ tôi đã đi với lòng tạ ơn sâu thẳm đối với một vị Thánh vừa là bà chị vừa như là một người Mẹ, nếu không nữa thì một người nữ hộ sinh, một nhũ mẫu của linh hồn tôi. Một điều lòng tôi vẫn ước ao trong đời sau này, ngoài việc chiêm ngưỡng tôn nhan Thiên Chúa và Đức Mẹ ra. Tôi còn có được niềm vui cùng “Bà chị” ấy hàn huyên, kể lể chuyện trần gian. Nghĩ đến giây phút ấy, tôi có cảm tưởng như một đứa em còn xa nhà hướng về ngày đoàn tụ: bởi vì ngoài Thánh nữ ra, còn có song thân của Thánh nữ là các anh chị em ruột thịt. Li-di-ơ! Li-di-ơ! Li-di-ơ! Khác nào như một quê hương thân yêu của tôi! Phúc cho ngươi: được là mảnh đất nở lên một đóa hồng đẹp tuyệt vời!
Sau những năm “sôi kinh nấu sử” từ năm 1938 - 1944 tại trường Thiên Hựu tôi đậu tú tài bán phần thuộc chương trình Pháp. Năm 1945, tôi chuyển sang lớp triết tại trường trung học Khải Định, vì hồi đó trường Thiên Hựu chỉ có đến lớp Đệ nhất là hết. Sang trường Khải Định tôi cảm thấy như bị “thôi nôi” khỏi cái nôi đã nuôi dưỡng tôi từ năm 38 đến năm 44. Đối với tôi, danh từ “Alma Mater” (mẹ cưu mang nuôi nấng): đúng là để mô tả trường Thiên Hựu của tôi, là nơi tôi đã sống 6 năm có lẽ là đẹp đẽ nhất của cuộc đời, trong tình thầy trò bạn hữu êm đềm, để trau dồi trí thức dưới sự hướng dẫn của một ban giáo sư có phẩm chất, gồm phần lớn là linh mục Hội Thừa Sai Ba lê. Cũng có một số thầy Việt Nam như ông Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Huỳnh Ngọc Cang, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy... đều là những vị đáng bậc mô phạm. Hầu hết các vị này sau năm 1945 đều đứng vào hàng ngũ kháng chiến và còn sống mãi đến năm 1975 tại miền Bắc (đó cũng là điều mà anh chị em sau năm 1954 sinh sống tại miền Nam cần phải suy nghĩ).
Niên học '44-45 tuy ghi danh học lớp triết lý tại trường Khải Định, nhưng sau vài tháng tới trường khá chuyên cần tôi gần như bỏ học và không tới trường mấy khi: phần thì bệnh đau dạ dày tái phát, phần vì không thấy được thoải mái. Bầu không khí của ngôi trường Khải Định làm tôi thấy quá lạnh lẽo, thờ ơ, so với bầu không khí luôn luôn có vẻ gia đình tại trường Thiên Hựu vào mấy năm trước (hầu như thể những ai đã học tại các trường tư thục Công giáo đều đồng ý là ở đó có bầu không khí gia đình, kể cả các sinh viên trường Đại học công giáo tại Đà Lạt).
Điều đó giúp ta thấy rõ rằng, dù sao trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp). Nhiều nhà nghiên cứu về các tôn giáo đã nhận xét rằng: so một thiền viện với một cộng đoàn tu hành Công giáo, dù trình độ đạo đức bên thiền viện có cao thâm hơn bên cộng đoàn Công giáo đi nữa, bầu không khí của cộng đoàn Công giáo vẫn có cái gì thân hữu, đầm ấm, (dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp) mà thiền viện không có (dù ở đấy luôn luôn là hòa thuận, không hề có tranh chấp, cãi cọ). Nói cho quá lời một tý cho dễ hiểu: có thể nói giữa các Kitô hữu có khi thì “thương nhau lắm” nếu là tốt, có khi thì “cắn nhau đau” nếu là xấu, nhưng vẫn là có nhau - nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau. Còn trong những cộng đoàn tu sĩ Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo thì vô sự hơn, vì cuối cùng là vô ngã và vô tha bởi lẽ trong căn bản, tha và ngã đều hòa tan trong cái Vô ngã hoặc cái Đại ngã Tuyệt đối, duy nhất đơn độc. Sở dĩ trong Kitô giáo cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm THIÊN CHÚA tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí...) là bản tính của Hữu thể. Nói cách khác, nếu hỏi “Hữu thể là gì?” thì phải thưa: Hữu thể là cái tương quan lập hữu (relation subsistante) giữa ba ngã vị trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, mà mỗi ngã vị khác, với tính cách trường tồn kể cả thân xác được mời gọi thông dự vào trong một tương quan liên-ngã-vị tồn tại vĩnh cửu
Đối với tôi, bao giờ bị rơi vào một môi trường thiếu cái khí quyển tương giao liên-ngã-vị ấy, tôi có cảm tưởng như cá bị lên cạn; vì vậy cuối cùng tôi tìm đến những môi trường thấm nhuần tinh thần liên-ngã-vị Kitô giáo. Tôi sợ nhất là cái hờ hững lãnh đạm quay cuồng của những cơ chế quay như guồng máy một cách phi nhân tính (anhumain). Thậm chí tôi còn cho rằng thà còn có tương quan vô nhân đạo (inhumain) còn hơn là phi nhân tính một cách hoàn toàn, hoặc còn hơn là phi ngã vị một cách có thể nói là trừu tượng mông lung. Từ ngữ “cận nhân” người bên cạnh (le prochain) trong câu: (hãy yêu thương người bên cạnh như chính mình) là chỉ cậu X, cô Y, ông N, bà H, anh A, chị Z có xương thịt có vui buồn cụ thể, hic et nunc (nơi đây và lúc này - nơi đây: cạnh ghế ngồi, đứng trước cửa, dưới gốc cây, lúc mấy giờ mấy phút ngày ấy, trên giường bệnh, trong rạp hát ...: lúc này: mấy giờ, mấy phút, ngày ấy, tháng ấy, năm ấy ...) sự gặp gỡ ở đây và lúc này chỉ xẩy đến có một lần duy nhất như thế, với những yếu tố cụ thể: lúc ấy trời nắng hay mưa, êm ả hay oi bức, dưới trận oanh kích hay trong buổi tiệc liên hoan, đang có thai, hay sắp sinh con hoặc mới lập gia đình, vừa được tin con tử nạn hay mới thi đậu vv và vv... tôi rất ngại những người yêu Nhân Loại (N viết hoa) trong lúc vẫn ngồi yên trong ghế xe công cộng, mặc kệ một cụ già hay một phụ nữ mang thai đứng tha hồ cho xe lắc lư người chen chật. Tôi rất ngại những người lo lắng việc kinh bang tế thế, mà không hề lưu ý xem, em bé nhà bên cạnh trưa nay bố mẹ đi vắng, có cơm ăn không? Vì lịch sử đã cho thấy bao con người bằng xương máu cụ thể bị hiến tế trên bàn thờ của những danh từ trừu tượng. Bà Roland trước khi lên đoạn đầu đài đã hét lớn tiếng: “Ôi Tự do! Tự do!" (cố nhiên là T viết hoa). Người ta đã phạm bao nhiêu tội ác nhân danh người!” Hình như Albert Camus có viết: “tôi yêu nhân loại lắm, nhưng tôi yêu Mẹ tôi hơn”. Tôi hoàn toàn đồng ý, chỉ xin thêm vào ... anh X, chị Y, ông Z, bà J, cháu T ... là những người cụ thể có thật, ở gần tôi, ở bên cạnh tôi, chờ đợi nơi tôi một cái gì cụ thể tức khắc, “hic et nunc”, đôi khi chỉ là một nụ cười, một cái nhìn thông cảm, yêu người bên cạnh, yêu tức khắc, vì chắc gì một tích tắc sau tôi còn sống để mà yêu Nhân Loại (viết hoa)! cũng xin nhắc lại ở đây tôi chỉ tâm sự chứ không nói chuyện sai đúng hơn thua.
Chính vì thế, vào năm 1945, sau khi rời ký túc xá trường Nguyễn Trường Tộ do các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế quản lý tôi lại xin vào ở ký lúc xá trường Thiên Hựu, được Linh mục hiệu trưởng cho ở một phòng riêng, cùng với các anh Nguyễn Tu Khan (hy sinh tại mặt trận Lào năm l946) và anh Vương Đình Lương, hiện nay cùng với con cháu di cư vào lập nghiệp lại xã Xuân Sơn, Bình Giả, Đồng Nai, từ Nghệ Tĩnh vào Nam năm 1983. Được chung sống gần gũi với anh Vương Đình Lương là một sự cố rất quan trọng trong đời tôi, tôi sẽ nói sau. Có một điều rất đáng ghi nhớ là lúc ấy, anh Nguyễn Tu Khan và một anh khác cùng lớp có ý muốn gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì rất nhiều anh em bạn, trong đó tôi là một người hăng hái nhất, tìm mọi cách ngăn trở, tranh luận, châm biếm... tôi nghĩ rằng một người ngoài Công giáo muốn trở thành tín hữu thường gặp rất nhiều trở ngại, thuộc bình diện khách quan cũng như chủ quan, cần phải được ơn Chúa rất nhiều chứ không phải do tài hùng biện, lý luận hoặc đạo đức, gương sáng của người tông đồ mà đủ! Sau này tôi mới biết rằng trong Hội Thánh còn có những dòng tu chuyên việc cầu nguyện xin Chúa ban ơn cho kẻ khác, quả là một việc rất đúng! Do đó, về sau tôi càng xác tín rằng ơn được trở lại của tôi, chủ yếu là do ơn Chúa ban nhờ lời cầu nguyện của những tâm hồn thánh thiện, trong đó tôi có cảm tưởng Thánh nữ Tê-rê- sa Hài Đồng là vai chính. Khi qua Pháp được diễm phúc hành hương tại Li-di-ơ tôi đã đi với lòng tạ ơn sâu thẳm đối với một vị Thánh vừa là bà chị vừa như là một người Mẹ, nếu không nữa thì một người nữ hộ sinh, một nhũ mẫu của linh hồn tôi. Một điều lòng tôi vẫn ước ao trong đời sau này, ngoài việc chiêm ngưỡng tôn nhan Thiên Chúa và Đức Mẹ ra. Tôi còn có được niềm vui cùng “Bà chị” ấy hàn huyên, kể lể chuyện trần gian. Nghĩ đến giây phút ấy, tôi có cảm tưởng như một đứa em còn xa nhà hướng về ngày đoàn tụ: bởi vì ngoài Thánh nữ ra, còn có song thân của Thánh nữ là các anh chị em ruột thịt. Li-di-ơ! Li-di-ơ! Li-di-ơ! Khác nào như một quê hương thân yêu của tôi! Phúc cho ngươi: được là mảnh đất nở lên một đóa hồng đẹp tuyệt vời!
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |