Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
9. CUỘC VƯỢT QUA
Thế là tôi đã quyết định bước vào ngưỡng cửa Đại Gia Đình Công giáo, tiến tới việc xin đón nhận ơn Thánh Tẩy trở thành chi thể của Nhiệm thể Đức Giêsu mà trong thâm tâm tôi, tôi đã tuyên xưng như lời kinh Tin kính; trong tâm tư thì vậy, nhưng đi đến việc thực hiện quả là còn cách núi ngăn sông; không biết bao nhiêu là khó khăn ngăn trở khá lớn lao nặng nề.
Trước hết là những khó khăn trong tâm tư của chính mình đi từ ước muốn đến quyết định là một bước dài bất cứ về việc gì - huống chi đây là một sự xoay chiều đến l80 độ góc, gần như nhảy xuống một vực thẳm không đáy! Những trở ngại về nội tâm lý trí, cảm tính, quán tính, nhiều lúc phản kích rất mãnh liệt, nhất là cảm tưởng sẽ xa lìa tất cả: xa lìa với gia đình, với bạn bè, với hàng xóm, với cả mấy ngàn năm truyền thống văn hóa. Không biết tổ phụ Abraham lúc rời Đất tổ theo tiếng Chúa gọi như thế nào, chứ tôi thì mới tưởng đến việc thỉnh chuông thu không 108 tiếng ở chùa Linh Quang, tiếng gõ mõ trầm mặc, những nếp cổng chùa tam quan rêu phủ, các hương án sơn son thếp vàng, những gốc đại trước hồ bán nguyệt, những bài vị của ông bà tổ tiên, những ngày kỵ giỗ… là cứ như đã có ai níu kéo mình lại. Rồi tưởng đến việc xưng tội là phát nản. Từ trước tôi vẫn ghét hình ảnh người tín hữu chui ra chui vào tòa cáo giải, thì thầm thì thụt với linh mục, lột trần mình ra với một người không chắc gì thấu hiểu được mình, tài đức chưa chắc gì đã hơn mình, có khi không đủ trình độ mà hiểu mình nữa. Thật là một việc ớn ngấy! Rồi đổ nước lên đầu, xoa dầu vào trán, hà hơi vào mặt, “lè lưỡi” ăn bánh thánh phải chăng là phù thủy, ma thuật? Ngay cả một số từ ngữ cũng có một cái gì xa lạ: “Thân lạy Đức cha! Trọn tốt trọn lành, sáng danh, đức cậy, lễ săng-ti, lễ di- xúp, chầu lượt, tuần đại phúc, cấm phòng… gần như ngoại ngữ, có cảm tưởng như tiếng thượng! Rồi cơ chế phẩm trật Hội Thánh, các điều răn, các điều khoản giáo luật như cả một hệ thống gông cùm trói buộc chặt. Rồi đến tên các vị thánh: Phê-rô, Phao-lô, A-ga-ta, A-nê, Per-pê-tu-a, Lê-ô, Giu-se, Mô-sê vv… đem so sánh với các vị tên tuổi Vạn Hạnh, Huệ Năng, Tuệ Tĩnh, Huyền Trang… thì quả là man rợ… thô lỗ! Các tượng ảnh cũng vậy: toàn là những người mũi cao, mắt xanh ria xồm xoàm, áo quần xa lạ. Rồi các nhà thờ, tu viện, cứ y như là bên Tây Phương xách sang ghép vào cảnh trí Việt Nam, không có cái hài hòa với phong cảnh chung quanh như các chùa chiền, đình miếu với cửa tam quan, với tháp bảy từng, với các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, chạm trổ tứ bình, tứ bửu, tứ linh… Nghĩ đến phải cảm nhận lấy tất cả những cái ấy, thật là ớn lạnh, toát mồ hôi, có cảm tưởng như bị khoác vào một cái áo lạ hoắc khác màu, khác vị. Cả việc tế tự cũng thế: tai đã quen với “khởi chỉnh cổ”, bát âm nhã nhạc, giọng văn tế cung chầu văn; nay phải đi vào thế giới của nhạc giê-gô-ri-ô, đàn orgue đàn harmonium - hay đấy nhưng thật xa lạ… lễ phục Công giáo - đẹp đấy nhưng thiếu hình ảnh con rồng, con hạc, con phượng, con quy; thiếu hình ảnh bát tiên quá hải, đã từng đưa tôi vào một cõi thần tiên đầy mộng đẹp. Tôi cảm thấy nhớ nhung đến nhức nhối những huyền thoại: Thần nông, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Lư Sơn Thánh Mẫu, Vương Thiều Lão Tổ, Liễu Hạnh Công Chúa, Thiên Mụ, Diệu Đế, Từ Đàm, Từ Hiếu, Linh Sơn, Linh Quang, những cái tên gợi lên cả một thế giới thanh cao huyền bí. Chiếc áo nâu sồng sẽ bị thay thế bằng chiếc áo đỏ, áo tím sặc sỡ của Hồng y, giám mục, chiếc gậy trúc có đính quả đào sẽ được thay thế bằng chiếc gậy vàng đầu cong của giám mục. Khi thờ phượng sẽ không có đỉnh trầm nghi ngút, mà chỉ có bình hương lủng lẳng “đưa xít” vào mặt người ta, như xông cho kẻ bị ốm! vv… Rồi các nữ tu đủ kiểu áo, kiểu lúp, kiểu mũ, trông sao quá nặng hình thức lăng nhăng, lố nhố! Cuối cùng ngay cả chính tượng Chúa chịu nạn: nhìn Chúa mình mẩy bầm nát, mặt mũi quằn quại, trần truồng căng ra trên thánh giá, đôi khi trông quá ghê rợn - tôi lại tiếc nhớ tượng Phật điềm đạm trên toà sen thanh khiết, chỉ có tượng ảnh Đức Mẹ là có cái gì gần gũi, thân thiết (nhưng lại da trắng mắt xanh!). rời bỏ truyền thống nghìn xưa của gia đình, dân tộc Đông phương để bước vào thế giới Công giáo, tôi nghĩ có thể chết điếng người đi được, tương tự Tê-rê-sa thành A-vi-la khi rời bỏ gia đình dấn thân vào tu viện… Đến nỗi, ngay cả những xuyên tạc, bôi bác về sự Đức Mẹ sinh con, cách chế biến dầu Thánh từ mắt trẻ con, cho đến cả vai trò Linh mục trong hôn phối mà tôi vẫn biết là xuyên tạc, bôi bác do ác ý bôi nhọ “tà đạo của Tây dương” nhưng đã nghe từ tấm bé, đôi lúc vẫn như ám ảnh tâm tư cộng thêm những câu chế diễu móc họng của Voltaire, của Roman de la rose, của Mystères des couvents. Rồi hình ảnh vụ án Galilée, các giàn hoả thiêu của tòa trừng giáo vv… Tất cả những cái ấy đôi khi như kết bè kết lũ réo lên ầm ỹ: hãy coi chừng đừng dại đâm đầu vào chỗ chết.
Nhân dịp này, tôi nghĩ chúng ta cần phải thẳng thắn và can đảm nhìn nhận rằng điều mà Các Mác gọi là “tha hóa” tôn giáo, không phải là không nói lên một khía cạnh nào đó của một người đi từ thế giới không có tín ngưỡng, bước vào thế giới tín ngưỡng như Kitô giáo và nhất là Công giáo, bỏ quê hương như Abraham, bỏ cha mẹ, anh em, con cái bỏ cả chính mình để vác thập giá: không tha hóa là gì! Chết đi đối với con người cũ, đánh mất sự sống… Không tha hóa là gì khi theo Chúa Giêsu là hiến thân mình cho Ngài, vào Hội Thánh là không còn lấy cá nhân mình làm rốn vũ trụ nữa, không tha hóa là gì? Từ ngoài Công giáo bước vào Công giáo, là phải trải qua một sự chết đi! Chính sự chết đi ấy đã làm nhiều người chùn bước. Chính việc “nhảy tùm” xuống như nhảy vào vực thẳm không lường được ấy (saut dans l’inconnu) làm cho việc theo đạo có cái gì khủng khiếp, vì đây cuối cùng là phó thác cho Thiên Chúa, chứ không phải là chấp nhận một lý thuyết mà lý trí nhìn nhận chân là đúng, như chấp nhận một định lý thuyết toán học hay một định luật khoa học. Ở đây có cái gì như “xử nữ” xuất giá tòng phu hiến thân cho một người khác cha, khác mẹ, khác địa phương, chỉ có thể thực hiện được khi bị lôi cuốn, thúc đẩy bởi một cái gì rất mãnh liệt, một thần lực (có nhiều dạng như ma lực). Không đi qua ngưỡng cửa của sự chết ấy thì khó lòng trở lại, (mầu nhiệm “khổ giá” kia mà).
Nói cách khác, tôi nghĩ: không có ơn Chúa thì khó mà vượt qua (và đương nhiên, kẻ thù nghịch muôn đời đã cám dỗ ông bà nguyên tổ đã lởn vởn quanh Đức Giêsu trong vườn hoang địa, đã quấy phá Thánh An-tôn tu rừng, phá phách nhà xứ họ Ars, sẽ không để người ta yên: nó sẽ dùng mọi mưu chước để ngăn chận, phá phách cho kỳ được). Do đó, một người trở lại, cả chín tầng trời reo lên vui mừng là phải! Một chàng trai lúc 13 tuổi với cái láo xược của một “cậu ấm” con quan khoa bảng đất Nghệ, lại tô thêm tư tưởng tự do tư bản, đã khẳng định “không bao giờ”, vậy mà giờ đây chịu cúi đầu để một cha xứ nhà quê dội nước lên đầu thì quả là một phép lạ. Sau gần 40 năm chịu phép Rửa mà nhiều lúc (nhất là sau lúc ngủ dậy) chính bản thân tôi cũng còn còn lấy làm kinh ngạc! Và chắc chắn là sẽ còn kinh ngạc muôn đời: chẳng khác gì phép lạ đưa dân Chúa qua biển đỏ, thoát ách khống trị của Pha-ra-ô.
Sau đây là những trở ngại khách quan:
Trước hết là gia đình: đối với một nhà Nho cỡ lớn đất Nghệ Tĩnh. Có đứa con “theo đạo” là cả một sự “sỉ nhục” trước mắt bà con xóm làng, huyện, tỉnh: và ở vị trí gia đình tôi, trước mắt cả một giai cấp thượng lưu gần như toàn quốc! gặp các cụ khoa bảng đất Nghệ, đất Thanh, đất Bắc, đất Thần Kinh, thân phụ tôi sẽ đau đớn nhục nhã khi có vị nào nhắc đến thằng con trai đã bỏ truyền thống của cha ông, của địa phương của giống nòi để đi theo “Tây Dương tà đạo”. Cách đó vài chục năm, thân phụ của linh mục Nguyễn Văn Thích, đã bắt Ngài phải chọn lựa giữa cái chết và theo đạo! Nghĩ đến sự đau đớn và nhục nhã của thân phụ tôi, sự lo buồn của mẹ tôi, của anh chị em, chú bác, cô dì tôi, thật không thể tả nổi nỗi ái ngại của tôi. Nhất là, tôi vốn là một người con, một người cháu được khen là hiếu thuận, rất được thương yêu! “Theo đạo” là kể như cắt đứt tất cả. Cái cơ sự bị “từ” hầu như là chắn chắn, không từ ra mặt, đuổi khỏi nhà, thì cũng trong lòng. Thật vậy, thân phụ tôi thì tính tình điềm đạm, ăn nói từ tốn: chỉ có một ông chú và một bà cô, chị của thân phụ tôi, sau khi tôi chịu phép rửa, mỗi lần gặp tôi là ra mặt giận thực sự và có những lời mai mỉa chua cay! Bà cô ấy đã khóc ầm lên mà hỏi tôi như gào thét: “Mày, cha ông mày có tội gì mà cúi đầu để cho chúng xối nước lên!”. Sau ngày rửa tội, mỗi lần về nhà, tôi thấy có cái gì u uất đè lên mối tương giao, thật tôi không khỏi có cái cảm giác như mình đã vô ơn, bạc nghĩa, bạc tình. Quả vậy gần 30 năm sau, khi tôi bị ít nhiều gian nan, một bà cô đã nói: đó! Trời phạt nó đấy, ai bảo nó phản bội cha ông, bỏ đi mà theo đạo! .
Năm 1948, tuy gia đình tôi chưa rơi vào tình cảnh bi đát của năm 53 – 56, nhưng cũng bắt đầu xuống dốc: nếu chần chừ, có thể tôi sẽ như Bergson, muốn tòng giáo, nhưng trong dân Do Thái bị Đức Quốc xã tàn sát, ông không nỡ làm một việc như là “chuột chạy khỏi nhà cháy” trốn lửa. Tòng giáo có thể hiểu như là đào ngũ lúc gần bại trận. Rắc rối thêm là vấn đề chính trị: lúc ấy ở Bùi Chu, Phát Diệm, phong trào chống cộng đã khá gay gắt, và hình như đã bắt đầu có tổ chức “liên tôn chống cộng” của ba tôn giáo chính: Khổng, Phật và Gia-tô! Sự tòng giáo của tôi có thể gây ra ngộ nhận, ít nhất là đối với một số cán bộ nào đó cũng như đối với quảng đại quần chúng. Quả vậy sau khi tôi rửa tội, có kẻ đã nói: “đạo nghĩa gì! Bố nó bảo nó giả vờ theo đạo để có cớ liên lạc với tụi cha cố vào tổ chức liên tôn - chống cộng đấy!” Đó lại là điều mang tác hại lớn cho thân phụ tôi vốn thuộc thành phần quan lại địa chủ. Tính đến chuyện chịu phép Rửa trong tâm trạng như vậy, giữa một hoàn cảnh như vậy thật như ôm một quả mìn nổ chậm. Chết mình đã đành còn chết lây cả người thân kế cận. Một người yếu đuối như tôi tưởng như khó lòng vượt qua được bao nhiêu là cửa ải gian nan, cho nên tôi cứ chần chừ lần lữa; cũng xin nói rõ ràng rằng ý muốn tòng giáo là do tự tôi hoàn toàn, chứ không có ai rủ rê lôi cuốn. Mà tôi cũng không thổ lộ với ai cả, ngay cả với anh Vương Đình Lương, vì đối với tôi, nói ra với anh Lương thì gần như là hứa quyết, sợ sau lại nuốt lời, xấu hổ! Chỉ có thỉnh thoảng tôi lại lén lút đi dự lễ hoặc vào nhà thờ cầu nguyện. Thật là “nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?”, đành chỉ một mình mình biết, một mình mình hay! Dĩ nhiên, nói vậy là không nói đến ơn Chúa, nhưng ơn Chúa dường như lại quá siêu nhiên kín nhiệm, vì lúc ấy về mặt tâm lý, tôi như bị bỏ rơi, không cảm nghiệm được sự an ủi khích lệ thiêng liêng nào cả, ngoại trừ bóng dáng dịu hiền của Đức Mẹ qua bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong nhà thờ Nghĩa Yên mà thỉnh thoảng tôi đến quì nhìn lên xin ơn phù trợ. Nhưng sự an ủi khích lệ về phía Đức Mẹ cũng chỉ là giới hạn, chứ không cảm nghiệm được về mặt tâm lý. Tôi như bị bao vây bởi đêm dày. Có lẽ cụ Abraham khi đáp tiếng Chúa gọi đem con lên núi làm lễ hy tế, Yacóp khi trở về giáp mặt Ê-Dau, phải vật lộn thâu đêm với thiên thần, cũng ở trong một đêm tối tương tự. Bà Acarie, bà Jeanne de Chantal khi rời bỏ gia đình con cái để lập dòng, chắc cũng vậy. Về mặt cảm nghiệm tâm lý, tôi thấy như là bất lực, và có cảm tưởng chắc rằng cuối cùng sẽ rút lui với tiếc nuối u hoài, chứ không thấy có đủ can đảm mà vượt qua nổi bao nhiêu khó khăn lớn lao như vậy! Nhất là mỗi lúc nghĩ đến mẹ và các em còn bé. Vì lúc ấy tôi gần như là con trai trưởng trong gia đình, anh Viện tôi dù ở Pháp không hy vọng gì có thể trở về Việt Nam. Người anh thứ hai tôi thì bị chứng ho lao sắp mất mà chỉ có cháu gái, chưa có cháu trai. Lại nghe tin anh Viện tôi ở Pháp cũng bị chứng lao trầm trọng, chưa chắc là có sống lâu được, để mong ngày về lập gia đình sinh con nối dõi tông đường. Mà đó lại là vấn đề vô cùng quan trọng đối với một gia đình Nho giáo như gia đình tôi. Rồi ông anh thứ hai của tôi biết mình sắp mất, chưa có con trai, càng hối thúc tôi lập gia đình trước khi anh ấy nhắm mắt! Nhưng tôi thì lúc ấy còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện vợ con, vì tôi nghĩ rằng lập gia đình là thắt chặt vào cái khuôn khổ của Khổng giáo, việc tòng giáo càng thêm khó khăn.
Thế nhưng, rồi trước sự hối thúc, van nài của gia đình, cha mẹ, họ hàng và nhất là của người anh sắp chết, tôi nhận lời đính hôn với một thiếu nữ mà tôi chỉ đi “coi mắt” có một lần: không yêu, không ghét, dửng dưng như cái máy, đập đi hò đứng, làm một việc bổn phận thiêng liêng của gia đình theo truyền thống Nho giáo. Gấp rút đến nỗi đính hôn chưa đầy một tháng, gia đình tôi xin cưới gần như để chạy tang anh tôi! Nhà gái xin hoãn lại ít lâu, vì theo lời bà mẹ vị hôn thê của tôi: “gia đình cụ thì quá lớn, mà cháu thì còn quá dại, xin cho tôi dạy dỗ thêm một thời gian”. Đối với tôi lúc ấy, việc thuận tình lập gia đình theo đòi hỏi của tinh thần Nho giáo, có ý nghĩa như là một sự đầu hàng, là để cho Truyền thống Nho giáo đánh bại ý muốn tòng giáo. Sự đầu hàng ấy đưa tôi vào một tâm trạng rất phiền muộn, tôi sống như một cái máy vô hồn, không làm chủ đời mình mà hoàn toàn theo lề lối đòi hỏi thật ra cũng phần nào chính đáng của gia đình. Nhưng riêng mình thì rất buồn nản và khổ sở. Ý định tòng giáo cứ như mờ nhạt dần mặc dầu lòng ao ước vẫn mãnh liệt. Sự mâu thẫn bên trong ấy làm cho tôi phải luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng như bị xâu xé giữa hai sức kéo nghịch nhau: sức khỏe tôi vì vậy cứ dần dần kém sút, bệnh mất ngủ xuất hiện, bệnh đau dạ dày tái phát ngày càng trầm trọng
Vì đã bỏ ý định tòng giáo nên tôi đã hướng về nơi cửa Phật để tìm nguồn an ủi thoa dịu. Lúc ấy sư Mật Thể vì được bầu vào Quốc hội khóa I, nên từ Huế di tản ra Nghệ Tĩnh, và ngụ tại một ngôi chùa ở Đức Thọ, tôi thường lui tới gặp ngài để tâm sự. Mỗi lần cùng Ngài đàm đạo và ra trước bàn thờ Phật, hình ảnh Đức Phật với thái độ an nhiên tự tại giúp tôi như được bằng yên thoa dịu. Nhưng tôi thấy rằng sự an ủi ấy chỉ đến khi tôi ở dưới mái chùa như tạm thời quên đi cuộc sống thực tại chứ ra khỏi chùa là tôi tại thấy cuộc đời với trăm nghìn mối tơ vò. Mượn một hình ảnh cho dễ hiểu: Đức Phật chỉ an ủi tôi khi tôi vào chùa chứ ngài không đồng hành với tôi trên đường đời cụ thể đầy những eo sèo thực tế. Nói như kiểu thời nay, Ngài hình như chỉ có diện thoát tục, chứ không nhập thế dấn thân, mà tôi thì phải lặn ngụp vào cái biển đời với bao sóng gió. Ngài chỉ là bậc thầy chỉ cho con đường lánh xa cõi trần ai trầm luân, chứ Ngài không phải là bạn đồng hành trên con đường trần lụy. Tình trạng ấy cứ kéo dài, thế rồi vào đầu năm 1948, người anh thứ hai của tôi từ trần sau khi chị dâu tôi lại sinh hạ thêm một cháu gái thứ tư. Anh Viện tôi vừa ở nơi trời Tây cách xa muôn dặm, vừa bị một chứng nan y, hầu như tuyệt vọng, mà anh thứ hai mất đi không để người nối dõi. Thế là tôi trở nên gần như người trưởng nam trong gia đình, nên việc lấy vợ sinh con là bổn phận thiêng liêng, có tính cách hầu như tuyệt đối: “bất hiếu hữu tam, vô hậu vị đại”. Trở thành Kitô hữu chỉ còn là giấc mơ, lui tới cửa chùa chỉ là liều thuốc an thần, còn thực tế guồng máy chặt chẽ của quan niệm gia đình theo Khổng giáo hoàn toàn chi phối đời tôi trong thời gian ấy.
Hết niên học 48, tôi không dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh. Thân phụ tôi muốn tôi phải trở về dạy học lại Hương Sơn ở tại nhà, vì tôi lúc đó là người con trai lớn nhất của gia đình. Sau này sẽ là cột trụ - của một gia đình được xem là “đại gia thế”! Tới niên học 1948 - 1949 trường trung học phổ thông dân lập được mở tại huyện nhà, tôi được mời cộng tác phụ trách môn việt văn cho hai lớp đệ nhị và đệ tam. Nhưng trước khi tới ngày khai giảng, vào quãng tháng chín tháng mười dương lịch năm 1948, còn từ tháng năm trở đi, suốt mấy tháng hè tôi ở nhà trong bầu không khí vô cùng ảm đạm: nhà anh thứ hai thì chị dâu với bốn cháu gái tang tóc thê lương, tại chính nhà tôi thì bước vào chế độ mới. Với quá khứ địa chủ quan lại theo quan niệm ít nhiều phong kiến Nho giáo, không khỏi có những bất ổn trong việc thích nghi với đời sống mới đang lên, nhất là một số biện pháp hơi tả khuynh quá khích của một số cán bộ ở địa phương, đời sống có phần ngột ngạt, tẻ nhạt. Sức khỏe tôi cứ giảm sút dần, tốn kém bao nhiêu là thuốc men bồi dưỡng cũng không thuyên giảm, đến mức độ có thể gần như nguy hại đến tính mạng. Bệnh mất ngủ và bệnh đau dạ dày cứ làm tôi kiệt sức dần. Tinh thần căng thẳng đến mức độ mà đã có nhiều hôm, sau một đêm thức trắng, tôi bị thần kinh chứng vùng lên gào thét như điên! Tâm trạng lúc ấy như một kẻ bị cầm tù, mà nhà tù là cái nhiệm vụ gần như là trưởng nam phải kế tục duy trì nề nếp gia phong và nối dõi tông đường, tức là việc lập gia đình, lấy vợ sinh con. Trong lúc tâm hồn tôi ứ đọng quan niệm cho sự hiện hữu của tôi là cái “đại họa”! Thế mà lại phải đi vào cái nghiệp là sinh ra những đứa con thừa kế cái nghiệp “khổ”. Thực tế thì phải sống theo quan niệm Khổng giáo, mà tâm hồn tôi thì hoàn toàn yếm thế bi quan. Sự mâu thuẫn căng thẳng đến mức độ tối đa, đến nỗi hơi sống của tôi đôi lúc gần đứt, khiến thầy mẹ tôi bắt đầu lo ngại sự sống còn của tôi. Tôi nhớ trong một cơn đau thiếp đi tôi mơ màng nghe thân phụ tôi nói với vị lương y bắt mạch cho tôi rằng: “Tôi sợ rằng cháu sẽ không qua khỏi!”. Cái ám ảnh lớn nhất của tôi là phải đi đến chỗ sinh con cái tạo nên nghiệp chướng oan gia. Phần nào tôi sinh ra lòng oán hờn những ai đã làm cho tôi phải có, để mang lấy kiếp người khổ lụy. Phần nào oán hận ai đã sinh thành đã đành! Mà oán hận luôn cả Thượng đế! Có lúc tôi gầm lên: “Créateur, si tu existes, je te hais!” – “Tạo hóa, nếu ngươi có, ta căm thù ngươi!”. Đôi khi ý tưởng quyên sinh lảng vảng trong đầu tôi. Và rồi cái ý định không lập gia đình đã nảy ra trong tôi, dần dần thành một quyết định có tính cách như một lôi cuốn không gì cưỡng nổi. Nhưng tôi biết thổ lộ điều ấy với cha mẹ tôi thì có khác gì đem một hung tin cho gia đình: con cả thì không hy vọng trở về, con thứ hai thì mất đi mà không có con trai, con trai thứ ba lại có ý không muốn lập gia đình mà có ý muốn xuất gia! Một nhà nho mà bị rơi vào cảnh ấy thì khổ tâm cho thân phụ tôi lắm! Cho nên dầu đã quyết, nhưng tôi cũng chưa dám hé môi.
Rồi một hôm, tôi tìm sư Mật Thể xin ý kiến, trong lúc bày tâm trạng mình, tôi cũng không dấu diếm Ngài việc lòng tôi ao ước tòng Kitô giáo, tôi phải xác nhận một điều rằng, sư Mật Thể là một vị cứu tinh trời gởi đến cho tôi qua khỏi giai đoạn khốc hại nhất đời tôi, vào mùa hè năm 1948. Đại ý ngài khuyên tôi:
– Là một nhà sư, tôi nghĩ rằng việc anh phải lập gia đình để nối dõi không phải là bổn phận nhất định anh phải gánh lấy với bất cứ giá nào. Vả trong tâm trạng hiện nay của anh, vì tình trạng sức khỏe của anh bị cái ám ảnh phải lập gia đình uy hiếp đến mức độ có thể đinh đến kết quả khó lường, thì việc cần kíp là phải tạo điều kiện tâm lý thuận lợi cho anh phục hồi sức khỏe thể chất và nhất là tinh thần. Anh cần phải được tháo gỡ khỏi mọi ràng buộc đang đè nặng, là lời đính hôn. Còn việc anh có đủ căn duyên xuất gia đầu Phật gởi mình nơi cửa thiền hay không, hay là nên tòng Kitô giáo ta chưa có đủ yếu tố bàn đến, sau khi anh bình phục hẵng hay! .
Tôi còn nhớ Ngài tủm tỉm cười:
– Biết đâu sau khi sức khỏe phục hồi, anh lại khác hẳn muốn lập gia đình cũng nên!… và nếu thế thì kết hôn với ai lúc đó sẽ tính.
Và Ngài kết luận:
– Anh hãy can đảm trình bày rõ với cụ, cụ là bậc túc nho, rộng rãi, khoáng đạt, tôi chắc cụ sẽ hiểu và sẽ tùy ý anh muốn, ít là như một sự hoãn binh. Cho nên anh cũng chỉ cần thưa với cụ vì lúc đính hôn quá cấp bách, có tính cách chạy tang, nay suy nghĩ lại sợ sự lựa chọn chưa được chín chắn, và sức khỏe chưa biết hao giờ hồi phục, xin từ hôn trả tự do cho người đã đính hôn, kẻo để lâu mới kết hôn e bất tiện!… Mà thật ra, về phần anh, anh cũng hoãn binh. Vì với tình trạng hiện nay của anh, chưa rõ tương lai ra sao, chỉ biết một điều là anh phải bình phục để mà sống (vì dù sao cả đối với Phật giáo, bảo vệ sự sống vẫn là trước tiên). Mà muốn bình phục thì hiện thời anh nên từ hôn để hoàn toàn tự do thoải mái. Thương anh, và đạt đạo như cụ, cụ sẽ hiểu, và tôi chắc cụ sẽ nhận lời anh yêu cầu. Nếu anh về trình bày với cụ mà cụ không chịu, anh cho tôi hay, tôi sẽ lên thăm cụ và nói giúp cho anh. Tôi đã nhiều lần hầu chuyện với cụ trong những dịp đi họp Liên Việt Khu 4, chắc cụ sẽ dành cho tôi một sự lắng nghe nào đó thuận lợi cho anh.
Thế là, được sự khích lệ của Mật Thể tôi tỏ bày ý muốn xin từ hôn với thân phụ tôi. Thật là vô cùng ngạc nhiên, tôi vừa nói vài câu, thân phụ tôi đã hiểu, người chỉ nhẹ thở dài mà trả lời:
– Ta cũng đoán trước là như vậy rồi! Con chưa có ý muốn lập gia đình, nhưng lúc đó nể lời khẩn khoản của anh con trước lúc sắp mất, mà bất đắc dĩ con nhận lời để anh con yên tâm nhắm mắt. Nay việc tang đã qua rồi, anh con đã an nghỉ, con lại chùn bước. Thôi ta cũng tùy con vậy!
Thế là đêm ấy, thầy mẹ tôi thì thầm trao đổi rất lâu dưới ngọn đèn dầu phụng lù mù. Còn tôi trở về giường ngủ, vừa lo vừa sợ, vừa thương cho thân phụ tôi vừa cảm phục người vô cùng về sự minh mẫn và lòng thương của người đối với tôi. Sáng hôm sau tôi còn nằm trên giường vì tôi vẫn yếu, mẹ tôi lại gần khuyên tôi nên xét lại, vài câu lấy lệ, hơi rướm nước mắt, nhưng cũng chỉ nhẹ thở dài khi tôi nói với người rằng:
– Dầu sao thì hiện nay con cần được tháo gỡ mối ràng buộc để được thanh thản tự do mới mong lành mạnh trở lại được chứ!
Người im lặng đứng dậy rút lui nhẹ nói:
– Ừ thì tùy ý con!
Chiều hôm sau mẹ tôi đi đến nhà vị hôn thê của tôi xin cho tôi được từ hôn, vì lý do sức khỏe tôi chưa biết bao giờ hồi phục, để người vị hôn thê phải chờ không tiện. Tôi nhớ chiều hôm ấy, trên đường về nhà, người bị một cơn mưa bất ngờ ướt tầm tã. Vào nhà chưa kịp buông nón, người nói với tôi có vẻ hờn dỗi, đưa cho tôi xem chiếc hộp đựng nữ trang mà gia đình tôi trao tặng người vị hôn thê ngày đính hôn:
– Người ta trả tại cho mình đấy!
Bữa cơm tối hôm ấy không có tôi, vì tôi vẫn ăn cháo riêng, nhưng chắc là buồn lắm. Thế nhưng tôi đêm hôm ấy thì ngủ được một giấc dài. Sáng hôm sau thức dậy, tiếng chim hót trên cành cây bưởi bên cửa sổ gần phòng tôi, nghe như báo hiệu một điềm lành. Và từ từ sức khỏe tôi được phục hồi. Bây giờ nghĩ lại tôi rất thương thầy mẹ tôi nhưng biết làm sao khác được! Vả chăng, nếu không có sự khuyến khích của sư Mật Thể, mà tôi e dè không dám trình bày nỗi niềm với cha mẹ tôi, cứ ôm lấy những uẩn khúc trong lòng, thì liệu sức khỏe tôi sẽ ra sao? Chắc gì tôi còn sống đến ngày nay thỉnh thoảng vấn an mẹ già! (mẹ trên 80, con trên 60), vui vẻ thuận hòa với anh em bà con nội ngoại, hay lại theo chân người anh thứ hai tôi dưới ba tấc đất từ lâu? Tháng 9 dương lịch năm 1948, trường trung học Hương Sơn khai giảng, lúc ấy sức khỏe đã tạm phục hồi, nên tôi tiếp tục nghề dạy học tại huyện nhà. Lại một sự trùng hợp đầy ý nghĩa: ngôi trường trung học dân lập vách đất lợp tranh này tọa lạc tại làng Tứ Mỹ, tiếp cận giáo xứ Đông Tràng chỉ cách một cây số, còn nhà tôi cách sông và xa quãng chừng 5 cây số. Có anh Trần Đức Đào là một giáo viên người Công giáo thuộc giáo xứ Đông Tràng. Để giảm bớt sự đi lại từ nhà trường về nhà, nhất là những ngày tôi có giờ dạy buổi chiều, những tháng mùa đông rét mướt, tôi trọ đêm tại nhà anh Đào để sáng mai ra trường cho gần. Thế là tôi lại được đặt vào môi trường Kitô giáo, dưới mái nhà của một người bạn đồng nghiệp rất tốt.
Thế là tôi đã quyết định bước vào ngưỡng cửa Đại Gia Đình Công giáo, tiến tới việc xin đón nhận ơn Thánh Tẩy trở thành chi thể của Nhiệm thể Đức Giêsu mà trong thâm tâm tôi, tôi đã tuyên xưng như lời kinh Tin kính; trong tâm tư thì vậy, nhưng đi đến việc thực hiện quả là còn cách núi ngăn sông; không biết bao nhiêu là khó khăn ngăn trở khá lớn lao nặng nề.
Trước hết là những khó khăn trong tâm tư của chính mình đi từ ước muốn đến quyết định là một bước dài bất cứ về việc gì - huống chi đây là một sự xoay chiều đến l80 độ góc, gần như nhảy xuống một vực thẳm không đáy! Những trở ngại về nội tâm lý trí, cảm tính, quán tính, nhiều lúc phản kích rất mãnh liệt, nhất là cảm tưởng sẽ xa lìa tất cả: xa lìa với gia đình, với bạn bè, với hàng xóm, với cả mấy ngàn năm truyền thống văn hóa. Không biết tổ phụ Abraham lúc rời Đất tổ theo tiếng Chúa gọi như thế nào, chứ tôi thì mới tưởng đến việc thỉnh chuông thu không 108 tiếng ở chùa Linh Quang, tiếng gõ mõ trầm mặc, những nếp cổng chùa tam quan rêu phủ, các hương án sơn son thếp vàng, những gốc đại trước hồ bán nguyệt, những bài vị của ông bà tổ tiên, những ngày kỵ giỗ… là cứ như đã có ai níu kéo mình lại. Rồi tưởng đến việc xưng tội là phát nản. Từ trước tôi vẫn ghét hình ảnh người tín hữu chui ra chui vào tòa cáo giải, thì thầm thì thụt với linh mục, lột trần mình ra với một người không chắc gì thấu hiểu được mình, tài đức chưa chắc gì đã hơn mình, có khi không đủ trình độ mà hiểu mình nữa. Thật là một việc ớn ngấy! Rồi đổ nước lên đầu, xoa dầu vào trán, hà hơi vào mặt, “lè lưỡi” ăn bánh thánh phải chăng là phù thủy, ma thuật? Ngay cả một số từ ngữ cũng có một cái gì xa lạ: “Thân lạy Đức cha! Trọn tốt trọn lành, sáng danh, đức cậy, lễ săng-ti, lễ di- xúp, chầu lượt, tuần đại phúc, cấm phòng… gần như ngoại ngữ, có cảm tưởng như tiếng thượng! Rồi cơ chế phẩm trật Hội Thánh, các điều răn, các điều khoản giáo luật như cả một hệ thống gông cùm trói buộc chặt. Rồi đến tên các vị thánh: Phê-rô, Phao-lô, A-ga-ta, A-nê, Per-pê-tu-a, Lê-ô, Giu-se, Mô-sê vv… đem so sánh với các vị tên tuổi Vạn Hạnh, Huệ Năng, Tuệ Tĩnh, Huyền Trang… thì quả là man rợ… thô lỗ! Các tượng ảnh cũng vậy: toàn là những người mũi cao, mắt xanh ria xồm xoàm, áo quần xa lạ. Rồi các nhà thờ, tu viện, cứ y như là bên Tây Phương xách sang ghép vào cảnh trí Việt Nam, không có cái hài hòa với phong cảnh chung quanh như các chùa chiền, đình miếu với cửa tam quan, với tháp bảy từng, với các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, chạm trổ tứ bình, tứ bửu, tứ linh… Nghĩ đến phải cảm nhận lấy tất cả những cái ấy, thật là ớn lạnh, toát mồ hôi, có cảm tưởng như bị khoác vào một cái áo lạ hoắc khác màu, khác vị. Cả việc tế tự cũng thế: tai đã quen với “khởi chỉnh cổ”, bát âm nhã nhạc, giọng văn tế cung chầu văn; nay phải đi vào thế giới của nhạc giê-gô-ri-ô, đàn orgue đàn harmonium - hay đấy nhưng thật xa lạ… lễ phục Công giáo - đẹp đấy nhưng thiếu hình ảnh con rồng, con hạc, con phượng, con quy; thiếu hình ảnh bát tiên quá hải, đã từng đưa tôi vào một cõi thần tiên đầy mộng đẹp. Tôi cảm thấy nhớ nhung đến nhức nhối những huyền thoại: Thần nông, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Lư Sơn Thánh Mẫu, Vương Thiều Lão Tổ, Liễu Hạnh Công Chúa, Thiên Mụ, Diệu Đế, Từ Đàm, Từ Hiếu, Linh Sơn, Linh Quang, những cái tên gợi lên cả một thế giới thanh cao huyền bí. Chiếc áo nâu sồng sẽ bị thay thế bằng chiếc áo đỏ, áo tím sặc sỡ của Hồng y, giám mục, chiếc gậy trúc có đính quả đào sẽ được thay thế bằng chiếc gậy vàng đầu cong của giám mục. Khi thờ phượng sẽ không có đỉnh trầm nghi ngút, mà chỉ có bình hương lủng lẳng “đưa xít” vào mặt người ta, như xông cho kẻ bị ốm! vv… Rồi các nữ tu đủ kiểu áo, kiểu lúp, kiểu mũ, trông sao quá nặng hình thức lăng nhăng, lố nhố! Cuối cùng ngay cả chính tượng Chúa chịu nạn: nhìn Chúa mình mẩy bầm nát, mặt mũi quằn quại, trần truồng căng ra trên thánh giá, đôi khi trông quá ghê rợn - tôi lại tiếc nhớ tượng Phật điềm đạm trên toà sen thanh khiết, chỉ có tượng ảnh Đức Mẹ là có cái gì gần gũi, thân thiết (nhưng lại da trắng mắt xanh!). rời bỏ truyền thống nghìn xưa của gia đình, dân tộc Đông phương để bước vào thế giới Công giáo, tôi nghĩ có thể chết điếng người đi được, tương tự Tê-rê-sa thành A-vi-la khi rời bỏ gia đình dấn thân vào tu viện… Đến nỗi, ngay cả những xuyên tạc, bôi bác về sự Đức Mẹ sinh con, cách chế biến dầu Thánh từ mắt trẻ con, cho đến cả vai trò Linh mục trong hôn phối mà tôi vẫn biết là xuyên tạc, bôi bác do ác ý bôi nhọ “tà đạo của Tây dương” nhưng đã nghe từ tấm bé, đôi lúc vẫn như ám ảnh tâm tư cộng thêm những câu chế diễu móc họng của Voltaire, của Roman de la rose, của Mystères des couvents. Rồi hình ảnh vụ án Galilée, các giàn hoả thiêu của tòa trừng giáo vv… Tất cả những cái ấy đôi khi như kết bè kết lũ réo lên ầm ỹ: hãy coi chừng đừng dại đâm đầu vào chỗ chết.
Nhân dịp này, tôi nghĩ chúng ta cần phải thẳng thắn và can đảm nhìn nhận rằng điều mà Các Mác gọi là “tha hóa” tôn giáo, không phải là không nói lên một khía cạnh nào đó của một người đi từ thế giới không có tín ngưỡng, bước vào thế giới tín ngưỡng như Kitô giáo và nhất là Công giáo, bỏ quê hương như Abraham, bỏ cha mẹ, anh em, con cái bỏ cả chính mình để vác thập giá: không tha hóa là gì! Chết đi đối với con người cũ, đánh mất sự sống… Không tha hóa là gì khi theo Chúa Giêsu là hiến thân mình cho Ngài, vào Hội Thánh là không còn lấy cá nhân mình làm rốn vũ trụ nữa, không tha hóa là gì? Từ ngoài Công giáo bước vào Công giáo, là phải trải qua một sự chết đi! Chính sự chết đi ấy đã làm nhiều người chùn bước. Chính việc “nhảy tùm” xuống như nhảy vào vực thẳm không lường được ấy (saut dans l’inconnu) làm cho việc theo đạo có cái gì khủng khiếp, vì đây cuối cùng là phó thác cho Thiên Chúa, chứ không phải là chấp nhận một lý thuyết mà lý trí nhìn nhận chân là đúng, như chấp nhận một định lý thuyết toán học hay một định luật khoa học. Ở đây có cái gì như “xử nữ” xuất giá tòng phu hiến thân cho một người khác cha, khác mẹ, khác địa phương, chỉ có thể thực hiện được khi bị lôi cuốn, thúc đẩy bởi một cái gì rất mãnh liệt, một thần lực (có nhiều dạng như ma lực). Không đi qua ngưỡng cửa của sự chết ấy thì khó lòng trở lại, (mầu nhiệm “khổ giá” kia mà).
Nói cách khác, tôi nghĩ: không có ơn Chúa thì khó mà vượt qua (và đương nhiên, kẻ thù nghịch muôn đời đã cám dỗ ông bà nguyên tổ đã lởn vởn quanh Đức Giêsu trong vườn hoang địa, đã quấy phá Thánh An-tôn tu rừng, phá phách nhà xứ họ Ars, sẽ không để người ta yên: nó sẽ dùng mọi mưu chước để ngăn chận, phá phách cho kỳ được). Do đó, một người trở lại, cả chín tầng trời reo lên vui mừng là phải! Một chàng trai lúc 13 tuổi với cái láo xược của một “cậu ấm” con quan khoa bảng đất Nghệ, lại tô thêm tư tưởng tự do tư bản, đã khẳng định “không bao giờ”, vậy mà giờ đây chịu cúi đầu để một cha xứ nhà quê dội nước lên đầu thì quả là một phép lạ. Sau gần 40 năm chịu phép Rửa mà nhiều lúc (nhất là sau lúc ngủ dậy) chính bản thân tôi cũng còn còn lấy làm kinh ngạc! Và chắc chắn là sẽ còn kinh ngạc muôn đời: chẳng khác gì phép lạ đưa dân Chúa qua biển đỏ, thoát ách khống trị của Pha-ra-ô.
Sau đây là những trở ngại khách quan:
Trước hết là gia đình: đối với một nhà Nho cỡ lớn đất Nghệ Tĩnh. Có đứa con “theo đạo” là cả một sự “sỉ nhục” trước mắt bà con xóm làng, huyện, tỉnh: và ở vị trí gia đình tôi, trước mắt cả một giai cấp thượng lưu gần như toàn quốc! gặp các cụ khoa bảng đất Nghệ, đất Thanh, đất Bắc, đất Thần Kinh, thân phụ tôi sẽ đau đớn nhục nhã khi có vị nào nhắc đến thằng con trai đã bỏ truyền thống của cha ông, của địa phương của giống nòi để đi theo “Tây Dương tà đạo”. Cách đó vài chục năm, thân phụ của linh mục Nguyễn Văn Thích, đã bắt Ngài phải chọn lựa giữa cái chết và theo đạo! Nghĩ đến sự đau đớn và nhục nhã của thân phụ tôi, sự lo buồn của mẹ tôi, của anh chị em, chú bác, cô dì tôi, thật không thể tả nổi nỗi ái ngại của tôi. Nhất là, tôi vốn là một người con, một người cháu được khen là hiếu thuận, rất được thương yêu! “Theo đạo” là kể như cắt đứt tất cả. Cái cơ sự bị “từ” hầu như là chắn chắn, không từ ra mặt, đuổi khỏi nhà, thì cũng trong lòng. Thật vậy, thân phụ tôi thì tính tình điềm đạm, ăn nói từ tốn: chỉ có một ông chú và một bà cô, chị của thân phụ tôi, sau khi tôi chịu phép rửa, mỗi lần gặp tôi là ra mặt giận thực sự và có những lời mai mỉa chua cay! Bà cô ấy đã khóc ầm lên mà hỏi tôi như gào thét: “Mày, cha ông mày có tội gì mà cúi đầu để cho chúng xối nước lên!”. Sau ngày rửa tội, mỗi lần về nhà, tôi thấy có cái gì u uất đè lên mối tương giao, thật tôi không khỏi có cái cảm giác như mình đã vô ơn, bạc nghĩa, bạc tình. Quả vậy gần 30 năm sau, khi tôi bị ít nhiều gian nan, một bà cô đã nói: đó! Trời phạt nó đấy, ai bảo nó phản bội cha ông, bỏ đi mà theo đạo! .
Năm 1948, tuy gia đình tôi chưa rơi vào tình cảnh bi đát của năm 53 – 56, nhưng cũng bắt đầu xuống dốc: nếu chần chừ, có thể tôi sẽ như Bergson, muốn tòng giáo, nhưng trong dân Do Thái bị Đức Quốc xã tàn sát, ông không nỡ làm một việc như là “chuột chạy khỏi nhà cháy” trốn lửa. Tòng giáo có thể hiểu như là đào ngũ lúc gần bại trận. Rắc rối thêm là vấn đề chính trị: lúc ấy ở Bùi Chu, Phát Diệm, phong trào chống cộng đã khá gay gắt, và hình như đã bắt đầu có tổ chức “liên tôn chống cộng” của ba tôn giáo chính: Khổng, Phật và Gia-tô! Sự tòng giáo của tôi có thể gây ra ngộ nhận, ít nhất là đối với một số cán bộ nào đó cũng như đối với quảng đại quần chúng. Quả vậy sau khi tôi rửa tội, có kẻ đã nói: “đạo nghĩa gì! Bố nó bảo nó giả vờ theo đạo để có cớ liên lạc với tụi cha cố vào tổ chức liên tôn - chống cộng đấy!” Đó lại là điều mang tác hại lớn cho thân phụ tôi vốn thuộc thành phần quan lại địa chủ. Tính đến chuyện chịu phép Rửa trong tâm trạng như vậy, giữa một hoàn cảnh như vậy thật như ôm một quả mìn nổ chậm. Chết mình đã đành còn chết lây cả người thân kế cận. Một người yếu đuối như tôi tưởng như khó lòng vượt qua được bao nhiêu là cửa ải gian nan, cho nên tôi cứ chần chừ lần lữa; cũng xin nói rõ ràng rằng ý muốn tòng giáo là do tự tôi hoàn toàn, chứ không có ai rủ rê lôi cuốn. Mà tôi cũng không thổ lộ với ai cả, ngay cả với anh Vương Đình Lương, vì đối với tôi, nói ra với anh Lương thì gần như là hứa quyết, sợ sau lại nuốt lời, xấu hổ! Chỉ có thỉnh thoảng tôi lại lén lút đi dự lễ hoặc vào nhà thờ cầu nguyện. Thật là “nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?”, đành chỉ một mình mình biết, một mình mình hay! Dĩ nhiên, nói vậy là không nói đến ơn Chúa, nhưng ơn Chúa dường như lại quá siêu nhiên kín nhiệm, vì lúc ấy về mặt tâm lý, tôi như bị bỏ rơi, không cảm nghiệm được sự an ủi khích lệ thiêng liêng nào cả, ngoại trừ bóng dáng dịu hiền của Đức Mẹ qua bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong nhà thờ Nghĩa Yên mà thỉnh thoảng tôi đến quì nhìn lên xin ơn phù trợ. Nhưng sự an ủi khích lệ về phía Đức Mẹ cũng chỉ là giới hạn, chứ không cảm nghiệm được về mặt tâm lý. Tôi như bị bao vây bởi đêm dày. Có lẽ cụ Abraham khi đáp tiếng Chúa gọi đem con lên núi làm lễ hy tế, Yacóp khi trở về giáp mặt Ê-Dau, phải vật lộn thâu đêm với thiên thần, cũng ở trong một đêm tối tương tự. Bà Acarie, bà Jeanne de Chantal khi rời bỏ gia đình con cái để lập dòng, chắc cũng vậy. Về mặt cảm nghiệm tâm lý, tôi thấy như là bất lực, và có cảm tưởng chắc rằng cuối cùng sẽ rút lui với tiếc nuối u hoài, chứ không thấy có đủ can đảm mà vượt qua nổi bao nhiêu khó khăn lớn lao như vậy! Nhất là mỗi lúc nghĩ đến mẹ và các em còn bé. Vì lúc ấy tôi gần như là con trai trưởng trong gia đình, anh Viện tôi dù ở Pháp không hy vọng gì có thể trở về Việt Nam. Người anh thứ hai tôi thì bị chứng ho lao sắp mất mà chỉ có cháu gái, chưa có cháu trai. Lại nghe tin anh Viện tôi ở Pháp cũng bị chứng lao trầm trọng, chưa chắc là có sống lâu được, để mong ngày về lập gia đình sinh con nối dõi tông đường. Mà đó lại là vấn đề vô cùng quan trọng đối với một gia đình Nho giáo như gia đình tôi. Rồi ông anh thứ hai của tôi biết mình sắp mất, chưa có con trai, càng hối thúc tôi lập gia đình trước khi anh ấy nhắm mắt! Nhưng tôi thì lúc ấy còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện vợ con, vì tôi nghĩ rằng lập gia đình là thắt chặt vào cái khuôn khổ của Khổng giáo, việc tòng giáo càng thêm khó khăn.
Thế nhưng, rồi trước sự hối thúc, van nài của gia đình, cha mẹ, họ hàng và nhất là của người anh sắp chết, tôi nhận lời đính hôn với một thiếu nữ mà tôi chỉ đi “coi mắt” có một lần: không yêu, không ghét, dửng dưng như cái máy, đập đi hò đứng, làm một việc bổn phận thiêng liêng của gia đình theo truyền thống Nho giáo. Gấp rút đến nỗi đính hôn chưa đầy một tháng, gia đình tôi xin cưới gần như để chạy tang anh tôi! Nhà gái xin hoãn lại ít lâu, vì theo lời bà mẹ vị hôn thê của tôi: “gia đình cụ thì quá lớn, mà cháu thì còn quá dại, xin cho tôi dạy dỗ thêm một thời gian”. Đối với tôi lúc ấy, việc thuận tình lập gia đình theo đòi hỏi của tinh thần Nho giáo, có ý nghĩa như là một sự đầu hàng, là để cho Truyền thống Nho giáo đánh bại ý muốn tòng giáo. Sự đầu hàng ấy đưa tôi vào một tâm trạng rất phiền muộn, tôi sống như một cái máy vô hồn, không làm chủ đời mình mà hoàn toàn theo lề lối đòi hỏi thật ra cũng phần nào chính đáng của gia đình. Nhưng riêng mình thì rất buồn nản và khổ sở. Ý định tòng giáo cứ như mờ nhạt dần mặc dầu lòng ao ước vẫn mãnh liệt. Sự mâu thẫn bên trong ấy làm cho tôi phải luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng như bị xâu xé giữa hai sức kéo nghịch nhau: sức khỏe tôi vì vậy cứ dần dần kém sút, bệnh mất ngủ xuất hiện, bệnh đau dạ dày tái phát ngày càng trầm trọng
Vì đã bỏ ý định tòng giáo nên tôi đã hướng về nơi cửa Phật để tìm nguồn an ủi thoa dịu. Lúc ấy sư Mật Thể vì được bầu vào Quốc hội khóa I, nên từ Huế di tản ra Nghệ Tĩnh, và ngụ tại một ngôi chùa ở Đức Thọ, tôi thường lui tới gặp ngài để tâm sự. Mỗi lần cùng Ngài đàm đạo và ra trước bàn thờ Phật, hình ảnh Đức Phật với thái độ an nhiên tự tại giúp tôi như được bằng yên thoa dịu. Nhưng tôi thấy rằng sự an ủi ấy chỉ đến khi tôi ở dưới mái chùa như tạm thời quên đi cuộc sống thực tại chứ ra khỏi chùa là tôi tại thấy cuộc đời với trăm nghìn mối tơ vò. Mượn một hình ảnh cho dễ hiểu: Đức Phật chỉ an ủi tôi khi tôi vào chùa chứ ngài không đồng hành với tôi trên đường đời cụ thể đầy những eo sèo thực tế. Nói như kiểu thời nay, Ngài hình như chỉ có diện thoát tục, chứ không nhập thế dấn thân, mà tôi thì phải lặn ngụp vào cái biển đời với bao sóng gió. Ngài chỉ là bậc thầy chỉ cho con đường lánh xa cõi trần ai trầm luân, chứ Ngài không phải là bạn đồng hành trên con đường trần lụy. Tình trạng ấy cứ kéo dài, thế rồi vào đầu năm 1948, người anh thứ hai của tôi từ trần sau khi chị dâu tôi lại sinh hạ thêm một cháu gái thứ tư. Anh Viện tôi vừa ở nơi trời Tây cách xa muôn dặm, vừa bị một chứng nan y, hầu như tuyệt vọng, mà anh thứ hai mất đi không để người nối dõi. Thế là tôi trở nên gần như người trưởng nam trong gia đình, nên việc lấy vợ sinh con là bổn phận thiêng liêng, có tính cách hầu như tuyệt đối: “bất hiếu hữu tam, vô hậu vị đại”. Trở thành Kitô hữu chỉ còn là giấc mơ, lui tới cửa chùa chỉ là liều thuốc an thần, còn thực tế guồng máy chặt chẽ của quan niệm gia đình theo Khổng giáo hoàn toàn chi phối đời tôi trong thời gian ấy.
Hết niên học 48, tôi không dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh. Thân phụ tôi muốn tôi phải trở về dạy học lại Hương Sơn ở tại nhà, vì tôi lúc đó là người con trai lớn nhất của gia đình. Sau này sẽ là cột trụ - của một gia đình được xem là “đại gia thế”! Tới niên học 1948 - 1949 trường trung học phổ thông dân lập được mở tại huyện nhà, tôi được mời cộng tác phụ trách môn việt văn cho hai lớp đệ nhị và đệ tam. Nhưng trước khi tới ngày khai giảng, vào quãng tháng chín tháng mười dương lịch năm 1948, còn từ tháng năm trở đi, suốt mấy tháng hè tôi ở nhà trong bầu không khí vô cùng ảm đạm: nhà anh thứ hai thì chị dâu với bốn cháu gái tang tóc thê lương, tại chính nhà tôi thì bước vào chế độ mới. Với quá khứ địa chủ quan lại theo quan niệm ít nhiều phong kiến Nho giáo, không khỏi có những bất ổn trong việc thích nghi với đời sống mới đang lên, nhất là một số biện pháp hơi tả khuynh quá khích của một số cán bộ ở địa phương, đời sống có phần ngột ngạt, tẻ nhạt. Sức khỏe tôi cứ giảm sút dần, tốn kém bao nhiêu là thuốc men bồi dưỡng cũng không thuyên giảm, đến mức độ có thể gần như nguy hại đến tính mạng. Bệnh mất ngủ và bệnh đau dạ dày cứ làm tôi kiệt sức dần. Tinh thần căng thẳng đến mức độ mà đã có nhiều hôm, sau một đêm thức trắng, tôi bị thần kinh chứng vùng lên gào thét như điên! Tâm trạng lúc ấy như một kẻ bị cầm tù, mà nhà tù là cái nhiệm vụ gần như là trưởng nam phải kế tục duy trì nề nếp gia phong và nối dõi tông đường, tức là việc lập gia đình, lấy vợ sinh con. Trong lúc tâm hồn tôi ứ đọng quan niệm cho sự hiện hữu của tôi là cái “đại họa”! Thế mà lại phải đi vào cái nghiệp là sinh ra những đứa con thừa kế cái nghiệp “khổ”. Thực tế thì phải sống theo quan niệm Khổng giáo, mà tâm hồn tôi thì hoàn toàn yếm thế bi quan. Sự mâu thuẫn căng thẳng đến mức độ tối đa, đến nỗi hơi sống của tôi đôi lúc gần đứt, khiến thầy mẹ tôi bắt đầu lo ngại sự sống còn của tôi. Tôi nhớ trong một cơn đau thiếp đi tôi mơ màng nghe thân phụ tôi nói với vị lương y bắt mạch cho tôi rằng: “Tôi sợ rằng cháu sẽ không qua khỏi!”. Cái ám ảnh lớn nhất của tôi là phải đi đến chỗ sinh con cái tạo nên nghiệp chướng oan gia. Phần nào tôi sinh ra lòng oán hờn những ai đã làm cho tôi phải có, để mang lấy kiếp người khổ lụy. Phần nào oán hận ai đã sinh thành đã đành! Mà oán hận luôn cả Thượng đế! Có lúc tôi gầm lên: “Créateur, si tu existes, je te hais!” – “Tạo hóa, nếu ngươi có, ta căm thù ngươi!”. Đôi khi ý tưởng quyên sinh lảng vảng trong đầu tôi. Và rồi cái ý định không lập gia đình đã nảy ra trong tôi, dần dần thành một quyết định có tính cách như một lôi cuốn không gì cưỡng nổi. Nhưng tôi biết thổ lộ điều ấy với cha mẹ tôi thì có khác gì đem một hung tin cho gia đình: con cả thì không hy vọng trở về, con thứ hai thì mất đi mà không có con trai, con trai thứ ba lại có ý không muốn lập gia đình mà có ý muốn xuất gia! Một nhà nho mà bị rơi vào cảnh ấy thì khổ tâm cho thân phụ tôi lắm! Cho nên dầu đã quyết, nhưng tôi cũng chưa dám hé môi.
Rồi một hôm, tôi tìm sư Mật Thể xin ý kiến, trong lúc bày tâm trạng mình, tôi cũng không dấu diếm Ngài việc lòng tôi ao ước tòng Kitô giáo, tôi phải xác nhận một điều rằng, sư Mật Thể là một vị cứu tinh trời gởi đến cho tôi qua khỏi giai đoạn khốc hại nhất đời tôi, vào mùa hè năm 1948. Đại ý ngài khuyên tôi:
– Là một nhà sư, tôi nghĩ rằng việc anh phải lập gia đình để nối dõi không phải là bổn phận nhất định anh phải gánh lấy với bất cứ giá nào. Vả trong tâm trạng hiện nay của anh, vì tình trạng sức khỏe của anh bị cái ám ảnh phải lập gia đình uy hiếp đến mức độ có thể đinh đến kết quả khó lường, thì việc cần kíp là phải tạo điều kiện tâm lý thuận lợi cho anh phục hồi sức khỏe thể chất và nhất là tinh thần. Anh cần phải được tháo gỡ khỏi mọi ràng buộc đang đè nặng, là lời đính hôn. Còn việc anh có đủ căn duyên xuất gia đầu Phật gởi mình nơi cửa thiền hay không, hay là nên tòng Kitô giáo ta chưa có đủ yếu tố bàn đến, sau khi anh bình phục hẵng hay! .
Tôi còn nhớ Ngài tủm tỉm cười:
– Biết đâu sau khi sức khỏe phục hồi, anh lại khác hẳn muốn lập gia đình cũng nên!… và nếu thế thì kết hôn với ai lúc đó sẽ tính.
Và Ngài kết luận:
– Anh hãy can đảm trình bày rõ với cụ, cụ là bậc túc nho, rộng rãi, khoáng đạt, tôi chắc cụ sẽ hiểu và sẽ tùy ý anh muốn, ít là như một sự hoãn binh. Cho nên anh cũng chỉ cần thưa với cụ vì lúc đính hôn quá cấp bách, có tính cách chạy tang, nay suy nghĩ lại sợ sự lựa chọn chưa được chín chắn, và sức khỏe chưa biết hao giờ hồi phục, xin từ hôn trả tự do cho người đã đính hôn, kẻo để lâu mới kết hôn e bất tiện!… Mà thật ra, về phần anh, anh cũng hoãn binh. Vì với tình trạng hiện nay của anh, chưa rõ tương lai ra sao, chỉ biết một điều là anh phải bình phục để mà sống (vì dù sao cả đối với Phật giáo, bảo vệ sự sống vẫn là trước tiên). Mà muốn bình phục thì hiện thời anh nên từ hôn để hoàn toàn tự do thoải mái. Thương anh, và đạt đạo như cụ, cụ sẽ hiểu, và tôi chắc cụ sẽ nhận lời anh yêu cầu. Nếu anh về trình bày với cụ mà cụ không chịu, anh cho tôi hay, tôi sẽ lên thăm cụ và nói giúp cho anh. Tôi đã nhiều lần hầu chuyện với cụ trong những dịp đi họp Liên Việt Khu 4, chắc cụ sẽ dành cho tôi một sự lắng nghe nào đó thuận lợi cho anh.
Thế là, được sự khích lệ của Mật Thể tôi tỏ bày ý muốn xin từ hôn với thân phụ tôi. Thật là vô cùng ngạc nhiên, tôi vừa nói vài câu, thân phụ tôi đã hiểu, người chỉ nhẹ thở dài mà trả lời:
– Ta cũng đoán trước là như vậy rồi! Con chưa có ý muốn lập gia đình, nhưng lúc đó nể lời khẩn khoản của anh con trước lúc sắp mất, mà bất đắc dĩ con nhận lời để anh con yên tâm nhắm mắt. Nay việc tang đã qua rồi, anh con đã an nghỉ, con lại chùn bước. Thôi ta cũng tùy con vậy!
Thế là đêm ấy, thầy mẹ tôi thì thầm trao đổi rất lâu dưới ngọn đèn dầu phụng lù mù. Còn tôi trở về giường ngủ, vừa lo vừa sợ, vừa thương cho thân phụ tôi vừa cảm phục người vô cùng về sự minh mẫn và lòng thương của người đối với tôi. Sáng hôm sau tôi còn nằm trên giường vì tôi vẫn yếu, mẹ tôi lại gần khuyên tôi nên xét lại, vài câu lấy lệ, hơi rướm nước mắt, nhưng cũng chỉ nhẹ thở dài khi tôi nói với người rằng:
– Dầu sao thì hiện nay con cần được tháo gỡ mối ràng buộc để được thanh thản tự do mới mong lành mạnh trở lại được chứ!
Người im lặng đứng dậy rút lui nhẹ nói:
– Ừ thì tùy ý con!
Chiều hôm sau mẹ tôi đi đến nhà vị hôn thê của tôi xin cho tôi được từ hôn, vì lý do sức khỏe tôi chưa biết bao giờ hồi phục, để người vị hôn thê phải chờ không tiện. Tôi nhớ chiều hôm ấy, trên đường về nhà, người bị một cơn mưa bất ngờ ướt tầm tã. Vào nhà chưa kịp buông nón, người nói với tôi có vẻ hờn dỗi, đưa cho tôi xem chiếc hộp đựng nữ trang mà gia đình tôi trao tặng người vị hôn thê ngày đính hôn:
– Người ta trả tại cho mình đấy!
Bữa cơm tối hôm ấy không có tôi, vì tôi vẫn ăn cháo riêng, nhưng chắc là buồn lắm. Thế nhưng tôi đêm hôm ấy thì ngủ được một giấc dài. Sáng hôm sau thức dậy, tiếng chim hót trên cành cây bưởi bên cửa sổ gần phòng tôi, nghe như báo hiệu một điềm lành. Và từ từ sức khỏe tôi được phục hồi. Bây giờ nghĩ lại tôi rất thương thầy mẹ tôi nhưng biết làm sao khác được! Vả chăng, nếu không có sự khuyến khích của sư Mật Thể, mà tôi e dè không dám trình bày nỗi niềm với cha mẹ tôi, cứ ôm lấy những uẩn khúc trong lòng, thì liệu sức khỏe tôi sẽ ra sao? Chắc gì tôi còn sống đến ngày nay thỉnh thoảng vấn an mẹ già! (mẹ trên 80, con trên 60), vui vẻ thuận hòa với anh em bà con nội ngoại, hay lại theo chân người anh thứ hai tôi dưới ba tấc đất từ lâu? Tháng 9 dương lịch năm 1948, trường trung học Hương Sơn khai giảng, lúc ấy sức khỏe đã tạm phục hồi, nên tôi tiếp tục nghề dạy học tại huyện nhà. Lại một sự trùng hợp đầy ý nghĩa: ngôi trường trung học dân lập vách đất lợp tranh này tọa lạc tại làng Tứ Mỹ, tiếp cận giáo xứ Đông Tràng chỉ cách một cây số, còn nhà tôi cách sông và xa quãng chừng 5 cây số. Có anh Trần Đức Đào là một giáo viên người Công giáo thuộc giáo xứ Đông Tràng. Để giảm bớt sự đi lại từ nhà trường về nhà, nhất là những ngày tôi có giờ dạy buổi chiều, những tháng mùa đông rét mướt, tôi trọ đêm tại nhà anh Đào để sáng mai ra trường cho gần. Thế là tôi lại được đặt vào môi trường Kitô giáo, dưới mái nhà của một người bạn đồng nghiệp rất tốt.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |