Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
21. HỘI THÁNH VẪN MUÔN ĐỜI
Đọc qua những dòng tôi viết về tình hình thời sự năm 1975, người ta có cảm tưởng như tôi là “người của miền Bắc nằm vùng”, như một số bạn bè ở miền Nam đã… nghi tôi là do anh Viện tôi gài về miền Nam năm ‘65, hoặc như một số anh em sinh viên cũ của tôi nói: “Nay thầy mới để lộ mặt là người của miền Bắc”. Tôi có giấu ai đâu về sự kiện tôi là người xứ Nghệ (Chúa Giêsu cũng chẳng giấu Ngài là người xứ Ga-li-lê-a, Phao lô cũng không giấu cái dòng dõi Pha-ri-sêu của mình), gia đình tôi đều ở miền Bắc, chữ “miền” đây là hiểu theo nghĩa vị trí địa lý: Núi Tản, sông Hồng, núi Hồng, sông Lam, động Hương Tích, có từ khi Bà Trưng chưa khởi nghĩa. Cam Bố Hạ, nhãn Hưng Yên, bưởi Phúc Trạch, chè Hương Sơn v.v… có từ nghìn xưa, và sẽ còn mãi mãi! Còn Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn; Tây, Nhật, Mỹ v.v… sẽ nối đuôi nhau hưng, thịnh, suy, tàn. Miền Bắc của tôi là hiểu theo nghĩa miền ruột thịt muôn đời của Việt Nam muôn thuở. Bắc Nam hai miền muôn thuở phải là một. Cắt đôi là Việt Nam chết! Việt Nam chết thì chế độ này, chế độ kia thì có ý nghĩa gì? Cho nên thống nhất hai miền (bất cứ hình thức nào) là điều tiên quyết: không thống nhất được theo kiểu A (dù anh thích A hơn B), anh cũng phải vui lòng nhận kiểu B để thống nhất cái đã; nếu anh thấy trong thực tế, muốn thống nhất chỉ có kiểu B mà thôi, chứ kiểu A hoàn toàn vô vọng, thì anh có tiếc kiểu A thì cũng là vớ vẩn! Còn anh nói thà chia đôi mà chết chứ không thể để cho kiểu B thành sự mà sống cái đã, thì anh quả là phản nước hại dân, vì chết mất thì còn gì là A, là B nữa!
Nếu tôi không lầm thì có lẽ Đức Phaolô VI đã nghĩ như thế về Việt Nam, cho nên Ngài chờ cho Việt Nam thống nhất, dù thống nhất theo kiểu nào, rồi mới phong Hồng Y tiên khởi. Hai miền Nam-Bắc, chứ không phải hai chế độ Nam-Bắc: Miền là muôn thuở, chế độ là nhất thời: “xã tắc thứ chi”. Và cái chung là: tình người, tình đồng bào, tình gia đình, tình bằng hữu, tình thầy trò vv… Những cái đó mới là chất sống, chế độ chỉ là khung sống! Chất sống cần phải được bảo đảm cái đã; khung sống hợp thì tốt, không hợp thì thích nghi mà sống! Nếu không còn chất sống, thì khung sống mà làm gì? Đức Phao lô VI đủ thông minh để thấy rõ Việt Nam chỉ có hòa bình trong điều kiện nào, mà ngài vẫn tuyên bố phải hòa bình đã! Hòa bình vô điều kiện, bởi vì ngài biết không hòa bình, không thống nhất thì Việt Nam sẽ không còn, mà Việt Nam không còn thì Hội Thánh VN cũng tiêu ma! Do đó phải còn cái đã, mọi sự khác dù gian nan đến đâu cũng tạm gác lại sau hay. Sau đó có thể là hàng trăm năm: Nước VN, dân VN là vạn đại, Hội Thánh VN là muôn đời! Vài trăm năm cũng chỉ là chốc lát, nôn nóng, hấp lấp làm gì?!
Quan nhất thời, dân vạn đại (tôi xin nói thêm: Hội Thánh muôn đời). Bằng an, vui vẻ là vì vậy! Còn chất sống thì do mình tạo ra dù ở bất cứ khung sống nào. Cha ông chúng ta đã sống đức tin dưới đủ mọi chế độ: nô lệ, nông nô, phong kiến, dân chủ, quân chủ vv… Con cháu chúng ta sẽ sống đức tin dưới những chế độ gì trong tương lai, ai biết được! Người Hà Nội vào thăm anh em, bà con, bạn bè ở Sài Gòn; người Sài Gòn ra thăm bà con bạn bè ở Hà Nội; Tổng Giám Mục Sài Gòn ra thăm Hồng Y Hà Nội, Hồng Y Hà Nội vào thăm TGM Sài Gòn; lúa Minh Hải ra Lạng Sơn, chè Thái Nguyên vào Cà Mau: chất sống là chủ yếu! Còn nếu ai gạn hỏi sâu xa hơn, tôi xin đặt ra câu tự hỏi sau đây về chế độ thế trần ở Việt Nam này: có phải chăng ở tận đáy lòng tôi vẫn còn là người con của một ông quan cuối cùng triều Nguyễn, mà ông vua cuối cùng của triều Nguyễn đã “thừa thiên mệnh” trao ấn kiếm cho chế độ nào? Ta cần suy nghĩ cho thật sâu sự kiện này: tại sao năm 1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh chịu nhận ấn kiếm từ tay Bảo Đại; còn ngày 30-4-1975, các chiến sĩ chiếm Dinh Độc Lập không chịu làm lễ nhận bàn giao? Có một vị Giám Mục Việt Nam đã không đồng ý với ông Ngô Đình Diệm khi ông Diệm, nhảy từ ghế thủ tướng lên ghế tổng thống – bởi vì, đối với vị giám mục này, ông Diệm đã sai trái khi hất người đã đặt mình lên làm thủ tướng chiếm ngôi! (còn Bảo Đại trước khi thoái vị có hỏi: “Hồ Chí Minh là ai?” khi biết đó là Nguyễn Ái Quốc, ông đã tỏ ra thoải mái: “Alors! Je suis tranquille. Ça vaut le coup”, nghĩa là “tôi an tâm! đáng cho tôi thoái vị!” Đó là chỉ mới nói về tương quan giữa ông Diệm và Bảo Đại, còn ở miền Nam từ 1963 trở đi, các cuộc đảo chánh thay ngôi đổi vị, đều dựa trên đống máu của ba anh em ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn đã bị chính những người do họ đặt lên chức vị, làm đổ ra. Ngôi nhà chế độ Miền Nam xây dựng trên nền tảng như vậy. Đó là chưa nói đến sự chiếm đóng của quân viễn chinh Pháp và Mỹ đã để lại những hậu quả gì? Tôi mới chỉ suy nghĩ về tương quan giữa người Việt với nhau trong cái chế độ đã sụp đổ ngày 30-4-75. Hình như có Linh mục Nguyễn Thế Thuấn cũng có những suy nghĩ tương tự (linh mục Thuấn chỉ là một vị chân tu, chuyên tu, không hề có hoạt động chính trị nào cả).
Tôi xin thành thật thú nhận rằng đã từ năm ‘65 về VN tôi đã thấy như vậy, nhưng tôi đã không tỉnh thức mà ăn chay cầu nguyện, không phải để cứu vãn nó, nhưng để nó chết trong những điều kiện có lẽ thuận lợi hơn cho sự tồn tại và thăng tiến của dân tộc, cho sự triển nở của Hội Thánh! Thay vì như thế tôi đã sống có lẽ quá vô trách nhiệm, có tính hời hợt tài tử như tìm một thứ lãng quên với ít nhiều an tâm ngụy tín. Do đó mà tôi gọi những năm từ ‘56 -75 là một cuộc “mộng du”. Nhiều lúc tôi tự hỏi nếu Chúa gọi tôi ra trình diện Ngài trước 75, tôi sẽ ra sao? Đành rằng phía Ngài, lượng từ bi là vô hạn, nhưng phía tôi, tôi phải xét mình nghiêm túc, và như vậy thì chỉ còn biết đấm ngực: Mea culpa! mea culpa! mea maxima culpa! Nhận lỗi là thái độ cần phải có!
Lẽ dĩ nhiên, những suy nghĩ trên đây chỉ là nhằm vào đối tượng là chế độ miền Nam trước 1975 chứ không nhằm đối tượng cá nhân những con người với những tương quan tốt đẹp, vẫn tôn trọng quý mến, dù những con người này ở vào chức vị nào, kể cả trong hàng ngũ tướng tá bộ trưởng của chính quyền cũ Miền Nam, miễn là về mặt cá nhân họ là những con người có tư cách, phẩm giá. Người xưa nhiều lúc đã khóc, lấy vương bào phủ lấy thủ cấp của đối thủ đã bị đánh gục, chôn cất theo vương lễ, quả đáng cho ta noi gương; huống chi tôi là một kẻ không hề dính líu đến vấn đề chính trị, thì đối với giá trị cá nhân của bất cứ bên nào, tôi vẫn giữ lòng kính trọng trong khách quan, công trực và khiêm tốn. - Mea culpa! Mea culpa! mea maxima culpa! Tôi đấm ngực bản thân tôi, chứ ngực ai là việc của người ấy, liệu đấm ngực hay vỗ ngực là việc riêng của họ và Thiên Chúa, Đệ tam nhân dù là ai, cũng không được xía vào một cách phạm thánh.
Xét về giá trị cá nhân thì Bảo Đại làm sao bằng được hai ông Dương Văn Minh và Nguyễn Văn Huyền! Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vượt xa những người chiếm đánh dinh Độc Lập! Thế mà Hồ chủ tịch chịu nhận ấn kiếm, còn Giải phóng không chịu nhận bàn giao. Tôi có một tư tưởng duy thiên mệnh về chế độ thế trần: “potestas a Deo”! Chúa Giêsu nói với Phi-la-tô như vậy. Quyền của ông là do trên, chứ bản thân ông đâu có quyền gì trên tôi! “A Deo” không phải vì tài đức hơn, nhưng vì đó là “mệnh trời” giao cho, như giao lưỡi gươm vào tay đao phủ hầu trừng trị kẻ ác, vậy thôi! Còn tại sao mệnh trời lại như thế, ai muốn biết, xin cứ “bắc thang lên hỏi Ông Trời”, Léon Tolstoi trong chương kết luận tập truyện “Chiến tranh và Hòa bình” cũng có tư tưởng như vậy. Vị anh hùng cái thế Quang Trung cũng có nói: “Thắng bại là do Trời cho, chứ có phải là do tài đức của ai đâu!” (Xin nhắc lạ: tôi chỉ tâm sự trình bày quan niệm của mình, chứ không có ý biện minh sai đúng hơn thua). Và tôi còn nhớ mãi, năm l946, dưới ánh đèn dầu phụng lù mù, sau một bữa cơm tôi bàn về thời thế, nhân phụ tôi cầm cái khay trà xoay một vòng rồi nói: “Thiên mệnh xoay như cái khay, chúng ta như những chén nước trong khay, cưỡng làm sao được con ạ!”. Thuở thanh niên chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng chính trị trước Cách mạng Pháp, tôi nghĩ rằng tư tưởng chính trị của tự do tư sản là đúng là hay, nhưng càng có kinh nghiệm sống ở đời qua bao nhiêu biến cố, tôi lại có cảm tưởng quan niệm của Nho giáo sâu xa hơn và thiết thực hơn. Nhiều khi tôi tự hỏi: chắc hẳn nơi anh Viện tôi tự tiềm thức cũng có cái gì tương tự, nên anh dã theo phục vụ Hồ Chủ Tịch một cách dễ dàng, và nhìn chung sau năm 1945, con cái các gia đình Nho giáo phong kiến, theo xu hướng Việt Minh, nhiều hơn là đám con cái tư sản thành thị (đó là tôi nói về lớp gọi là trí thức thời đó). Hình như phong kiến Nho giáo ít thiên về lợi nhuận, ít cá nhân chủ nghĩa hơn tư sản, nên gần với Xã hội chủ nghĩa hơn (có phải thế chăng?). Và luôn tiện cũng ghi thêm: Hình như với truyền thống phong kiến Nho giáo dễ đi vào Công giáo, còn tư sản tự do thì dễ chuyển sang Tin Lành (hình như thế thì phải!). Những dòng trên đây chỉ có tính cách phiếm luận cho vui để gợi ý suy nghĩ hơn là biện luận đúng sai. Xin bạn đọc xem như cuộc đàm đạo về Đông Chu Liệt Quốc sau buổi tiệc trà, giữa một số cụ già, chứ không phải tranh luận ở nghị trường.
Có thể nói trong những ngày sống ở miền Nam, tôi rất hoang mang vì chưa hiểu “thiên mệnh ra sao”. Từ năm 1975 tôi ổn định tâm tư, vì tôi thấy từ 45 đến 75 hình như thiên mệnh đã có “thiên thư”, ấn kiếm đã có từ tay vị vua cuối cùng - trao cho những người phất cờ khởi nghĩa Cách mạng mùa thu, chiếc khay trà xoay đủ vòng mặc cho các chén nước quay cuồng rối loạn ở trong khay! Tư cách cá nhân của Bảo Đại không là gì nhưng vị trí của ông ta khi trao ấn kiếm có một trọng lượng lớn; cũng như, giá trị cá nhân của Cai-pha không là gì, nhưng khi ông tuyên bố: “một người phải chết thay cho toàn dân” - thì vẫn được linh ứng, bởi vì ông đang đứng ở vị trí là tư tế thượng phẩm; và na ná như giá trị cá nhân của Borgia không ra gì, nhưng ở vị trí Giáo Hoàng Alexandre VI vẫn được ơn vô ngộ giữ gìn.
Một khi thiên mệnh về mặt thế trần đã rõ, tôi thoát một cơn khắc khoải kéo dài từ hiệp định Genève! Thái độ chính trị của tôi sau năm ‘75 là thế, mà tôi nghĩ bức thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng không có gì khác hơn. Trên đây là tôi dựa vào Nho giáo mà tự phân tích về mặt tâm lý tự nhiên của tôi (không xét đúng sai); còn muốn thẩm định đúng sai thì phải lấy tiêu chuẩn ở Lời Chúa, trong thư gởi tín hữu Roma 13, 1-7 về vấn đề chính quyền trần thế. Mà trần thế là chốn lưu đày, là nơi khách trú, là vương quốc của “đầu mục thế gian này” chứ không phải là Nước Trời! Vương đạo thời “Nghiêu Thuấn” chỉ là chuyện ươc mơ của lòng người: mơ bao giờ chẳng đẹp, nhưng không thực. Thế gian như quán trọ một đêm, thiếu tiện nghi, khiến khách lữ hành khó ngủ, mộng mị lung tung: ác mộng có, thần mộng có; nhưng đều là mộng cả! Lúc trời hừng sáng tỉnh dậy thì như tích xưa “nồi kê chưa chín”. Thế gian mưu bá đồ vương chẳng qua như đứa trẻ chạy bắt giành nhau chiếc bong bóng thổi từ bọt xà phòng. Suy gẫm kỹ các thánh vịnh 43, 72, 93 (Hy Lạp: TV. 42, 71, 92) sẽ rõ “Thiên mệnh” là gì! Đọc Kinh Thánh cho kỹ cũng nắm được lẽ thịnh suy ở trần gian: Ninivê, Babylon, đế quốc Roma đệ I, đệ II, đệ III nối đuôi nhau rơi rụng, ngay cả thành thánh Yêrusalem cũng không được miễn trừ, huống là…
Người ta kể lại rằng ở một tu viện nọ, một tu sĩ dòng Trappe không hề biết từ 1914 đến 1947, Châu Âu đã trải qua hai cuộc đại chiến máu lửa ngập trời! Câu chuyện ấy thực hư ta không biết, nhưng cũng giúp ta thêm suy gẫm về sự đời! có lẽ vị tu sĩ ấy đã thấy tất cả lịch sử nhân loại qua sách Khải Huyền. Trong thâm tâm tôi, tự đáy lòng, đáy tâm hồn, có cái gì tương tự: từ giây phút buổi sáng mai ngày 9-1-1949 cúi đầu nhận bí tích thánh tẩy, tôi đã trở nên công dân của Nước Trời vĩnh cữu! Mọi biến cố ở cái nước trần thế này (mà tên đầu mục là ai ta cũng biết rồi) chỉ như gió thu xao động mặt hồ mà thôi. Tôi nghĩ các tín hữu tiên khởi, sau khi Chúa lên trời, tụ họp nhau mỗi chiều thứ bảy đợi chờ Ngài giáng lâm trong giờ canh thức, củng cố tâm trạng như vậy. Cuộc đợi chờ của Hội Thánh cũng vậy, một đêm canh thức dài triệu năm hay ngắn lại vài giờ có khác gì, vì Thánh vịnh có câu: “Đối với Thiên Chúa, nghìn năm cũng tựa một ngày, một ngày cũng tày nghìn năm”. Tham dự thánh lễ chúa nhật, hay thánh lễ mỗi ngày, ta vẫn có câu:… cho tới khi Chúa lại đến. Trên thân cây Nến Phục Sinh cũng có ghi: nguyên thủy và cứu cánh, quá khứ, hiện tại và tương lai: Đức Kitô hiển trị muôn đời! Thái độ rũ bụi… còn các Lê-vi-a-than trần thế có vùng vẫy tung hoành cũng chỉ một thời! Thái độ rũ bụi chân rời khỏi một số thành trì, chỉ là thái độ tượng trưng cho bất cứ thành trì nào ở trần thế, thái độ ở chính nội tâm cần phải có chứ không phải chạy đi đâu cả. “Ngủ nghỉ ăn nói” mà như thể “không ngủ nghỉ ăn nói”, có phải chăng là vậy?
Suy cho cùng, dù có gì đi nữa: năm 1924, kẻ viết dòng này ở đâu; và năm 2025 cũng sẽ về đâu? Những gì xảy ra giữa hai cái mốc ấy cũng sẽ về đâu? Không có ơn Chúa soi sáng mà nhà thơ nào đó đã có câu:
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
Mà nếu không lầm thì tác giả là một vị Thái thượng hoàng đã nhường ngôi cho con, cắt tóc lên chùa.
Có bi quan yếm thế quá chăng? Có thiếu tinh thần nhập thế quá chăng? Dầu sao, Ngôi Hai xuống thế là để lên trời, kéo tất cả lên theo chứ đâu phải cứ đóng lều mãi ở thế gian này. Và hiện nay ở thế gian này thì Ngài là miếng bánh nhỏ bé nằm trong chiếc hào quang lăn lóc trên cát, cạnh thi hài của Charles de Foucauld, một kẻ đã trọn đời tận hiến cho Ngài, bị một phát súng có lẽ lỡ tay, của một em bé 15 tuổi có nhiệm vụ canh giữ ngài cho bọn thổ phỉ vào trộm cướp ẩn viện của ngài. Đó, có thể nhìn lịch sử nhân loại và vũ trụ chỉ qua một sự cố nhỏ nhoi (cái chết của Charles de Foucauld) chẳng có trọng lượng gì đối với các chiến trường, các nghị trường, các thương trường, kể cả các pháp trường và bất cứ cái gì… trường! Cũng như cái chết của một nữ tử 24 tuổi vào chiều tối 30-9-1897, có trọng lượng gì so với thời thế của một giai đoạn khá phồn thịnh của Âu tây! Lúc cáo biệt vị bá phụ dòng Solesmes, sau tuần cấm phòng, Charles de Foucauld được ban cho lời dặn cuối cùng sau đây: “Cha chỉ xin con nhớ luôn cho rằng - mọi sự sẽ qua đi, chỉ lòng Chúa xót thương là luôn tồn tại!”
Từ năm 1975 trở đi, tôi sống với đồng bào, với gia đình, với bằng hữu, người ta sao mình vậy, cũng cùng chung những vui buồn vinh nhục, đói no, thiếu đủ, ở cái đất Đà Lạt thân thương này; làm những việc cần thiết về sinh hoạt như lao động, giải trí, hoạt động văn hóa xã hội một cách chân tình cởi mở, cũng có khi nóng giận, ngoa ngoắt, nhưng thực ra hồn tôi thì như cô mục đồng trong tác phẩm của Gioan Thánh Giá dặn lại bạn bè rằng: “nó đã mất hút ở đâu rồi!”. Tết năm Ất Sửu, năm sinh của tôi, trong bài thơ dán trước cửa cáo từ khách… đến chúc xuân, tôi có câu:
“Hàng xóm cho hay chủ vắng nhà”
Rồi đây, nếu có phương tiện, tôi sẽ còn đi về giữa Đà Lạt – Hà Nội (vì mẹ già còn sống, phải ra thăm viếng) Đà Lạt – Tp. HCM, Đà Lạt – Nha Trang, Đà Lạt – Huế… đi thăm bà con bằng hữu; đồng bào Đà Lạt sẽ thấy tôi khi ở phố này, lúc ở quán cà phê nọ, lúc xuống rẫy làm vườn, khi đi dự hội họp mít tinh. Sống thì phải thế, chứ tôi chỉ muốn được như ông thánh Benoit Joseph Labre, ngày đêm quỳ phủ phục chầu Thánh Thể, vì đó là nơi NGÔI HAI THIÊN CHÚA ĐANG NGỰ Ở GIỮA CHÚNG TA MỖI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ (Cánh chung). Mọi sinh hoạt chỉ là hiện tượng bên ngoài, cho trọn thân phận làm người và là “người Việt Nam” được Chúa đặt vào một địa điểm một thời điểm, một khung sống: kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội nhất định, như cái vườn ươm để sinh hoa kết quả cho mùa gặt muôn đời, dù có trải qua mưa nắng, ấm lạnh, gió sương, (có khi làm rụng lá gãy cành), sâu bọ chim muông, súc vật phá phách, tay người cắt xén, thì một sợi tóc trên đầu con rơi xuống cũng không ngoài ý Cha. Mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh, vẫn tiếp diễn qua mọi sự cố về bản thân, gia đình, đất nước, nhân loại mà Hội Thánh với thân phận lữ hành, là chứng tích, là bảo chứng là tượng trưng: Hội Thánh được đặt trên nền đá Phêrô mà cửa Hỏa ngục không làm gì nổi.
Cuối cùng, cuộc đời ai cũng vậy - phải vậy, bản chất là vậy: một cách nào đó đều phảng phất những nét của CON NGƯỜI mà Philatô đại diện quyền thế gian đã đưa ra giới thiệu cho muôn thế hệ chiêm ngắm và noi gương mình, để tìm cho được chân tướng của mình. Mọi chi tiết vụn vặt: vinh nhục, vui buồn, sướng khổ… Chỉ là nét phụ! ECCE HOMO, NÀY LÀ NGƯỜI! Ai là người thì hãy tìm mình trong CON NGƯỜI ấy. Ai muốn hiểu ai đi nữa, thì cũng nhìn qua CON NGƯỜI ấy thì sẽ rõ, trong tâm tình ăn năn thống hối thâm sâu, với ý thức sự đốn mạt khôn cùng của mình, tôi nghĩ rằng: Một Kitô hữu viết chuyện đời mình (dù là một đời đĩ điếm, trộm cướp) hễ còn tin vào Ngài, thì một cách nào đó cũng là viết chuyện đời Ngài mà thôi. Bởi vì chính Ngài đã lãnh nhận, thông dự tất cả những ai tin Ngài (và những ai chưa biết Ngài) vào trái tim cực thánh của Ngài để cho lưỡi giáo đâm thâu chảy đến giọt máu hòa nước cuối cùng: trái tim mà từ thuở 14, 15, tôi chưa biết gì, đã được ngài thương tỏ ra dưới một hình thức vô cùng bé mọn: trên một tấm ảnh hình thường kiểu Saint Sulpice phần thưởng của một giáo sư linh mục thừa sai trao cho một em bé ngoại giáo có điểm giáo lý cao, - em bé ấy, vài tháng trước đó đã quả quyết “không bao giờ” tòng giáo! Em bé ấy - ngày nay 61 tuổi, một mình ghi lại dòng chữ này: thay vì “Jamais” (không bao giờ) chỉ xin thêm một chữ A: “à jamais” = cho đến muôn đời (không bao giờ thôi). Kỳ diệu thực ra chỉ ở chữ A ấy mà thôi, còn các chi tiết tiểu sử chỉ là hoa hòe hoa sói, để mua vui một vài trống canh, nào có trọng lượng bao nhiêu!
Trước 1975 tôi cứ tưởng là sẽ làm chứng về Ngài qua những việc gọi là từ thiện (mà viên Tyfomycine ở trại cải tạo đã lột mặt nạ ra), nhưng hình như qua đó mọi người chỉ thấy: “chỉ là anh!”. Từ năm 75, tôi không còn là gì nữa, tôi quì lạy xin Đức Mẹ giúp tôi càng ngày càng trở nên “không”, mờ hẳn, nhạt nhòa hẳn, xóa hẳn để Mẹ in lên một vài nét của con Mẹ, để mong sao khi gặp tôi, trao đổi với tôi, anh em thoáng thấy được một vài nét của “Thánh Nhan Ngài”, dù có bị méo mó hoen ố ít nhiều (mà nhiều hơn ít), để mai sau tôi được xếp vào bên hữu của Ngài dù là hạng bét, bét ở đây vẫn còn hơn ở thế gian bội phần. Đầu thế gian có thể dịch là Prince de ce monde (prince = prin-cep: caput - đầu, Thủ lãnh & Đầu mục thế gian này; Prince de ce monde là ai, thì Đức Mẹ biết rồi, vì cái Đầu ấy đã bị gót chân liễu yếu của Mẹ đạp dập nát rồi, còn cái đuôi có ngo ngoe vùng vẫy cũng chỉ một thời đó thôi!” Các con đừng sợ, Ta đã thắng thế gian!” xin Mẹ giữ con đừng dại dột mê theo hoặc sợ hãi quị lụy thế gian với tên Thủ Lãnh của nó, đầy chước độc mưu thâm, đến nỗi kẻ lành cũng có thể bị đánh lừa bởi cái áo “sự sáng” khoác ngoài của nó! Sau này tôi sẽ kể lại một vài điều học được về những mưu chước của nó mà không có sự phù trợ đặc biệt của “Người Nữ” đã đạp dập đầu nó thì tôi nghĩ rằng khó lòng mà thoát khỏi.
Đọc qua những dòng tôi viết về tình hình thời sự năm 1975, người ta có cảm tưởng như tôi là “người của miền Bắc nằm vùng”, như một số bạn bè ở miền Nam đã… nghi tôi là do anh Viện tôi gài về miền Nam năm ‘65, hoặc như một số anh em sinh viên cũ của tôi nói: “Nay thầy mới để lộ mặt là người của miền Bắc”. Tôi có giấu ai đâu về sự kiện tôi là người xứ Nghệ (Chúa Giêsu cũng chẳng giấu Ngài là người xứ Ga-li-lê-a, Phao lô cũng không giấu cái dòng dõi Pha-ri-sêu của mình), gia đình tôi đều ở miền Bắc, chữ “miền” đây là hiểu theo nghĩa vị trí địa lý: Núi Tản, sông Hồng, núi Hồng, sông Lam, động Hương Tích, có từ khi Bà Trưng chưa khởi nghĩa. Cam Bố Hạ, nhãn Hưng Yên, bưởi Phúc Trạch, chè Hương Sơn v.v… có từ nghìn xưa, và sẽ còn mãi mãi! Còn Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn; Tây, Nhật, Mỹ v.v… sẽ nối đuôi nhau hưng, thịnh, suy, tàn. Miền Bắc của tôi là hiểu theo nghĩa miền ruột thịt muôn đời của Việt Nam muôn thuở. Bắc Nam hai miền muôn thuở phải là một. Cắt đôi là Việt Nam chết! Việt Nam chết thì chế độ này, chế độ kia thì có ý nghĩa gì? Cho nên thống nhất hai miền (bất cứ hình thức nào) là điều tiên quyết: không thống nhất được theo kiểu A (dù anh thích A hơn B), anh cũng phải vui lòng nhận kiểu B để thống nhất cái đã; nếu anh thấy trong thực tế, muốn thống nhất chỉ có kiểu B mà thôi, chứ kiểu A hoàn toàn vô vọng, thì anh có tiếc kiểu A thì cũng là vớ vẩn! Còn anh nói thà chia đôi mà chết chứ không thể để cho kiểu B thành sự mà sống cái đã, thì anh quả là phản nước hại dân, vì chết mất thì còn gì là A, là B nữa!
Nếu tôi không lầm thì có lẽ Đức Phaolô VI đã nghĩ như thế về Việt Nam, cho nên Ngài chờ cho Việt Nam thống nhất, dù thống nhất theo kiểu nào, rồi mới phong Hồng Y tiên khởi. Hai miền Nam-Bắc, chứ không phải hai chế độ Nam-Bắc: Miền là muôn thuở, chế độ là nhất thời: “xã tắc thứ chi”. Và cái chung là: tình người, tình đồng bào, tình gia đình, tình bằng hữu, tình thầy trò vv… Những cái đó mới là chất sống, chế độ chỉ là khung sống! Chất sống cần phải được bảo đảm cái đã; khung sống hợp thì tốt, không hợp thì thích nghi mà sống! Nếu không còn chất sống, thì khung sống mà làm gì? Đức Phao lô VI đủ thông minh để thấy rõ Việt Nam chỉ có hòa bình trong điều kiện nào, mà ngài vẫn tuyên bố phải hòa bình đã! Hòa bình vô điều kiện, bởi vì ngài biết không hòa bình, không thống nhất thì Việt Nam sẽ không còn, mà Việt Nam không còn thì Hội Thánh VN cũng tiêu ma! Do đó phải còn cái đã, mọi sự khác dù gian nan đến đâu cũng tạm gác lại sau hay. Sau đó có thể là hàng trăm năm: Nước VN, dân VN là vạn đại, Hội Thánh VN là muôn đời! Vài trăm năm cũng chỉ là chốc lát, nôn nóng, hấp lấp làm gì?!
Quan nhất thời, dân vạn đại (tôi xin nói thêm: Hội Thánh muôn đời). Bằng an, vui vẻ là vì vậy! Còn chất sống thì do mình tạo ra dù ở bất cứ khung sống nào. Cha ông chúng ta đã sống đức tin dưới đủ mọi chế độ: nô lệ, nông nô, phong kiến, dân chủ, quân chủ vv… Con cháu chúng ta sẽ sống đức tin dưới những chế độ gì trong tương lai, ai biết được! Người Hà Nội vào thăm anh em, bà con, bạn bè ở Sài Gòn; người Sài Gòn ra thăm bà con bạn bè ở Hà Nội; Tổng Giám Mục Sài Gòn ra thăm Hồng Y Hà Nội, Hồng Y Hà Nội vào thăm TGM Sài Gòn; lúa Minh Hải ra Lạng Sơn, chè Thái Nguyên vào Cà Mau: chất sống là chủ yếu! Còn nếu ai gạn hỏi sâu xa hơn, tôi xin đặt ra câu tự hỏi sau đây về chế độ thế trần ở Việt Nam này: có phải chăng ở tận đáy lòng tôi vẫn còn là người con của một ông quan cuối cùng triều Nguyễn, mà ông vua cuối cùng của triều Nguyễn đã “thừa thiên mệnh” trao ấn kiếm cho chế độ nào? Ta cần suy nghĩ cho thật sâu sự kiện này: tại sao năm 1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh chịu nhận ấn kiếm từ tay Bảo Đại; còn ngày 30-4-1975, các chiến sĩ chiếm Dinh Độc Lập không chịu làm lễ nhận bàn giao? Có một vị Giám Mục Việt Nam đã không đồng ý với ông Ngô Đình Diệm khi ông Diệm, nhảy từ ghế thủ tướng lên ghế tổng thống – bởi vì, đối với vị giám mục này, ông Diệm đã sai trái khi hất người đã đặt mình lên làm thủ tướng chiếm ngôi! (còn Bảo Đại trước khi thoái vị có hỏi: “Hồ Chí Minh là ai?” khi biết đó là Nguyễn Ái Quốc, ông đã tỏ ra thoải mái: “Alors! Je suis tranquille. Ça vaut le coup”, nghĩa là “tôi an tâm! đáng cho tôi thoái vị!” Đó là chỉ mới nói về tương quan giữa ông Diệm và Bảo Đại, còn ở miền Nam từ 1963 trở đi, các cuộc đảo chánh thay ngôi đổi vị, đều dựa trên đống máu của ba anh em ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn đã bị chính những người do họ đặt lên chức vị, làm đổ ra. Ngôi nhà chế độ Miền Nam xây dựng trên nền tảng như vậy. Đó là chưa nói đến sự chiếm đóng của quân viễn chinh Pháp và Mỹ đã để lại những hậu quả gì? Tôi mới chỉ suy nghĩ về tương quan giữa người Việt với nhau trong cái chế độ đã sụp đổ ngày 30-4-75. Hình như có Linh mục Nguyễn Thế Thuấn cũng có những suy nghĩ tương tự (linh mục Thuấn chỉ là một vị chân tu, chuyên tu, không hề có hoạt động chính trị nào cả).
Tôi xin thành thật thú nhận rằng đã từ năm ‘65 về VN tôi đã thấy như vậy, nhưng tôi đã không tỉnh thức mà ăn chay cầu nguyện, không phải để cứu vãn nó, nhưng để nó chết trong những điều kiện có lẽ thuận lợi hơn cho sự tồn tại và thăng tiến của dân tộc, cho sự triển nở của Hội Thánh! Thay vì như thế tôi đã sống có lẽ quá vô trách nhiệm, có tính hời hợt tài tử như tìm một thứ lãng quên với ít nhiều an tâm ngụy tín. Do đó mà tôi gọi những năm từ ‘56 -75 là một cuộc “mộng du”. Nhiều lúc tôi tự hỏi nếu Chúa gọi tôi ra trình diện Ngài trước 75, tôi sẽ ra sao? Đành rằng phía Ngài, lượng từ bi là vô hạn, nhưng phía tôi, tôi phải xét mình nghiêm túc, và như vậy thì chỉ còn biết đấm ngực: Mea culpa! mea culpa! mea maxima culpa! Nhận lỗi là thái độ cần phải có!
Lẽ dĩ nhiên, những suy nghĩ trên đây chỉ là nhằm vào đối tượng là chế độ miền Nam trước 1975 chứ không nhằm đối tượng cá nhân những con người với những tương quan tốt đẹp, vẫn tôn trọng quý mến, dù những con người này ở vào chức vị nào, kể cả trong hàng ngũ tướng tá bộ trưởng của chính quyền cũ Miền Nam, miễn là về mặt cá nhân họ là những con người có tư cách, phẩm giá. Người xưa nhiều lúc đã khóc, lấy vương bào phủ lấy thủ cấp của đối thủ đã bị đánh gục, chôn cất theo vương lễ, quả đáng cho ta noi gương; huống chi tôi là một kẻ không hề dính líu đến vấn đề chính trị, thì đối với giá trị cá nhân của bất cứ bên nào, tôi vẫn giữ lòng kính trọng trong khách quan, công trực và khiêm tốn. - Mea culpa! Mea culpa! mea maxima culpa! Tôi đấm ngực bản thân tôi, chứ ngực ai là việc của người ấy, liệu đấm ngực hay vỗ ngực là việc riêng của họ và Thiên Chúa, Đệ tam nhân dù là ai, cũng không được xía vào một cách phạm thánh.
Xét về giá trị cá nhân thì Bảo Đại làm sao bằng được hai ông Dương Văn Minh và Nguyễn Văn Huyền! Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vượt xa những người chiếm đánh dinh Độc Lập! Thế mà Hồ chủ tịch chịu nhận ấn kiếm, còn Giải phóng không chịu nhận bàn giao. Tôi có một tư tưởng duy thiên mệnh về chế độ thế trần: “potestas a Deo”! Chúa Giêsu nói với Phi-la-tô như vậy. Quyền của ông là do trên, chứ bản thân ông đâu có quyền gì trên tôi! “A Deo” không phải vì tài đức hơn, nhưng vì đó là “mệnh trời” giao cho, như giao lưỡi gươm vào tay đao phủ hầu trừng trị kẻ ác, vậy thôi! Còn tại sao mệnh trời lại như thế, ai muốn biết, xin cứ “bắc thang lên hỏi Ông Trời”, Léon Tolstoi trong chương kết luận tập truyện “Chiến tranh và Hòa bình” cũng có tư tưởng như vậy. Vị anh hùng cái thế Quang Trung cũng có nói: “Thắng bại là do Trời cho, chứ có phải là do tài đức của ai đâu!” (Xin nhắc lạ: tôi chỉ tâm sự trình bày quan niệm của mình, chứ không có ý biện minh sai đúng hơn thua). Và tôi còn nhớ mãi, năm l946, dưới ánh đèn dầu phụng lù mù, sau một bữa cơm tôi bàn về thời thế, nhân phụ tôi cầm cái khay trà xoay một vòng rồi nói: “Thiên mệnh xoay như cái khay, chúng ta như những chén nước trong khay, cưỡng làm sao được con ạ!”. Thuở thanh niên chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng chính trị trước Cách mạng Pháp, tôi nghĩ rằng tư tưởng chính trị của tự do tư sản là đúng là hay, nhưng càng có kinh nghiệm sống ở đời qua bao nhiêu biến cố, tôi lại có cảm tưởng quan niệm của Nho giáo sâu xa hơn và thiết thực hơn. Nhiều khi tôi tự hỏi: chắc hẳn nơi anh Viện tôi tự tiềm thức cũng có cái gì tương tự, nên anh dã theo phục vụ Hồ Chủ Tịch một cách dễ dàng, và nhìn chung sau năm 1945, con cái các gia đình Nho giáo phong kiến, theo xu hướng Việt Minh, nhiều hơn là đám con cái tư sản thành thị (đó là tôi nói về lớp gọi là trí thức thời đó). Hình như phong kiến Nho giáo ít thiên về lợi nhuận, ít cá nhân chủ nghĩa hơn tư sản, nên gần với Xã hội chủ nghĩa hơn (có phải thế chăng?). Và luôn tiện cũng ghi thêm: Hình như với truyền thống phong kiến Nho giáo dễ đi vào Công giáo, còn tư sản tự do thì dễ chuyển sang Tin Lành (hình như thế thì phải!). Những dòng trên đây chỉ có tính cách phiếm luận cho vui để gợi ý suy nghĩ hơn là biện luận đúng sai. Xin bạn đọc xem như cuộc đàm đạo về Đông Chu Liệt Quốc sau buổi tiệc trà, giữa một số cụ già, chứ không phải tranh luận ở nghị trường.
Có thể nói trong những ngày sống ở miền Nam, tôi rất hoang mang vì chưa hiểu “thiên mệnh ra sao”. Từ năm 1975 tôi ổn định tâm tư, vì tôi thấy từ 45 đến 75 hình như thiên mệnh đã có “thiên thư”, ấn kiếm đã có từ tay vị vua cuối cùng - trao cho những người phất cờ khởi nghĩa Cách mạng mùa thu, chiếc khay trà xoay đủ vòng mặc cho các chén nước quay cuồng rối loạn ở trong khay! Tư cách cá nhân của Bảo Đại không là gì nhưng vị trí của ông ta khi trao ấn kiếm có một trọng lượng lớn; cũng như, giá trị cá nhân của Cai-pha không là gì, nhưng khi ông tuyên bố: “một người phải chết thay cho toàn dân” - thì vẫn được linh ứng, bởi vì ông đang đứng ở vị trí là tư tế thượng phẩm; và na ná như giá trị cá nhân của Borgia không ra gì, nhưng ở vị trí Giáo Hoàng Alexandre VI vẫn được ơn vô ngộ giữ gìn.
Một khi thiên mệnh về mặt thế trần đã rõ, tôi thoát một cơn khắc khoải kéo dài từ hiệp định Genève! Thái độ chính trị của tôi sau năm ‘75 là thế, mà tôi nghĩ bức thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng không có gì khác hơn. Trên đây là tôi dựa vào Nho giáo mà tự phân tích về mặt tâm lý tự nhiên của tôi (không xét đúng sai); còn muốn thẩm định đúng sai thì phải lấy tiêu chuẩn ở Lời Chúa, trong thư gởi tín hữu Roma 13, 1-7 về vấn đề chính quyền trần thế. Mà trần thế là chốn lưu đày, là nơi khách trú, là vương quốc của “đầu mục thế gian này” chứ không phải là Nước Trời! Vương đạo thời “Nghiêu Thuấn” chỉ là chuyện ươc mơ của lòng người: mơ bao giờ chẳng đẹp, nhưng không thực. Thế gian như quán trọ một đêm, thiếu tiện nghi, khiến khách lữ hành khó ngủ, mộng mị lung tung: ác mộng có, thần mộng có; nhưng đều là mộng cả! Lúc trời hừng sáng tỉnh dậy thì như tích xưa “nồi kê chưa chín”. Thế gian mưu bá đồ vương chẳng qua như đứa trẻ chạy bắt giành nhau chiếc bong bóng thổi từ bọt xà phòng. Suy gẫm kỹ các thánh vịnh 43, 72, 93 (Hy Lạp: TV. 42, 71, 92) sẽ rõ “Thiên mệnh” là gì! Đọc Kinh Thánh cho kỹ cũng nắm được lẽ thịnh suy ở trần gian: Ninivê, Babylon, đế quốc Roma đệ I, đệ II, đệ III nối đuôi nhau rơi rụng, ngay cả thành thánh Yêrusalem cũng không được miễn trừ, huống là…
Người ta kể lại rằng ở một tu viện nọ, một tu sĩ dòng Trappe không hề biết từ 1914 đến 1947, Châu Âu đã trải qua hai cuộc đại chiến máu lửa ngập trời! Câu chuyện ấy thực hư ta không biết, nhưng cũng giúp ta thêm suy gẫm về sự đời! có lẽ vị tu sĩ ấy đã thấy tất cả lịch sử nhân loại qua sách Khải Huyền. Trong thâm tâm tôi, tự đáy lòng, đáy tâm hồn, có cái gì tương tự: từ giây phút buổi sáng mai ngày 9-1-1949 cúi đầu nhận bí tích thánh tẩy, tôi đã trở nên công dân của Nước Trời vĩnh cữu! Mọi biến cố ở cái nước trần thế này (mà tên đầu mục là ai ta cũng biết rồi) chỉ như gió thu xao động mặt hồ mà thôi. Tôi nghĩ các tín hữu tiên khởi, sau khi Chúa lên trời, tụ họp nhau mỗi chiều thứ bảy đợi chờ Ngài giáng lâm trong giờ canh thức, củng cố tâm trạng như vậy. Cuộc đợi chờ của Hội Thánh cũng vậy, một đêm canh thức dài triệu năm hay ngắn lại vài giờ có khác gì, vì Thánh vịnh có câu: “Đối với Thiên Chúa, nghìn năm cũng tựa một ngày, một ngày cũng tày nghìn năm”. Tham dự thánh lễ chúa nhật, hay thánh lễ mỗi ngày, ta vẫn có câu:… cho tới khi Chúa lại đến. Trên thân cây Nến Phục Sinh cũng có ghi: nguyên thủy và cứu cánh, quá khứ, hiện tại và tương lai: Đức Kitô hiển trị muôn đời! Thái độ rũ bụi… còn các Lê-vi-a-than trần thế có vùng vẫy tung hoành cũng chỉ một thời! Thái độ rũ bụi chân rời khỏi một số thành trì, chỉ là thái độ tượng trưng cho bất cứ thành trì nào ở trần thế, thái độ ở chính nội tâm cần phải có chứ không phải chạy đi đâu cả. “Ngủ nghỉ ăn nói” mà như thể “không ngủ nghỉ ăn nói”, có phải chăng là vậy?
Suy cho cùng, dù có gì đi nữa: năm 1924, kẻ viết dòng này ở đâu; và năm 2025 cũng sẽ về đâu? Những gì xảy ra giữa hai cái mốc ấy cũng sẽ về đâu? Không có ơn Chúa soi sáng mà nhà thơ nào đó đã có câu:
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
Mà nếu không lầm thì tác giả là một vị Thái thượng hoàng đã nhường ngôi cho con, cắt tóc lên chùa.
Có bi quan yếm thế quá chăng? Có thiếu tinh thần nhập thế quá chăng? Dầu sao, Ngôi Hai xuống thế là để lên trời, kéo tất cả lên theo chứ đâu phải cứ đóng lều mãi ở thế gian này. Và hiện nay ở thế gian này thì Ngài là miếng bánh nhỏ bé nằm trong chiếc hào quang lăn lóc trên cát, cạnh thi hài của Charles de Foucauld, một kẻ đã trọn đời tận hiến cho Ngài, bị một phát súng có lẽ lỡ tay, của một em bé 15 tuổi có nhiệm vụ canh giữ ngài cho bọn thổ phỉ vào trộm cướp ẩn viện của ngài. Đó, có thể nhìn lịch sử nhân loại và vũ trụ chỉ qua một sự cố nhỏ nhoi (cái chết của Charles de Foucauld) chẳng có trọng lượng gì đối với các chiến trường, các nghị trường, các thương trường, kể cả các pháp trường và bất cứ cái gì… trường! Cũng như cái chết của một nữ tử 24 tuổi vào chiều tối 30-9-1897, có trọng lượng gì so với thời thế của một giai đoạn khá phồn thịnh của Âu tây! Lúc cáo biệt vị bá phụ dòng Solesmes, sau tuần cấm phòng, Charles de Foucauld được ban cho lời dặn cuối cùng sau đây: “Cha chỉ xin con nhớ luôn cho rằng - mọi sự sẽ qua đi, chỉ lòng Chúa xót thương là luôn tồn tại!”
Từ năm 1975 trở đi, tôi sống với đồng bào, với gia đình, với bằng hữu, người ta sao mình vậy, cũng cùng chung những vui buồn vinh nhục, đói no, thiếu đủ, ở cái đất Đà Lạt thân thương này; làm những việc cần thiết về sinh hoạt như lao động, giải trí, hoạt động văn hóa xã hội một cách chân tình cởi mở, cũng có khi nóng giận, ngoa ngoắt, nhưng thực ra hồn tôi thì như cô mục đồng trong tác phẩm của Gioan Thánh Giá dặn lại bạn bè rằng: “nó đã mất hút ở đâu rồi!”. Tết năm Ất Sửu, năm sinh của tôi, trong bài thơ dán trước cửa cáo từ khách… đến chúc xuân, tôi có câu:
“Hàng xóm cho hay chủ vắng nhà”
Rồi đây, nếu có phương tiện, tôi sẽ còn đi về giữa Đà Lạt – Hà Nội (vì mẹ già còn sống, phải ra thăm viếng) Đà Lạt – Tp. HCM, Đà Lạt – Nha Trang, Đà Lạt – Huế… đi thăm bà con bằng hữu; đồng bào Đà Lạt sẽ thấy tôi khi ở phố này, lúc ở quán cà phê nọ, lúc xuống rẫy làm vườn, khi đi dự hội họp mít tinh. Sống thì phải thế, chứ tôi chỉ muốn được như ông thánh Benoit Joseph Labre, ngày đêm quỳ phủ phục chầu Thánh Thể, vì đó là nơi NGÔI HAI THIÊN CHÚA ĐANG NGỰ Ở GIỮA CHÚNG TA MỖI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ (Cánh chung). Mọi sinh hoạt chỉ là hiện tượng bên ngoài, cho trọn thân phận làm người và là “người Việt Nam” được Chúa đặt vào một địa điểm một thời điểm, một khung sống: kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội nhất định, như cái vườn ươm để sinh hoa kết quả cho mùa gặt muôn đời, dù có trải qua mưa nắng, ấm lạnh, gió sương, (có khi làm rụng lá gãy cành), sâu bọ chim muông, súc vật phá phách, tay người cắt xén, thì một sợi tóc trên đầu con rơi xuống cũng không ngoài ý Cha. Mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh, vẫn tiếp diễn qua mọi sự cố về bản thân, gia đình, đất nước, nhân loại mà Hội Thánh với thân phận lữ hành, là chứng tích, là bảo chứng là tượng trưng: Hội Thánh được đặt trên nền đá Phêrô mà cửa Hỏa ngục không làm gì nổi.
Cuối cùng, cuộc đời ai cũng vậy - phải vậy, bản chất là vậy: một cách nào đó đều phảng phất những nét của CON NGƯỜI mà Philatô đại diện quyền thế gian đã đưa ra giới thiệu cho muôn thế hệ chiêm ngắm và noi gương mình, để tìm cho được chân tướng của mình. Mọi chi tiết vụn vặt: vinh nhục, vui buồn, sướng khổ… Chỉ là nét phụ! ECCE HOMO, NÀY LÀ NGƯỜI! Ai là người thì hãy tìm mình trong CON NGƯỜI ấy. Ai muốn hiểu ai đi nữa, thì cũng nhìn qua CON NGƯỜI ấy thì sẽ rõ, trong tâm tình ăn năn thống hối thâm sâu, với ý thức sự đốn mạt khôn cùng của mình, tôi nghĩ rằng: Một Kitô hữu viết chuyện đời mình (dù là một đời đĩ điếm, trộm cướp) hễ còn tin vào Ngài, thì một cách nào đó cũng là viết chuyện đời Ngài mà thôi. Bởi vì chính Ngài đã lãnh nhận, thông dự tất cả những ai tin Ngài (và những ai chưa biết Ngài) vào trái tim cực thánh của Ngài để cho lưỡi giáo đâm thâu chảy đến giọt máu hòa nước cuối cùng: trái tim mà từ thuở 14, 15, tôi chưa biết gì, đã được ngài thương tỏ ra dưới một hình thức vô cùng bé mọn: trên một tấm ảnh hình thường kiểu Saint Sulpice phần thưởng của một giáo sư linh mục thừa sai trao cho một em bé ngoại giáo có điểm giáo lý cao, - em bé ấy, vài tháng trước đó đã quả quyết “không bao giờ” tòng giáo! Em bé ấy - ngày nay 61 tuổi, một mình ghi lại dòng chữ này: thay vì “Jamais” (không bao giờ) chỉ xin thêm một chữ A: “à jamais” = cho đến muôn đời (không bao giờ thôi). Kỳ diệu thực ra chỉ ở chữ A ấy mà thôi, còn các chi tiết tiểu sử chỉ là hoa hòe hoa sói, để mua vui một vài trống canh, nào có trọng lượng bao nhiêu!
Trước 1975 tôi cứ tưởng là sẽ làm chứng về Ngài qua những việc gọi là từ thiện (mà viên Tyfomycine ở trại cải tạo đã lột mặt nạ ra), nhưng hình như qua đó mọi người chỉ thấy: “chỉ là anh!”. Từ năm 75, tôi không còn là gì nữa, tôi quì lạy xin Đức Mẹ giúp tôi càng ngày càng trở nên “không”, mờ hẳn, nhạt nhòa hẳn, xóa hẳn để Mẹ in lên một vài nét của con Mẹ, để mong sao khi gặp tôi, trao đổi với tôi, anh em thoáng thấy được một vài nét của “Thánh Nhan Ngài”, dù có bị méo mó hoen ố ít nhiều (mà nhiều hơn ít), để mai sau tôi được xếp vào bên hữu của Ngài dù là hạng bét, bét ở đây vẫn còn hơn ở thế gian bội phần. Đầu thế gian có thể dịch là Prince de ce monde (prince = prin-cep: caput - đầu, Thủ lãnh & Đầu mục thế gian này; Prince de ce monde là ai, thì Đức Mẹ biết rồi, vì cái Đầu ấy đã bị gót chân liễu yếu của Mẹ đạp dập nát rồi, còn cái đuôi có ngo ngoe vùng vẫy cũng chỉ một thời đó thôi!” Các con đừng sợ, Ta đã thắng thế gian!” xin Mẹ giữ con đừng dại dột mê theo hoặc sợ hãi quị lụy thế gian với tên Thủ Lãnh của nó, đầy chước độc mưu thâm, đến nỗi kẻ lành cũng có thể bị đánh lừa bởi cái áo “sự sáng” khoác ngoài của nó! Sau này tôi sẽ kể lại một vài điều học được về những mưu chước của nó mà không có sự phù trợ đặc biệt của “Người Nữ” đã đạp dập đầu nó thì tôi nghĩ rằng khó lòng mà thoát khỏi.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |