Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
11. XUẤT GIA
Sự lo ngại của thân phụ tôi hình như có cơ sở: tôi trở nên đối tượng của một sự nghi vấn nào đó về chính trị (như tôi đã nói lên kia). Sự hiện diện của tôi trở nên một thắc mắc, một đe doạ cho gia đình, có thể làm phiền đến thân phụ tôi. Do đó, càng ngày tôi càng sống tại nhà anh Trần Đức Đào lại xứ Đông Tràng nhiều hơn, một tuần chỉ về nhà một vài buổi, ngụ ở nhà một vài hôm. Những giây phút ở nhà tuy không được vui, nhưng sự chăm sóc của mẹ và các em đối với tôi vẫn như cũ và hình như có phần chu đáo hơn trước.
Tôi có cảm tưởng rằng sự thay đổi ấy còn có một lý do sâu xa hơn nữa: hình như trong mối tương quan liên-ngã-vị ở gia đình tôi đem đến một yếu tố mới. Từ vị đại khoa nhất phẩm triều đình là thân phụ tôi, cho đến em bé út mới bập bẹ biết nói; từ mẹ tôi có ít nhiều dáng dấp mệnh phụ phu nhân địa chủ phong kiến, cho tới người tớ gái xuất thân gia đình bần nông, đều bắt được nơi tôi một cái gì mà xưa nay họ chưa từng được “nếm”. Ngoài cái phong thái một đứa con hiếu, một anh trai hiền, một cậu tiểu chủ tốt, một “cậu tú” bình dân theo các mối giềng xã hội trong truyền thống Nho giáo, nơi tôi bắt đầu có cái phong thái của một “người” chỉ là “người”, thân hữu với bất cứ ai trong tình người thuần tuý bình đẳng, bởi vì trong Đức Kitô và trước mặt Cha Chung của mọi người ở trên trời, mọi người chỉ là anh em hết thảy. Mẹ tôi, em gái út tôi hay người tớ gái có một dạng là đều là chị em với tôi trong Đức Kitô, chứ không bị giản lược vào cái “chức năng”, cái “nhãn hiệu”, cái “vai trò”, cái “vị thế”, cái “tư cách” là mẹ, là em, là tớ gái. Có thể nói ví dụ là mẹ tôi xưa nay chỉ được xử đãi như là “con”, là “vợ”, là “mẹ”, là “bà cụ thượng”, là “bà chủ nhà”, là “con mẹ địa chủ”, chứ chưa bao giờ nếm cái vị được xử đãi như là một con người thuần tuý! Con “người” không nhãn hiệu, không danh vị nào khác, ngoài cái ngã vị chủ thể của mình, trong sự duy nhất độc đáo của cả. Cái hương vị “tình người thuần tuý”, đặc điểm của Kitô giáo mà tôi nếm lần đầu tiên năm 1938, túc tôi là một cậu bé học sinh 13 tuổi được vị Linh mục giáo sư bắt tay, mời ngồi vào chiếc ghế ‘phô-tơi’ đối diện như trao đổi với người bạn thân hữu, không còn cách xa bởi bất cứ nhãn hiệu gì: già trẻ, thày trò, Pháp Việt mà chỉ là hai người thuần tuý mà thôi. Nói gọn lại, xưa nay tôi chỉ thương mẹ với tình thương của người con, nay thêm vào còn thương mẹ với tình người, mẹ là người con của thiên Chúa trong Đức Kitô, như tôi, như bất cứ ai. Tôi nghĩ rằng, nếu “vô phúc” mà tình cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, chủ tớ, thày trò, đồng nghiệp, đồng chí, đồng hương, đồng bào có bị sứt mẻ hay đứt đoạn, thì vẫn còn tình người trong Đức Kitô muôn đời tồn tại, mà mối tình này vừa nhân các mối tình kia lên gấp bội, vừa bảo tồn gìn giữ phục hồi khi bị va chạm sứt mẻ hay sụp đổ. Nếu có vô phúc hết tình hết nghĩa tình vợ chồng, anh em v. v.. thì “tình anh chị em” trong Đức Kitô vẫn còn nguyên vẹn.
Sau những năm xa cách, qua những thay đổi, có những ngộ nhận sứt mẻ (một vài trường hợp khá trầm trọng), năm 76 gặp lại nhau tôi thấy rõ điều nhận định và suy nghĩ trên đây quả là thật đúng như vậy. Tôi tự hỏi nếu tôi không sống trong tình yêu Đức Kitô, thì tương quan liên ngã vị đối với một số người, qua gần nửa thế kỷ xáo trộn phân chia đối kháng, tranh chấp, đố kỵ, nghi ngờ, phán xét, ngộ nhận, xuyên tạc sẽ đi đến chỗ nào? Nhờ ơn Chúa ngày nay trong trái tim Đức Chúa Giêsu và trái tim Đức Mẹ, mọi mối tình nhân thế đều nguyên vẹn và ngày càng đậm đà tươi mát trong trái tim đã 61 tuổi đời của tôi! (Kể cả những “mối tình” ngang trái bất khả trong những năm 44-49 mà tôi có đề cập đến trên kia).
Trước kia người ta đố kỵ với đạo Công giáo là vì họ nghĩ (và nay cũng có ít nhiều đồng bào ta nghĩ như vậy) rằng “theo đạo” là bỏ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, mồ mả mà đi theo một cái gì ngoại lai và thậm chí là theo Tây phản quốc! Nhưng riêng tôi, tôi tự nghĩ nếu năm 49 tôi không được gìn giữ bao bọc bởi Hội Thánh Việt Nam trong Đức Kitô thì ngày nay tôi sẽ trôi dạt ở phương trời nào? Tôi có còn được đoàn tụ với mẹ già, anh chị em, bà con nội ngoại trong những ngày giỗ kỵ nữa không? Tôi sẽ còn là công dân nước Việt Nam nữa không? Tôi sẽ còn thư từ trao đổi, gặp gỡ các anh Đinh Nho Liêm, Đoàn Huyên (Đại tá), Thành Tín (Đại tá), Lý Văn Sáu (Nguyễn Bá Đàn), Lê Thức (Đại tá), toàn là đảng viên Cộng sản rồi cuối cùng về hưu với tư cách là cán bộ của ủy ban khoa học và kỹ thuật Lâm Đồng, và nay mai sẽ gửi đống cát bụi trở về lòng đất mẹ Việt Nam yêu dấu hay không? Và tôi tự hỏi trong tâm thức những người Việt Nam 60 tuổi trở lên như tôi, mấy ai còn khắc khoải thao thức về ngôi nhà thờ họ (đối với tôi là nhà thờ họ Nguyễn), ngôi đại từ đường này đổ nát làm sao mà trùng tu lại? Mấy ai xót xa vì ngôi đình thần của làng Thịnh Xá thờ thần Bạch Vân, của làng Gôi Mỹ thờ Đinh quận công có bà vợ tuẫn tiết theo chồng, hoang phế là điều mất mát? Rồi ngày kỵ giỗ của thân phụ tôi thì không nói, nhưng nhiều túc tôi tự hỏi là ngay cả ngày giỗ bà đích mẫu của tôi chưa hẳn đã còn gợi lên trong tâm tình các anh chị do chính máu mủ người sinh ra những cảm nghĩ như tôi vẫn còn ngày nay; bởi vì tôi không bao giờ quên được kỷ niệm những ngày giỗ ấy trong gia đình tôi: hình ảnh thân phụ tôi, anh chị tôi trong ngày giỗ ấy vẫn còn rất đậm nét trong tâm trí tôi! Mỗi lần dự thánh lễ, lúc cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, tôi vẫn nghĩ đến người cùng một trật với thân phụ tôi; vì giáo lý về bí tích Hôn phối dạy cho tôi biết kết hợp trong tâm tư tôi hình ảnh của thân phụ tôi và vị chánh thất của người mà mẹ ruột tôi dầu sao cũng là một người kế vị tục huyền. Tôi vẫn còn nhớ khi cải táng cho người vì anh cả tôi ở xa, anh thứ hai sắp mất, chính tôi đã buộc khăn ngang đóng vai đại diện trưởng nam đi trước di hài của người, ruớc về nơi an táng mới. Quả đúng là mọi sự tốt lành đều sẽ được thâu gồm hồi phục trong Đức Kitô (récapitulés dans le Christ)
Bên trong tâm hồn thì như vậy, nhưng trong hoàn cảnh Năm 1949 tại khu 4: với những biến cố gây nên do sự căng thẳng giữa chế độ mới và Hội Thánh thời ấy, nhất là những sự lộn xộn xích mích giữa các chính quyền địa phương và tổ chức liên đoàn Công giáo, thì sự có mặt của tôi ở gia đình và ở địa phương, trở thành một chướng ngại. Điều ấy cũng có làm cho niềm hân hoan tràn ngập tâm hồn tôi vào mùa xuân có phần bớt đi sự vẹn toàn của nó. Và việc tôi phải lánh mặt đi là điều cần thiết để cho gia đình an ổn. Vả lại, ý định dâng mình vào nhà Chúa càng trở nên kiên định trong lòng tôi túc ấy, các Linh mục phụ trách Đại chủng viện xã Đoài có ý khuyên tôi vào đại chủng viện địa phận để tu học chuẩn bị làm Linh mục triều, nhưng sau khi trao đổi với Linh mục linh hướng (là cha xứ Nghĩa Yên) tôi đã chọn cuộc đời tu sĩ. Mà túc ấy ở Nghệ Tĩnh chỉ có một dòng tu duy nhất là dòng Phanxicô. Tôi chỉ biết là ước ao vào dòng tu, chứ không tìm hiểu gì riêng về dòng Phanxicô! miễn là dòng tu, mà lúc ấy chỉ có mỗi một dòng tu nên không có vấn đề chọn dòng này hay dòng khác. Thế là niên học 1949-1950, tôi xin thôi dạy học tại trường trung học Hương Sơn, xin phép thầy mẹ tôi xuất gia, xuống Vinh để vào tu nhà dòng. Gia đình không cản trở, và vì tình trạng căng thẳng nói trên, nên tôi thấy đó cũng là giải pháp ổn định. Việc tôi đi tu, xa lánh mọi hoạt động sẽ chứng tỏ được rằng quả thực tôi tòng giáo là muốn đi tìm cuộc đời tinh thần phù hợp với bản thân, chứ không phải có ý đồ mục đích trần thế nào cả. Có chăng là chỉ bị chê trách trốn tránh trách nhiệm gia đình, quốc gia xã hội, chứ không bị ngộ nhận là “giả dạng” theo đạo để gia nhập tổ chức chính trị nào.
Thế là tôi rời gia đình vào một buổi chiều đầu mùa thu năm l949, ra nhà một cậu học sinh thân của tôi ở gần bờ sông để sáng mai sang sông cho sớm, đi bộ xuống Nghĩa Yên lấy thuyền (do Linh Mục Vương Đình Ái lo cho) ra Vinh. Sau buổi cơm cuối cùng với gia đình. Tôi xách nón ra đi. túc ấy, cả gia đình tiếp tục ai việc ấy, thân phụ vẫn ngồi xắt thuốc trên tấm phản ngựa bằng gỗ trắc, mẹ tôi vẫn ngồi vá áo trên một chiếc phản ở bên cạnh, các em tôi đứa vẫn xem sách, đứa lúi húi bếp núc, đứa bé nhất vẫn chơi đùa dưới dàn hoa Thiên lý ngát hương thơm, cả nhà im lặng. Phút chia tay này, trong lòng ai cũng cho là gần như vĩnh biệt, mà bề ngoài làm như không có gì xảy ra. Như tôi đã nói trên, dạo ấy đứa em gái út của tôi, hễ mỗi lần thấy tôi bước chân ra khỏi nhà là chạy theo níu lấy áo đòi theo, nếu không cho theo là quay ra khóc. Vì vậy tôi không dám lại ôm hôn nó lần chót, lặng lẽ rút tui hằng ngõ cửa sau bếp, sang các nhà bà con bên cạnh như muốn đi trốn. Nhưng chẳng hiểu vì sao nó chợt trông thấy, quay ra khóc, tôi không dám quay lại, sợ từ đó mà lây sang cả nhà, mẹ tôi và các em khác; tôi chỉ biết gạt nước mắt cúi đầu chạy, bên tai vang lên tiếng khóc thét của đứa em lên ba: “nỏ mô! nỏ mô!” (không đâu) bày tỏ sự phản đối không muốn cho tôi ra khỏi nhà. Không thể nào nói lên nỗi khổ tâm của tôi túc đấy, Nhưng đồng thời cũng cảm thấy như thoát khỏi một sự cầm buộc chặt chẽ làm cho tôi cơ cực suốt mấy năm trời. Chân tôi bước đi trên con đường làng dẫn ra bãi sông, trọ tại nhà người học trò thân, trong trí óc chỉ còn nhớ lại lời thân phụ tôi trong bữa ăn tiễn biệt:
Thôi – thì phúc nhà không cho thầy được hưởng sự gầy dựng cho con theo ý nguyện của thầy mợ, nhưng nếu con tìm được an bình trong đời tu, thì thầy cũng mừng cho con. Thầy chỉ khuyên con một điều: con đã chọn con đường tu trì thì cứ nhất định con đường đó mà đi, đừng bao giờ nghiêng ngả theo sự tôi cuốn nào mà lạc nào con đường chính trị cả!
Phương châm ấy đã hướng dẫn đời tôi, dù sau này có không trọn đời sống trong một dòng tu nào cả, nhưng tôi vẫn sống một cuộc đời gần như tu ở giữa đời, không bao giừ dính líu vào một hoạt động nào có tính cách chính trị cả. Mãi cho đến năm 1978, tôi cũng không làm công chức của một nhà nước nào cả! (hai năm 54-56 bị cưỡng bức tòng quân là hoàn toàn bị bắt buộc làm dịch vụ cho một chính quyền được xem như là hợp pháp do hiệp định Genève mà người dân ở vùng nào phải tuân theo vùng nấy, nếu không là tự đặt mình ngoài vòng pháp tuật). Và mẹ tôi khi tôi cúi đầu chào người, người chỉ thở dài rươm rướm nước mắt và bảo rằng:
Ừ, con đi! nhưng con ơi! Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu?
Hình như giữa người mẹ và người cha, Thiên Chúa ban cho một linh tính nào đó: Mẹ tôi hình như thấy trước rằng cuộc đời của tôi tưởng là cập bến bình an trong bốn bức tường tu viện, nhưng rồi sẽ còn nhiều bước, tuy không gian nan, nhưng rồi lắm nổi chìm, quanh co, khúc khuỷu.
Sáng hôm sau, cậu học sinh thân nhất của tôi tại trường trung học Hương Sơn đưa tôi ra bến đò ngang, sang bên kia sông là đường quốc lộ số 9 (từ phố Châu xuống Vinh) để xuống Nghĩa Yên và xuống Vinh. Từ ấy đến nay tôi vẫn chưa có dịp trở lại bến đò xưa, gọi là bãi bè, bến Cơn (cây) Bàng, Bến Cơn Sung để về thăm quê cũ, bởi vì, sau cải cách ruộng đất năm 1954 tất cả gia đình tôi dần dà đi tha phương lập nghiệp cả, chỉ còn bà chị dâu vợ người anh thứ hai của tôi là ở lại, nhưng tôi chưa có dịp về thăm nhà của chị ấy, thì chị đã qua đời vào tháng 5 /1985 tại Nha Trang trong túc vào thăm người con gái vào dạy học tại trường cấp III Nha Trang sau năm 1975.
Xuống Nghĩa Yên, tôi nghỉ vài hôm rồi đi thuyền xuống Vinh, vào dòng Phanxicô sống đời dự tu, và dạy học cho các tiểu chủng sinh nhà dòng lúc ấy. Có ba lớp 6, 7, 8. Tôi phụ trách môn việt văn cho niên khóa 1949-1950. Được xa lánh mọi xôn xao của cuộc sống, của thế gian bên ngoài, tôi chìm sâu vào cuộc đời cầu nguyện. Lúc ấy, cha bề trên lần lượt trao cho tôi nhiều sách thiêng liêng, nhưng in sâu vào tâm trí của tôi là cuốn “Les prières d’un croyant” của Marcel Légaut mà tôi có phỏng dịch nhiều đoạn, chuyền tay cho cha xứ ở Cầu Rầm, ở Vinh phổ biến cho một số ít các chủng sinh và Linh mục, đồng thời tôi cũng có viết một tập nhan đề: “Tôi tin có Thiên Chúa” có tính cách minh giáo, cũng do cha xứ Cầu Rầm chuyền tay phổ biến, túc ấy tôi chỉ tìm hiểu thêm về đời sống tu trì nói chung, đọc các sách thiêng liêng chung như tác phẩm của cha Ray, cha Rodrigue, chứ không chuyên gì về tinh thần Phanxicô cả, có thích cái phong thái nghệ sĩ của vị thánh nghèo khó, nhưng là thích một cách khá hời hợt mà thôi.
Tôi quên một chi tiết nhỏ: trước khi rời gia đình đi tu, tôi có thưa với mẹ tôi: “Từ nay con sẽ không còn hưởng nhờ gì của thầy mẹ nữa, tài sản con sẽ không kể, con xin mẹ cho một cái gì như là kỷ niệm của thầy mẹ”. Mẹ tôi đưa cho tôi hai chỉ vàng, tôi đánh hai chiếc Thánh Giá, mỗi chiếc một chỉ. Tôi đưa một chiếc tặng cho người bạn thân nhất của tôi, vì tôi biết anh ấy có ý muốn tòng giáo như tôi, và một chiếc tôi giữ làm kỷ niệm của gia đình. Sau 75 ra Hà Nội, tôi có gặp lại người bạn ấy nhưng không đề cập đến cái món quà ấy ra sao (vì cuối cùng anh ấy đã không tòng giáo như có ý lúc bấy giờ). Còn chiếc Thánh Giá tôi giữ làm kỷ niệm, tôi đã dâng cúng theo lời khấn mà tôi sẽ nói ở đoạn sau.
Hết niên học 1949-1950, các tiểu chủng sinh về nghỉ hè, tôi cũng có theo một số em về quê họ, nơi giáo xứ Tịnh Giang, gần thị xã Hà Tĩnh, là nơi Linh mục Vương Đình Ái được chuyển về làm cha xứ. Tôi ở đó một vài tuần đi thăm viếng một vài giáo xứ lân cận, chứ không về thăm nhà sợ gây ra những bất trắc rắc rối về nhiều mặt. Trong năm tôi dự tu và dạy học lại dòng Phanxicô, linh mục Nguyễn Ngọc Bang, cha xứ Nghĩa Yên có vài lần xuống Vinh thăm một tu sĩ là con đỡ đầu của ngài, ngài đã nâng đỡ khuyến khích tôi trên con đường quyết tâm dâng mình cho Chúa. Và đầu niên học 1950-1951, tôi được hội đồng nhà dòng chấp nhận vào tập viện dòng Phanxicô, lễ mặc áo được tổ chức ngày 4 tháng10 năm l950. Tôi có tin cho gia đình tôi, và có ngỏ ý xin gia đình cho người thân đại diện xuống dự lễ, quả thật, thầy mẹ tôi rất thương tôi, cho nên đã vui lòng cho em trai tôi xuống Vinh dự lễ mặc áo dòng của tôi, để cho tôi được an tâm, bởi vì cho người thân tới dự lễ là một cách biểu lộ sự bằng lòng không có gì oán trách giận ghét. Xin Chúa xem đó như là một sự dâng hiến của lễ do bàn tay cha mẹ tôi dâng lên, mà dủ lòng ban ơn cứu độ cho hai đấng sinh thành dưỡng dục tôi nên người để dâng lên cho Chúa. Và tôi tin chắc là như thế, mặc dù hai đấng không được ơn đón nhận Ngài và chịu ơn thanh tẩy.
Trong năm ở nhà tập, mọi sự xảy ra êm đềm tốt đẹp, tôi càng ngày càng cảm thấy được triển nở, càng được nếm những dịu ngọt thiêng liêng. Thỉnh thoảng tôi có biên thư về thăm hỏi gia đình. Và Chúa cũng thương tôi, sắp đặt một sự việc làm tôi yên tâm về mặt gia đình, như tôi đã nói ở trên kia là: Sau khi người anh thứ hai của tôi mất đi, tôi trở nên như người cột trụ tương lai của gia đình, tôi rời bỏ gia đình đi tu chắc là thầy mẹ tôi thấy mất đi một nơi các ngài đặt nhiều hy vọng. Chỉ có Chúa mới biết hết nỗi khổ tâm của hai người, nhưng Chúa đã đoái thương sắp xếp, ban cho thầy mẹ tôi một người con rể thay thế tôi! Tôi có người bạn rất thân: anh Nguyễn Ngọc Cẩn quê ở Bình Thuận, ra Hà Nội năm 1946 để học y khoa. Sau ngày Hà Nội kháng chiến, bị cắt đường bên lạc với gia đình, anh Cẩn trở về Nghệ Tĩnh dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh với tôi, và xem gia đình tôi như gia đình của anh ấy vậy. Từ đó, cuộc tình duyên giữa anh Cẩn và người em gái tôi bắt đầu và đi đến cuộc thành hôn vài tháng trước khi tôi rời bỏ gia đình đi tu. Anh Cẩn (nay là em rể tôi) dường như thay thế tôi trong vai trò người con trai lớn trong gia đình. Quả vậy, trong những năm mà gia đình tôi suy sụp, chú Cẩn là một tay đắc lực dìu dắt và đỡ nâng các em tôi trên con đường học hành và lập thân. Ở lại miền Bắc, chú Cẩn đã trở nên người con trong gia đình thay thế cho tôi vậy. Đó là một ơn lành Chúa ban cho gia đình tôi, vì nếu không có chú Cẩn thì những năm sau cải cách ruộng đất không biết số phận các em tôi sẽ ra sao? Mãi đến năm 1964 túc anh Viện của tôi ở Pháp về Bắc, vai trò của chú Cẩn trong gia đình tôi mới được cất nhẹ đi, vì đã có anh Viện cáng đáng mọi sự. Tôi thấy rõ có bàn tay Chúa quan phòng sắp đặt. Thật vậy, sự ra đi của tôi đã giảm nhẹ sự gay cấn do hoàn cảnh xã hội bên ngoài gây nên cho gia đình vì sự “theo đạo” của tôi, chứ ở lại với gia đình chưa chắc tôi đã làm được gì. Dầu vậy, Chúa đã gọi chú Cẩn đến để thay thế cho tôi, với tất cả sự thuận tiện của một trang thanh niên có sức khoẻ, có tình độ, có tâm huyết và có điều kiện chèo chống cho gia đình trong cơn bão táp (vì sau này chú Cẩn là một viên chức cao cấp trong ngành giao thông vận tải và được kết nạp đảng khá sớm). Nay vợ chồng chú Cẩn đã có cháu ngoại cháu nội, gia đình tương đối khá về mặt vị trí trong xã hội.
Nhờ được an tâm về mặt gia đình như thế, nên con đường tu trì của tôi, cho đến ngày tôi vào Nha Trang và bị động viên giữa năm 1954, kể ra là rất thuận buồm xuôi gió, ít ra là về mặt ngoài.
Sự lo ngại của thân phụ tôi hình như có cơ sở: tôi trở nên đối tượng của một sự nghi vấn nào đó về chính trị (như tôi đã nói lên kia). Sự hiện diện của tôi trở nên một thắc mắc, một đe doạ cho gia đình, có thể làm phiền đến thân phụ tôi. Do đó, càng ngày tôi càng sống tại nhà anh Trần Đức Đào lại xứ Đông Tràng nhiều hơn, một tuần chỉ về nhà một vài buổi, ngụ ở nhà một vài hôm. Những giây phút ở nhà tuy không được vui, nhưng sự chăm sóc của mẹ và các em đối với tôi vẫn như cũ và hình như có phần chu đáo hơn trước.
Tôi có cảm tưởng rằng sự thay đổi ấy còn có một lý do sâu xa hơn nữa: hình như trong mối tương quan liên-ngã-vị ở gia đình tôi đem đến một yếu tố mới. Từ vị đại khoa nhất phẩm triều đình là thân phụ tôi, cho đến em bé út mới bập bẹ biết nói; từ mẹ tôi có ít nhiều dáng dấp mệnh phụ phu nhân địa chủ phong kiến, cho tới người tớ gái xuất thân gia đình bần nông, đều bắt được nơi tôi một cái gì mà xưa nay họ chưa từng được “nếm”. Ngoài cái phong thái một đứa con hiếu, một anh trai hiền, một cậu tiểu chủ tốt, một “cậu tú” bình dân theo các mối giềng xã hội trong truyền thống Nho giáo, nơi tôi bắt đầu có cái phong thái của một “người” chỉ là “người”, thân hữu với bất cứ ai trong tình người thuần tuý bình đẳng, bởi vì trong Đức Kitô và trước mặt Cha Chung của mọi người ở trên trời, mọi người chỉ là anh em hết thảy. Mẹ tôi, em gái út tôi hay người tớ gái có một dạng là đều là chị em với tôi trong Đức Kitô, chứ không bị giản lược vào cái “chức năng”, cái “nhãn hiệu”, cái “vai trò”, cái “vị thế”, cái “tư cách” là mẹ, là em, là tớ gái. Có thể nói ví dụ là mẹ tôi xưa nay chỉ được xử đãi như là “con”, là “vợ”, là “mẹ”, là “bà cụ thượng”, là “bà chủ nhà”, là “con mẹ địa chủ”, chứ chưa bao giờ nếm cái vị được xử đãi như là một con người thuần tuý! Con “người” không nhãn hiệu, không danh vị nào khác, ngoài cái ngã vị chủ thể của mình, trong sự duy nhất độc đáo của cả. Cái hương vị “tình người thuần tuý”, đặc điểm của Kitô giáo mà tôi nếm lần đầu tiên năm 1938, túc tôi là một cậu bé học sinh 13 tuổi được vị Linh mục giáo sư bắt tay, mời ngồi vào chiếc ghế ‘phô-tơi’ đối diện như trao đổi với người bạn thân hữu, không còn cách xa bởi bất cứ nhãn hiệu gì: già trẻ, thày trò, Pháp Việt mà chỉ là hai người thuần tuý mà thôi. Nói gọn lại, xưa nay tôi chỉ thương mẹ với tình thương của người con, nay thêm vào còn thương mẹ với tình người, mẹ là người con của thiên Chúa trong Đức Kitô, như tôi, như bất cứ ai. Tôi nghĩ rằng, nếu “vô phúc” mà tình cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, chủ tớ, thày trò, đồng nghiệp, đồng chí, đồng hương, đồng bào có bị sứt mẻ hay đứt đoạn, thì vẫn còn tình người trong Đức Kitô muôn đời tồn tại, mà mối tình này vừa nhân các mối tình kia lên gấp bội, vừa bảo tồn gìn giữ phục hồi khi bị va chạm sứt mẻ hay sụp đổ. Nếu có vô phúc hết tình hết nghĩa tình vợ chồng, anh em v. v.. thì “tình anh chị em” trong Đức Kitô vẫn còn nguyên vẹn.
Sau những năm xa cách, qua những thay đổi, có những ngộ nhận sứt mẻ (một vài trường hợp khá trầm trọng), năm 76 gặp lại nhau tôi thấy rõ điều nhận định và suy nghĩ trên đây quả là thật đúng như vậy. Tôi tự hỏi nếu tôi không sống trong tình yêu Đức Kitô, thì tương quan liên ngã vị đối với một số người, qua gần nửa thế kỷ xáo trộn phân chia đối kháng, tranh chấp, đố kỵ, nghi ngờ, phán xét, ngộ nhận, xuyên tạc sẽ đi đến chỗ nào? Nhờ ơn Chúa ngày nay trong trái tim Đức Chúa Giêsu và trái tim Đức Mẹ, mọi mối tình nhân thế đều nguyên vẹn và ngày càng đậm đà tươi mát trong trái tim đã 61 tuổi đời của tôi! (Kể cả những “mối tình” ngang trái bất khả trong những năm 44-49 mà tôi có đề cập đến trên kia).
Trước kia người ta đố kỵ với đạo Công giáo là vì họ nghĩ (và nay cũng có ít nhiều đồng bào ta nghĩ như vậy) rằng “theo đạo” là bỏ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, mồ mả mà đi theo một cái gì ngoại lai và thậm chí là theo Tây phản quốc! Nhưng riêng tôi, tôi tự nghĩ nếu năm 49 tôi không được gìn giữ bao bọc bởi Hội Thánh Việt Nam trong Đức Kitô thì ngày nay tôi sẽ trôi dạt ở phương trời nào? Tôi có còn được đoàn tụ với mẹ già, anh chị em, bà con nội ngoại trong những ngày giỗ kỵ nữa không? Tôi sẽ còn là công dân nước Việt Nam nữa không? Tôi sẽ còn thư từ trao đổi, gặp gỡ các anh Đinh Nho Liêm, Đoàn Huyên (Đại tá), Thành Tín (Đại tá), Lý Văn Sáu (Nguyễn Bá Đàn), Lê Thức (Đại tá), toàn là đảng viên Cộng sản rồi cuối cùng về hưu với tư cách là cán bộ của ủy ban khoa học và kỹ thuật Lâm Đồng, và nay mai sẽ gửi đống cát bụi trở về lòng đất mẹ Việt Nam yêu dấu hay không? Và tôi tự hỏi trong tâm thức những người Việt Nam 60 tuổi trở lên như tôi, mấy ai còn khắc khoải thao thức về ngôi nhà thờ họ (đối với tôi là nhà thờ họ Nguyễn), ngôi đại từ đường này đổ nát làm sao mà trùng tu lại? Mấy ai xót xa vì ngôi đình thần của làng Thịnh Xá thờ thần Bạch Vân, của làng Gôi Mỹ thờ Đinh quận công có bà vợ tuẫn tiết theo chồng, hoang phế là điều mất mát? Rồi ngày kỵ giỗ của thân phụ tôi thì không nói, nhưng nhiều túc tôi tự hỏi là ngay cả ngày giỗ bà đích mẫu của tôi chưa hẳn đã còn gợi lên trong tâm tình các anh chị do chính máu mủ người sinh ra những cảm nghĩ như tôi vẫn còn ngày nay; bởi vì tôi không bao giờ quên được kỷ niệm những ngày giỗ ấy trong gia đình tôi: hình ảnh thân phụ tôi, anh chị tôi trong ngày giỗ ấy vẫn còn rất đậm nét trong tâm trí tôi! Mỗi lần dự thánh lễ, lúc cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, tôi vẫn nghĩ đến người cùng một trật với thân phụ tôi; vì giáo lý về bí tích Hôn phối dạy cho tôi biết kết hợp trong tâm tư tôi hình ảnh của thân phụ tôi và vị chánh thất của người mà mẹ ruột tôi dầu sao cũng là một người kế vị tục huyền. Tôi vẫn còn nhớ khi cải táng cho người vì anh cả tôi ở xa, anh thứ hai sắp mất, chính tôi đã buộc khăn ngang đóng vai đại diện trưởng nam đi trước di hài của người, ruớc về nơi an táng mới. Quả đúng là mọi sự tốt lành đều sẽ được thâu gồm hồi phục trong Đức Kitô (récapitulés dans le Christ)
Bên trong tâm hồn thì như vậy, nhưng trong hoàn cảnh Năm 1949 tại khu 4: với những biến cố gây nên do sự căng thẳng giữa chế độ mới và Hội Thánh thời ấy, nhất là những sự lộn xộn xích mích giữa các chính quyền địa phương và tổ chức liên đoàn Công giáo, thì sự có mặt của tôi ở gia đình và ở địa phương, trở thành một chướng ngại. Điều ấy cũng có làm cho niềm hân hoan tràn ngập tâm hồn tôi vào mùa xuân có phần bớt đi sự vẹn toàn của nó. Và việc tôi phải lánh mặt đi là điều cần thiết để cho gia đình an ổn. Vả lại, ý định dâng mình vào nhà Chúa càng trở nên kiên định trong lòng tôi túc ấy, các Linh mục phụ trách Đại chủng viện xã Đoài có ý khuyên tôi vào đại chủng viện địa phận để tu học chuẩn bị làm Linh mục triều, nhưng sau khi trao đổi với Linh mục linh hướng (là cha xứ Nghĩa Yên) tôi đã chọn cuộc đời tu sĩ. Mà túc ấy ở Nghệ Tĩnh chỉ có một dòng tu duy nhất là dòng Phanxicô. Tôi chỉ biết là ước ao vào dòng tu, chứ không tìm hiểu gì riêng về dòng Phanxicô! miễn là dòng tu, mà lúc ấy chỉ có mỗi một dòng tu nên không có vấn đề chọn dòng này hay dòng khác. Thế là niên học 1949-1950, tôi xin thôi dạy học tại trường trung học Hương Sơn, xin phép thầy mẹ tôi xuất gia, xuống Vinh để vào tu nhà dòng. Gia đình không cản trở, và vì tình trạng căng thẳng nói trên, nên tôi thấy đó cũng là giải pháp ổn định. Việc tôi đi tu, xa lánh mọi hoạt động sẽ chứng tỏ được rằng quả thực tôi tòng giáo là muốn đi tìm cuộc đời tinh thần phù hợp với bản thân, chứ không phải có ý đồ mục đích trần thế nào cả. Có chăng là chỉ bị chê trách trốn tránh trách nhiệm gia đình, quốc gia xã hội, chứ không bị ngộ nhận là “giả dạng” theo đạo để gia nhập tổ chức chính trị nào.
Thế là tôi rời gia đình vào một buổi chiều đầu mùa thu năm l949, ra nhà một cậu học sinh thân của tôi ở gần bờ sông để sáng mai sang sông cho sớm, đi bộ xuống Nghĩa Yên lấy thuyền (do Linh Mục Vương Đình Ái lo cho) ra Vinh. Sau buổi cơm cuối cùng với gia đình. Tôi xách nón ra đi. túc ấy, cả gia đình tiếp tục ai việc ấy, thân phụ vẫn ngồi xắt thuốc trên tấm phản ngựa bằng gỗ trắc, mẹ tôi vẫn ngồi vá áo trên một chiếc phản ở bên cạnh, các em tôi đứa vẫn xem sách, đứa lúi húi bếp núc, đứa bé nhất vẫn chơi đùa dưới dàn hoa Thiên lý ngát hương thơm, cả nhà im lặng. Phút chia tay này, trong lòng ai cũng cho là gần như vĩnh biệt, mà bề ngoài làm như không có gì xảy ra. Như tôi đã nói trên, dạo ấy đứa em gái út của tôi, hễ mỗi lần thấy tôi bước chân ra khỏi nhà là chạy theo níu lấy áo đòi theo, nếu không cho theo là quay ra khóc. Vì vậy tôi không dám lại ôm hôn nó lần chót, lặng lẽ rút tui hằng ngõ cửa sau bếp, sang các nhà bà con bên cạnh như muốn đi trốn. Nhưng chẳng hiểu vì sao nó chợt trông thấy, quay ra khóc, tôi không dám quay lại, sợ từ đó mà lây sang cả nhà, mẹ tôi và các em khác; tôi chỉ biết gạt nước mắt cúi đầu chạy, bên tai vang lên tiếng khóc thét của đứa em lên ba: “nỏ mô! nỏ mô!” (không đâu) bày tỏ sự phản đối không muốn cho tôi ra khỏi nhà. Không thể nào nói lên nỗi khổ tâm của tôi túc đấy, Nhưng đồng thời cũng cảm thấy như thoát khỏi một sự cầm buộc chặt chẽ làm cho tôi cơ cực suốt mấy năm trời. Chân tôi bước đi trên con đường làng dẫn ra bãi sông, trọ tại nhà người học trò thân, trong trí óc chỉ còn nhớ lại lời thân phụ tôi trong bữa ăn tiễn biệt:
Thôi – thì phúc nhà không cho thầy được hưởng sự gầy dựng cho con theo ý nguyện của thầy mợ, nhưng nếu con tìm được an bình trong đời tu, thì thầy cũng mừng cho con. Thầy chỉ khuyên con một điều: con đã chọn con đường tu trì thì cứ nhất định con đường đó mà đi, đừng bao giờ nghiêng ngả theo sự tôi cuốn nào mà lạc nào con đường chính trị cả!
Phương châm ấy đã hướng dẫn đời tôi, dù sau này có không trọn đời sống trong một dòng tu nào cả, nhưng tôi vẫn sống một cuộc đời gần như tu ở giữa đời, không bao giừ dính líu vào một hoạt động nào có tính cách chính trị cả. Mãi cho đến năm 1978, tôi cũng không làm công chức của một nhà nước nào cả! (hai năm 54-56 bị cưỡng bức tòng quân là hoàn toàn bị bắt buộc làm dịch vụ cho một chính quyền được xem như là hợp pháp do hiệp định Genève mà người dân ở vùng nào phải tuân theo vùng nấy, nếu không là tự đặt mình ngoài vòng pháp tuật). Và mẹ tôi khi tôi cúi đầu chào người, người chỉ thở dài rươm rướm nước mắt và bảo rằng:
Ừ, con đi! nhưng con ơi! Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu?
Hình như giữa người mẹ và người cha, Thiên Chúa ban cho một linh tính nào đó: Mẹ tôi hình như thấy trước rằng cuộc đời của tôi tưởng là cập bến bình an trong bốn bức tường tu viện, nhưng rồi sẽ còn nhiều bước, tuy không gian nan, nhưng rồi lắm nổi chìm, quanh co, khúc khuỷu.
Sáng hôm sau, cậu học sinh thân nhất của tôi tại trường trung học Hương Sơn đưa tôi ra bến đò ngang, sang bên kia sông là đường quốc lộ số 9 (từ phố Châu xuống Vinh) để xuống Nghĩa Yên và xuống Vinh. Từ ấy đến nay tôi vẫn chưa có dịp trở lại bến đò xưa, gọi là bãi bè, bến Cơn (cây) Bàng, Bến Cơn Sung để về thăm quê cũ, bởi vì, sau cải cách ruộng đất năm 1954 tất cả gia đình tôi dần dà đi tha phương lập nghiệp cả, chỉ còn bà chị dâu vợ người anh thứ hai của tôi là ở lại, nhưng tôi chưa có dịp về thăm nhà của chị ấy, thì chị đã qua đời vào tháng 5 /1985 tại Nha Trang trong túc vào thăm người con gái vào dạy học tại trường cấp III Nha Trang sau năm 1975.
Xuống Nghĩa Yên, tôi nghỉ vài hôm rồi đi thuyền xuống Vinh, vào dòng Phanxicô sống đời dự tu, và dạy học cho các tiểu chủng sinh nhà dòng lúc ấy. Có ba lớp 6, 7, 8. Tôi phụ trách môn việt văn cho niên khóa 1949-1950. Được xa lánh mọi xôn xao của cuộc sống, của thế gian bên ngoài, tôi chìm sâu vào cuộc đời cầu nguyện. Lúc ấy, cha bề trên lần lượt trao cho tôi nhiều sách thiêng liêng, nhưng in sâu vào tâm trí của tôi là cuốn “Les prières d’un croyant” của Marcel Légaut mà tôi có phỏng dịch nhiều đoạn, chuyền tay cho cha xứ ở Cầu Rầm, ở Vinh phổ biến cho một số ít các chủng sinh và Linh mục, đồng thời tôi cũng có viết một tập nhan đề: “Tôi tin có Thiên Chúa” có tính cách minh giáo, cũng do cha xứ Cầu Rầm chuyền tay phổ biến, túc ấy tôi chỉ tìm hiểu thêm về đời sống tu trì nói chung, đọc các sách thiêng liêng chung như tác phẩm của cha Ray, cha Rodrigue, chứ không chuyên gì về tinh thần Phanxicô cả, có thích cái phong thái nghệ sĩ của vị thánh nghèo khó, nhưng là thích một cách khá hời hợt mà thôi.
Tôi quên một chi tiết nhỏ: trước khi rời gia đình đi tu, tôi có thưa với mẹ tôi: “Từ nay con sẽ không còn hưởng nhờ gì của thầy mẹ nữa, tài sản con sẽ không kể, con xin mẹ cho một cái gì như là kỷ niệm của thầy mẹ”. Mẹ tôi đưa cho tôi hai chỉ vàng, tôi đánh hai chiếc Thánh Giá, mỗi chiếc một chỉ. Tôi đưa một chiếc tặng cho người bạn thân nhất của tôi, vì tôi biết anh ấy có ý muốn tòng giáo như tôi, và một chiếc tôi giữ làm kỷ niệm của gia đình. Sau 75 ra Hà Nội, tôi có gặp lại người bạn ấy nhưng không đề cập đến cái món quà ấy ra sao (vì cuối cùng anh ấy đã không tòng giáo như có ý lúc bấy giờ). Còn chiếc Thánh Giá tôi giữ làm kỷ niệm, tôi đã dâng cúng theo lời khấn mà tôi sẽ nói ở đoạn sau.
Hết niên học 1949-1950, các tiểu chủng sinh về nghỉ hè, tôi cũng có theo một số em về quê họ, nơi giáo xứ Tịnh Giang, gần thị xã Hà Tĩnh, là nơi Linh mục Vương Đình Ái được chuyển về làm cha xứ. Tôi ở đó một vài tuần đi thăm viếng một vài giáo xứ lân cận, chứ không về thăm nhà sợ gây ra những bất trắc rắc rối về nhiều mặt. Trong năm tôi dự tu và dạy học lại dòng Phanxicô, linh mục Nguyễn Ngọc Bang, cha xứ Nghĩa Yên có vài lần xuống Vinh thăm một tu sĩ là con đỡ đầu của ngài, ngài đã nâng đỡ khuyến khích tôi trên con đường quyết tâm dâng mình cho Chúa. Và đầu niên học 1950-1951, tôi được hội đồng nhà dòng chấp nhận vào tập viện dòng Phanxicô, lễ mặc áo được tổ chức ngày 4 tháng10 năm l950. Tôi có tin cho gia đình tôi, và có ngỏ ý xin gia đình cho người thân đại diện xuống dự lễ, quả thật, thầy mẹ tôi rất thương tôi, cho nên đã vui lòng cho em trai tôi xuống Vinh dự lễ mặc áo dòng của tôi, để cho tôi được an tâm, bởi vì cho người thân tới dự lễ là một cách biểu lộ sự bằng lòng không có gì oán trách giận ghét. Xin Chúa xem đó như là một sự dâng hiến của lễ do bàn tay cha mẹ tôi dâng lên, mà dủ lòng ban ơn cứu độ cho hai đấng sinh thành dưỡng dục tôi nên người để dâng lên cho Chúa. Và tôi tin chắc là như thế, mặc dù hai đấng không được ơn đón nhận Ngài và chịu ơn thanh tẩy.
Trong năm ở nhà tập, mọi sự xảy ra êm đềm tốt đẹp, tôi càng ngày càng cảm thấy được triển nở, càng được nếm những dịu ngọt thiêng liêng. Thỉnh thoảng tôi có biên thư về thăm hỏi gia đình. Và Chúa cũng thương tôi, sắp đặt một sự việc làm tôi yên tâm về mặt gia đình, như tôi đã nói ở trên kia là: Sau khi người anh thứ hai của tôi mất đi, tôi trở nên như người cột trụ tương lai của gia đình, tôi rời bỏ gia đình đi tu chắc là thầy mẹ tôi thấy mất đi một nơi các ngài đặt nhiều hy vọng. Chỉ có Chúa mới biết hết nỗi khổ tâm của hai người, nhưng Chúa đã đoái thương sắp xếp, ban cho thầy mẹ tôi một người con rể thay thế tôi! Tôi có người bạn rất thân: anh Nguyễn Ngọc Cẩn quê ở Bình Thuận, ra Hà Nội năm 1946 để học y khoa. Sau ngày Hà Nội kháng chiến, bị cắt đường bên lạc với gia đình, anh Cẩn trở về Nghệ Tĩnh dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh với tôi, và xem gia đình tôi như gia đình của anh ấy vậy. Từ đó, cuộc tình duyên giữa anh Cẩn và người em gái tôi bắt đầu và đi đến cuộc thành hôn vài tháng trước khi tôi rời bỏ gia đình đi tu. Anh Cẩn (nay là em rể tôi) dường như thay thế tôi trong vai trò người con trai lớn trong gia đình. Quả vậy, trong những năm mà gia đình tôi suy sụp, chú Cẩn là một tay đắc lực dìu dắt và đỡ nâng các em tôi trên con đường học hành và lập thân. Ở lại miền Bắc, chú Cẩn đã trở nên người con trong gia đình thay thế cho tôi vậy. Đó là một ơn lành Chúa ban cho gia đình tôi, vì nếu không có chú Cẩn thì những năm sau cải cách ruộng đất không biết số phận các em tôi sẽ ra sao? Mãi đến năm 1964 túc anh Viện của tôi ở Pháp về Bắc, vai trò của chú Cẩn trong gia đình tôi mới được cất nhẹ đi, vì đã có anh Viện cáng đáng mọi sự. Tôi thấy rõ có bàn tay Chúa quan phòng sắp đặt. Thật vậy, sự ra đi của tôi đã giảm nhẹ sự gay cấn do hoàn cảnh xã hội bên ngoài gây nên cho gia đình vì sự “theo đạo” của tôi, chứ ở lại với gia đình chưa chắc tôi đã làm được gì. Dầu vậy, Chúa đã gọi chú Cẩn đến để thay thế cho tôi, với tất cả sự thuận tiện của một trang thanh niên có sức khoẻ, có tình độ, có tâm huyết và có điều kiện chèo chống cho gia đình trong cơn bão táp (vì sau này chú Cẩn là một viên chức cao cấp trong ngành giao thông vận tải và được kết nạp đảng khá sớm). Nay vợ chồng chú Cẩn đã có cháu ngoại cháu nội, gia đình tương đối khá về mặt vị trí trong xã hội.
Nhờ được an tâm về mặt gia đình như thế, nên con đường tu trì của tôi, cho đến ngày tôi vào Nha Trang và bị động viên giữa năm 1954, kể ra là rất thuận buồm xuôi gió, ít ra là về mặt ngoài.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |