Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
16. ÔNG THÀY TÀI TỬ
Sau khi đã ở lại Pháp tìm kiếm mọi dạng thức tu trì mà không đi đến kết quả nào, tôi thấy rằng đã đến lúc trở về Việt Nam. Về miền Bắc, như tôi đã trình bày, là điều không thể thực hiện được, thì chỉ còn về miền Nam thôi. Trong tâm tư tôi, đó không phải là một sự lựa chọn chế độ, vì như trên đã nói, đối với Hội Thánh Việt Nam, trong lòng dân lộc Việt Nam, trên đất nước Việt Nam này, thì vấn đề Nam-Bắc, hai chế độ là vấn đề trần thế. Ở đâu cũng là con người với những mâu thuẫn, có khía cạnh cao thượng, có khía cạnh tầm thường, thậm chí có khía cạnh tồi tệ, cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, là Hội Thánh là thừa tác viên, phải có mặt ở mọi nơi mà phục vụ. Về Nam năm 1965 chỉ là do có điều kiện thực tế thực hiện được, chứ nếu được lựa chọn thì tôi đã về Bắc với giáo dân Vinh là nơi tôi đã rời bỏ để theo ơn gọi đi tu, nay hoàn tục thì về chỗ xuất phát, về nơi nguyên quán, về nơi có gia đình mà năm 1950 tôi rời bỏ cũng chỉ vì lý do tu hành. Vì đối với tôi, việc chính của đời tôi là thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ trong lòng Hội Thánh, mà Hội Thánh thì phải có mặt bất cứ đâu! Trên thực tế, tôi đã về Nam ấy là vì do có điều kiện thực hiện được, còn Vinh là nơi nguyên quán xuất phát, chứ yếu tố chế độ thì không ảnh hưởng chút nào. Ở đâu tôi cũng chỉ phục vụ trong lòng Hội Thánh mà thôi. Tôi là kẻ chèo thuyền, thuyền là Hội Thánh, còn chế độ chỉ là con sông cho thuyền chèo đi qua mà thôi: nước sâu thì chèo, nước cạn thì chống, thì nhảy xuống đẩy, thuận gió thì căng buồm. Tôi không chọn sông nào cả chỉ tùy ý Chúa đưa vào sông nào thì tùy tiện góp phần nhỏ nhen, là giúp cho thuyền đi tới đích. Làm chứng về Thiên Chúa Tình Yêu. Tin ở Sự Quan Phòng phù trợ của Ngài, chỉ sợ làm trái ý Ngài mà thôi.
Thế là cuối năm 1965, tôi trở về miền Nam Việt Nam. Lúc ấy anh Viện tôi cũng đã về miền Bắc năm 1964. Có điều buồn cười là một số anh em ở miền Bắc nghi ngờ cho tôi là người của anh Viện tôi gài trở về miền Nam với nhiệm vụ gì đó do miền Bắc giao cho! Một vài bạn cũ giữ chức vụ cao ở miền Nam tránh né không muốn gặp lại tôi, mãi đến khi thấy tôi phục vụ cho Hội Thánh, mới hết nghi ngờ cho tôi là Cộng sản nằm vùng (có một người thú thật với tôi như vậy). Và đó là lý do khiến cho anh Nguyễn Văn Trung muốn đưa tôi vào dậy lại Đại học Văn khoa Sài Gòn mà không được. Tôi về Việt Nam, lúc đầu có ý sẽ dạy học lại một trường tư thục Công giáo do các Linh mục thuộc địa phận Vinh di cư phụ trách. Tôi có nghĩ đến trường trung học Chính Tâm ở Phan Thiết. Thế nhưng bấy giờ anh chị em trí thức Công giáo ở Sài gòn có ít nhiều sinh hoạt. Linh mục Nguyễn Bình An khuyên tôi ở lại Sài gòn, xem xét tình hình để nếu có thể, thì cùng với các anh chị em ấy làm việc, thành ra tôi nhận lời dạy triết học chương trình Pháp, tại trường các nữ tu dòng Phaolô ở đường Cường Để. Một mặt tôi trao đổi đi lại với các anh em hội trí thức Công giáo, một mặt thì gặp gỡ trao đổi với một vài anh em tìm một dạng thức tu ở giữa đời. Nhưng sau một năm ở Sài gòn, tôi thấy đều chẳng đem lại kết quả gì. Đầu năm 1966, Linh mục Nguyễn Văn Lập, viện trưởng viện Đại học Đà Lạt đề nghị tôi lên làm việc với ngài. Thế là niên học 66-67 tôi lên Dalat nhận dạy một số giờ triết tại Văn khoa Đại học Dalat, ăn ở ngay trong trường với cộng đoàn giáo ban gồm các Linh mục và tu sĩ. Bấy giờ khoa trưởng Văn khoa là Lm. Lê Văn Lý, trưởng ban triết học là Lm. Lê Tôn Nghiêm. Tôi không phải là Linh mục hay tu sĩ gì cả, nhưng tôi sống với cộng đoàn giáo ban tại Đại học cũng gần như một nhà tu: chỉ lo chu toàn bổn phận chức nghiệp dạy học. Tôi ít lưu tâm đến vấn đề chính trị bên ngoài, trao đổi với anh em đồng nghiệp cũng chỉ ở mặt chuyên môn dạy học và văn hoá mà thôi. Những năm đầu, Đại học Đà lạt cũng gần như chỉ là chỗ tôi dung thân trong cuộc sống tạm gọi là “lạc bước vào Nam” do sự trật đường rầy trên con đường tìm một dạng thức tu trì mà phải bị ném ra giữa cuộc đời thế tục, chứ lòng tôi chẳng hề dính bén về mặt danh lợi và tình duyên. Cuộc sống của tôi có chăng như là một ký túc viên cao cấp: chẳng sắm sửa gì chẳng có ý định gây dựng gì cả. Ai giao việc gì thì làm việc ấy lương bổng đưa bao nhiêu nhận bấy nhiêu, tiêu bấy nhiêu. Ai cần thì cho mượn, có thì trả, không cũng chẳng đòi (nhất là một số sinh viên nghèo), chẳng dành dụm gì cả. Có khi còn phải vay mượn thêm để cho những người cần túng tìm đến. Tôi cũng không chủ trương giúp đỡ ai lâu dài, vì không muốn ràng buộc ơn nghĩa với ai. Tôi tự xem như một quán nước bên đường, thấy khách bộ hành đi ngang qua, thì mời uống bát nước chè xanh, ăn củ khoai lang qua loa thôi! Hết đợt sinh viên này qua đợt sinh viên khác, như vậy ai nhớ trở lại thăm thì vui vẻ, ai đi thẳng thì cũng không nhớ là ai! Tôi dạy học tương đối có kết quả, dần dần được các đồng nghiệp chấp nhận như là đủ trình độ, và được mời đi dạy một số giờ tại Đại học Sài gòn và Đại học Huế. Tôi dạy học tương đối có kết quả, tuy là tận tâm, nhưng hơi “tài tử”. Tự xem mình như là một phụ khảo, một trưởng tràng giúp đỡ anh em sinh viên, chứ không tự coi như là một giáo sư, bởi vì về học vị tôi mới chỉ có bằng Cử nhân mà thôi. Đó là lý do khiến tôi không có giáo trình hay cho in sách vở báo chí gì cả. Bài giảng cho sinh viên, có ai ghi chép lại mà muốn nhân lên phục vụ anh em cùng lớp, tôi chỉ sửa chữa vài chỗ, rồi tùy ý họ làm gì thì làm.
Giữa hàng ngũ sinh viên, tôi như một người anh cả hơn là một vị giáo sư, do đó tương quan rất gần gũi, thân mật rất đậm tình người. Sinh viên vào phòng tôi trọ đêm, hay là ngược lại, tôi ngủ tại phòng trọ của họ là thường. Ngoài giờ học thày trò quây quần quanh quán phở, cà phê cũng là thường, không tổ chức thường xuyên, nhưng tôi cố gắng thực hiện cái cung cách của con người cùng với anh em trẻ đi tìm Chân Lý, như tôi học được nơi các thày ở Sorbonne, chứ giáo trình của tôi thì cũng xoàng thôi. Tôi có quan niệm rằng: không có ai dạy triết cho ai, không có ai học triết với ai được cả! Chỉ là kẻ trước người sau trên đường đi tìm triết lý cho mình, do mình; gặp nhau thì giúp đỡ nhau, khuyến khích nhau, nâng đỡ trao đổi kinh nghiệm với nhau mà thôi. Do đó thi cử tôi cho là phản triết học, chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ! Các đề thi của tôi thường chỉ để thăm dò “chất triết” nơi thí sinh, hơn là kiểu tra vốn liếng tích tũy, nên tôi thường cho điểm khá rộng. Trái lại, vào khẩu vấn, tôi mang tiếng là xoay rất ác! Thực sự là vì sinh viên đông, trong niên học ít khi có dịp gặp từng người, nhân dịp khẩu vấn, tôi hỏi cho đến khi biết được mức cao nhất của thí sinh, hầu hết cứ câu cuối là kẹt, nên họ tưởng là sẽ rớt, nhưng vẫn có lúc tôi cho đến 15, 16 trên 20. Tôi nhân dịp khẩu vấn để tìm phát hiện tài năng và tiếp tục góp phần bồi dưỡng họ. Càng ngày tôi càng được các vị trong Hội đồng quản lý viện Đại học tín nhiệm, rồi vào dịp các Linh mục Nghiêm và Đỉnh từ chức, sau khi tìm kiếm người thay thế không ai nhận lời, tôi tiếp tục nhận chức vụ Trưởng ban triết học và Quyền Khoa trưởng khoa Văn. Sở dĩ tôi được giao cho giữ các chức vụ ấy, mặc dù về bằng cấp tôi chỉ có cái Cử nhân - là vì một mặt tôi sống gần như các tu sĩ, tiếp cận các linh mục và tu sĩ; một mặt tôi chỉ là giáo dân, dễ tiếp cận với các giáo sư bên ngoài; cũng có phần vì tôi được cái tính ôn hòa, vui vẻ dễ tạo được sự hài hòa giữa đời sống bạn hữu, thầy trò, trên dưới; dễ dàng xếp những vụ đối kháng căng thẳng nội bộ. Do đó trong nội bộ Viện Đại học Dalat, cũng như trong sự tiếp xúc với các tổ chức khác, như các viện Đại học Huế, Sài gòn, với các dòng, các Đại chủng viện có gởi tu sĩ và chủng sinh đến học, tôi thường có sự tới lui giao tiếp hài hòa, đôi lúc đóng vai trò trung gian. Tuy học vị của tôi chẳng có là bao, nhưng dần dần có một vị trí nào đó trong giới Đại học.
Mặc dầu vậy, nay xét kỹ lại, tôi vẫn thấy tôi không thực sự xem đó như là sứ mạng thực sự của mình, tuy vẫn làm việc hết mình, soạn bài kỹ, giảng dậy tận tâm, trên giao cho việc gì, ai cần giúp đỡ gì, bất cứ mặt nào, từ việc xin hoãn dịch, cho sinh viên mượn tiền ghi danh, cho đến việc tiếp xúc với chính quyền và giáo quyền, tôi đều làm hết sức lực mình để giúp đỡ và phục vụ; nhưng chiều sâu tâm hồn thì vẫn thấy lạc lõng. Sự tận tâm vẫn có đối với từng việc đưa đến chứ không tự mình vạch ra một ý đồ, một chương trình kế hoạch nào với tư cách như đó là sự nghiệp đời mình hướng về một mục đích rõ rệt. Do đó, tôi không để lại một công trình nào cả! Chăm chú từng việc một, có thể nói là gặp gì làm nấy, làm hết mình, nhưng xong việc là thôi, rồi sang việc khác, như kẻ phục dịch bảo gì làm nấy, chứ không có thái độ tự mình làm việc do mình vạch ra theo một dự kiến duy nhất liên tục nào cả. Tận tụy nhưng tài tử, cần mẫn nhưng lung tung lang tang; lại còn cái việc hay lê lết vỉa hè, các quán cà phê, gặp ai cũng chuyện trò, cũng ăn cũng uống, cũng ngủ nghỉ, cả ở bến xe, nhà bếp, khách sạn! lân la với đủ hạng người, kể cả cao bồi, hành khất và gái giang hồ, bất chấp mọi quy định thói thường của xã hội. Ai cũng có thể mời vào tạm trú vài đêm trong phòng mình; nhưng cũng không chủ trương giúp đỡ ai dài hạn: tôi tự xem như gốc cây quán trọ bên đường, khách bộ hành mệt mỏi nghỉ tạm rồi lại ra đi, có khi không bao giờ trở lại. Nói chung, tôi cớ tâm tư của kẻ lữ hành giữa những kẻ cùng lữ hành, như chưa tìm đâu là chỗ ở, việc làm của mình cả, và cứ như là kẻ nghĩ rằng ngày nào đó lại nhổ lều đi cắm nơi khác.
Những lúc làm việc chăm chỉ, say sưa giảng bài, tôi tạm quên đi chứ những lúc một mình thì cảm thấy trống rỗng. Tôi như một kẻ mất mát cái gì mà tìm chưa thấy, hoặc tệ hơn nữa, như kẻ đi tìm cái gì mà mình cũng chưa rõ là tìm gì nữa! Bởi vì, điều tôi vẫn ấp ủ là đời tu trì thì tự cho như là không còn trông mong gì nữa; tôi không phải là “moine défoqué” (tu xuất, vất áo), mà là “moine manqué” (tu hụt), như hụt tàu, lỡ chuyến, thậm chí không có tàu mà đi. Ngoài ra, lại có vấn đề thời thế: năm 1965 về Việt Nam, tôi có cái nhìn sai lầm là nghĩ rằng với cái chết của Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm, là chiến tranh Việt Nam đã đi đến chỗ kết thúc. Ai ngờ! Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi chả mấy phù hợp với bầu không khí xã hội chính trị miền Nam, nên mới lên Dalat. Thấy thi hài các chiến sĩ cách mạng bị giết và xếp bên vệ đường, tôi thổn thức tự hỏi chẳng biết có em hay cháu mình trong số đó không? Nhưng vừa xuống xe bước vào văn phòng nhà trường thì lại được tin một sinh viên cũ bị động viên tử trận. Thật là xót thương đau đớn trăm chiều! Suy cho cùng khi cái đường tu trì đã chết trong tôi, thì mọi việc trần gian đối với tôi như nửa hư nửa thực! Nhất là mọi việc trần gian ở miền Nam, thì tôi vẫn có cái trực giác và linh cảm rằng nó không tồn tại, chỉ là một cái gì mong manh: chẳng những danh lợi, mà ngay những việc tự nó là tốt cũng sẽ “cuốn theo chiều gió” cho đến các công việc văn hoá, xã hội rồi cũng vậy.
Do đó, sức khoẻ và tinh thần tôi kém sút, mặc dầu ăn uống thuốc men đầy đủ. Đời sống thiêng liêng cũng cứ chập chùng lên xuống, có khi gần như bị chìm hẳn, ít ra cũng là tê dại đi, cóng lạnh lại! Rồi cái tâm chứng mà tôi đã đề cập trên kia, tuy không làm tôi gục hẳn, nhưng cũng đặt ra khá nhiều gay go đòi hỏi một sự phấn đấu cố gắng khá cam go. Cuối cùng thì tôi vẫn như chờ đọi một cái gì… Cái gì? Tôi không rõ! Những việc tôi làm bề ngoài tuy xem ra có vẻ thành công, nhưng tận đáy sâu, tôi vẫn thấy như có cái gì đe dọa và bấp bênh, rất bấp bênh. Tôi vẫn như dân Do thái xưa kia, vừa ăn chiên vượt qua vừa khăn gói để lên đường. Mà quả vậy, hành trang tôi hầu như không có gì, ngoài một số sách, phần lớn mang về từ Pháp năm 1965, tài sản lớn nhất của tôi là một máy thu thanh “National” mua lại của người bạn đồng nghiệp với giá rẻ 5.000 đ và một máy chữ hiệu “Ralau” giá 28.000 đ (năm 1973). Vài bộ quần áo (có một đôi bộ tạm gọi là “sang” để mặc những lúc phải dự các nghi lễ, vài đôi giày có một đôi sang để đi lúc dự các lễ). Toàn là mua những áo cũ may lại. Tiền lương thì tiêu vặt, còn lại ai vay mượn đều đáp ứng (thường là vay mượn vĩnh viễn, thậm chí cần tiền còn đi vay người khác để cho mượn!!!). Ngày miền Nam giải phóng, tôi còn mắc nợ gần 300.000 đ lúc ấy, may mà các chủ nợ đã thông cảm xí xoá cho cả! Nhân dịp này, tôi cũng xin có đôi lời minh xác:
Bề ngoài tôi được nhiều người lầm tưởng tôi đi khá xa trên đường nhân đức!!! Không phải thế! Tôi không dính bén danh lợi chẳng qua vì bản tính tự nhiên không ham cái ấy, có lẽ rằng nếu không biết Chúa, tự nhiên tôi cũng thế mà thôi. Hơn nữa, tình hình bất ổn của xã hội càng làm tôi không dính bén, vì tự nhiên biết đó chẳng ra gì và cũng chẳng vững chắc gì: kinh nghiệm về danh lợi của thân phụ tôi đã làm cho tôi sáng mắt theo sự khôn ngoan triết lý tự nhiên, chứ không phải theo tinh thần nghèo khó Tin Mừng đâu. Vả lại, tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, vì theo chương trình của Ban Quản trị Hội Đại học Dalat, thì thế nào khi tuổi già sức yếu tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, có chỗ nương thân, đó là chưa nói có cùng lắm thì gửi thân cho một tu viện, một giáo xứ nào đó cũng là việc dễ. Cách sống của tôi chẳng qua là vừa có tính cách hơi thiếu sự phòng xa của một kẻ quen sống dựa vào một sự bảo đảm nào đó, vừa có tính cách tài tử vừa có pha ít nhiều nét hơi tạm gọi là “philosophe”, thế thôi! Chẳng có gì là cao thượng cả, mà xét ra lại còn thiếu đức cẩn trọng (prudence) nữa! Về mặt giúp người túng ngặt cũng tương tự như vậy. Quả thực, Chúa ban cho tôi có chút ít lòng thương người tự nhiên (nặng về cảm xúc, không chịu được cái cảnh khổ của kẻ khác, na ná như người không đủ can đảm thấy kẻ bị thương, có làm vài việc từ thiện), chứ không phải là thực sự yêu người theo đúng nghĩa của Tin Mừng đâu. Cuối cùng, việc tôi sống độc thân cũng chẳng phải vì đức khiết tịnh gì đâu! Chẳng qua cuộc sống cá nhân, gia đình, xã hội từ năm 1945 cho tôi thấy lập gia đình thì chỉ lại vướng bận trong một hoàn cảnh chung, luôn có sự đe dọa của cái bất ổn, bất trắc; lại thêm cái tâm chứng của tôi, sợ rằng sống đời gia đình sẽ khó có hạnh phúc. Thế thôi, chẳng có gì là hy sinh vì Chúa, vì anh em cả! Mặc dầu về mặt khách quan bên ngoài, nhờ những điểm ấy, tôi có làm được một số việc gọi là tốt, giúp đỡ được một số người nào đó nhưng về giá trị chủ quan cá nhân, thì chẳng là giá trị cao thượng bao nhiêu.
Thế nhưng, đây là sự kỳ diệu của Thiên Chúa, Chúa che mắt không cho ai thấy được sự thực như vậy cả! Cho nên, đối với một số anh chị em, đời sống của tôi đã có tác dụng xây dựng (édifiant), có thể như là gương sáng… Tạ ơn Chúa, nếu có anh chị em nào nhờ vậy mà thêm phần được ảnh hưởng tốt, thì hoàn toàn là việc Chúa làm, Chúa dùng cái bề ngoài của tôi mà giúp đỡ họ, chứ giá trị bề trong của tôi thì hoàn toàn chẳng có gì! Thế mà, ôi, khốn nạn cho tôi! Mặc dầu ý thức như vậy, đôi lúc tôi cũng đã để cho cái “tự phụ” rởm len lỏi vào tâm hồn, tự cho mình là tốt. Thỉnh thoảng lầm tưởng là mình có tinh thần nghèo khó, có lòng yêu người!!! Nghĩ lại mà xấu hổ! Cúi xin Chúa rộng lòng tha thứ cho và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi được luôn ý thức về “sự thực” của mình, đừng để bị huyễn hoặc bởi một số ảnh hưởng tốt nào đó mà Chúa đã làm bằng cách tạo nơi anh chị em cảm tưởng rằng tôi tốt thật! Tôi cũng tự an ủi rằng, nếu Chúa có gây ra nơi anh chị em cái ấn tượng tốt về tôi, thì cũng là điều hay cho họ, và cũng là sáng danh Chúa phần nào, chuộc lại phần nào cái tệ thực sự nơi tôi, của bản thân tôi. Trên đây tôi có ý nói Chúa làm sự kỳ diệu nơi tôi là kỳ diệu như thế, chứ không phải kỳ diệu theo nghĩa tôi thực sự trở nên tốt như một số anh chị em đã lầm tưởng. Kỳ diệu là ở chỗ Chúa dùng một vậy chẳng tốt lành gì, nhưng nhờ cái ấn tượng tốt mà tạo kết quả tốt nơi anh chị em. Quả thật Chúa là Đấng Toàn Năng và thương xót vô cùng! Tạ ơn Ngài muôn đời! Có thể ví như vị Lương Y dùng thuốc rất thường, rất dở, đôi khi là độc dược, mà đem chữa được bệnh! Thật là vô cùng kỳ diệu. Kết quả tốt là do tài “thầy thuốc” của Chúa, chứ cái dược liệu Chúa dùng thì xoàng vẫn là xoàng, xấu vẫn là xấu. Xin minh xác một lần như vậy là dứt khoát. Các anh chị em không được nghe tôi xưng tội, thì không rõ, mà tôi cũng không được phép gây xì-căng-đan bằng cách nói toạc móng heo thực sự bản chất của tôi. Chỉ có được cái này thôi là tôi tự nhiên chứ không đóng kịch, không giả hình, nên gây được ấn tượng tốt là vì tự nhiên, chứ không cố tình giả vờ! Cuộc sống bề ngoài của tôi là thực, còn động lực bề trong thì chỉ là xoàng, được anh chị em có ấn tượng tốt hiểu theo ý tốt thế thôi! Ý Chúa nhiệm mầu sắp đặt như thế, chúng ta cũng thông cảm với nhau, hiểu nhau mà tạ ơn Ngài, cuối cùng là do Ngài thương chúng ta mà ra cả! Mọi sự Chúa dùng đều “mưu ích cho Hội Thánh Ngài”! việc thánh thiện đã đành, việc xoàng cũng vậy, và về một mặt nào đó, việc xấu cũng vậy! Cảm tạ ngợi khen Ngài!
Tuy nhiên, do cái vị trí của tôi trong viện Đại học, dần dần đôi lúc tôi cũng tự nghĩ có thể tôi đã quá làm theo ý riêng, chỉ tìm một sự hào hứng cá nhân trong từng công việc, mà không đặt vấn đề xem Chúa đưa đẩy mình vào vị trí ấy có phải là Ý Ngài muốn mình làm một việc nào đó chăng? Trưởng ban Triết học, Quyền Khoa trưởng; Văn khoa trong thực chất có khác gì khoa trưởng thực thụ, vì giữ chức vụ ấy 3 năm của một Viện Đại học Công giáo, thì không lẽ chỉ làm việc cá nhân, tài tử, phóng khoáng quá mức như vậy được! Đành rằng ngoài những lý do chủ quan đã trình bày trên, thái độ hơi tài tử của tôi cũng có hơi phần nào do tình trạng khách quan của viện Đại học Đà Lạt; Viện này được thành lập năm 1959 dưới thời chính phủ miền Nam Ngô Đình Diệm, do Đức Giám mục Ngô Đình Thục sáng lập. Từ năm 1959 cho đến khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, sự việc thế nào tại Đà Lạt thì tôi không được rõ, nhưng năm 1966 tôi lên Đà lạt, thì thấy nó đang ở tình trạng của một người tướng suýt chết, may mà được cứu sống, và phải khôi phục sức khỏe từ từ với rất nhiều khó khăn (khó khăn đến nỗi có lúc Hội đồng Giám Mục không phải không đặt vấn đề giải thể nó) nguyên do là sau chính biến l963, viện Đại học Đà lạt bị chính phủ miền Nam cho là gắn liền với chế độ Ngô Đình Diệm, nên chỉ có cái nhìn ác cảm. Do dó, vào những năm 63, 64, 65, viện đã gặp rất nhiều trở ngại; ví dụ về tài chính, một số tài sản làm cơ sở tài chánh của viện bị kiềm tỏa (thậm chí có lúc vấn đề tịch biên được đặt ra), ban giáo sư bị hạn chế, nơi ăn ở của sinh viên phần đông là ở các nơi khác đến cũng nan giải. Người ngoài không biết đấy thôi: có lúc linh mục Viện trưởng phải chạy đi mượn tiền để thanh toán tiền lương cho giáo sư và nhân viên. Vì thế, trong bước khởi đầu và phát triển, buộc lòng phải có những chủ trương hơi thiên về “thực tế”! Có lẽ đó là lý do khiến cho từ năm 1965 đến quãng năm 1970, trường chính trị kinh doanh hơi có phần khuếch trương quá mức so với các khoa khác! Trong giai đoạn ấy, ở xã hội miền Nam nổi lên một phong trào đổ xô về những hoạt động tạm gọi là chính trị (các đảng phái và bè nhóm mọc lên như nấm); rồi chính khách đủ loại, đủ cỡ cũng xuất hiện rầm rộ, danh từ “chính trị” rất ăn khách! Đồng thời với sự xâm nhập của các tổ chức người Mỹ vào miền Nam, một nhu cầu về quản lý, quản trị đã bộc phát: hai tiếng “kinh doanh” cũng chẳng kém phần cao giá! trường chính trị Kinh doanh phần nào đáp ứng được một số yêu cầu và thị hiếu, cho nên được các bạn trẻ yêu thích, và có lẽ cũng được chính phủ nhìn nhận là đáp ứng cho một điều mà họ cho là cần thiết; họ bớt phần gay gắt và dần dần có phần khuyến khích. Trong tình thế như vậy, văn khoa và nhất là ban triết học đôi lúc có cảm tưởng như mình là con ghẻ, lập ra cho lấy có, kẻo mà chỉ lo có trường chính trị kinh doanh! Thế nhưng rồi từ từ, văn hóa và ban triết học mỗi ngày tiến lên một ít, và đến quãng năm 1970-1971 thì tương đối có vị trí gần như xứng đáng của nó, nhất là có một số tu sĩ và linh mục dòng có học vị cao, chịu chấp nhận lên cư trú thường xuyên, đứng vào bộ khung chính thức của nhà trường (lúc đó các vị chỉ lên dạy với tư cách là thỉnh giảng, văn khoa chủ yếu là ban triết mới đi tới chỗ tìm vạch ra một hướng hoạt động đặc thù hợp với chức năng của một Viện Đại Học Công giáo, chứ không phải là cái đuôi “dập dèo” cho khoa chính trị kinh doanh, và đón nhận các sinh viên từ nhiều địa phương, hoặc muốn “du học” xa nhà cho thoải mái, hoặc bị kẹt về mặt nào đó (hoãn dịch, lý do chính trị). Đồng thời, sau khi Đại học Đà lạt đào tạo một số sinh viên tốt nghiệp cử nhân văn khoa có tư cách, có khả năng (trong đó một số thuộc đại chủng viện và nhất là Giáo Hoàng Học viện Piô X, có lòng hăng say học hỏi nghiên cứu, dần dần cái ý thức tạo nên một đường hướng tư tưởng nào đó, một đường lối phục vụ văn hóa nào đó, đúng với chức năng của một cơ quan văn hóa Hội Thánh - được đặt ra. Tôi cùng với một số linh mục thường trú tại viện, cộng với một số chủng sinh có trình độ, một số phụ khảo do chính chúng tôi đào tạo ra, đi đến chỗ phác họa một chương trình làm việc, với sự cộng tác của ban giáo sư Giáo Hoàng Học viện và Đại Chủng Viện Đà Lạt. Và đến năm 1974, lúc có sắc chỉ của tòa Thánh, sát nhập khoa Thần học của Giáo Hoàng Học viện vào viện Đại học Đà lạt, thì chúng tôi bắt đầu thực thi những dự phóng đã nung nấu, đúc kết qua mấy năm dò dẫm, thí nghiệm.
Nhưng! Thuyền tình vừa ghé tới nơi! thì sang năm 1975, miền Nam giải phóng! Lịch sử lại sang trang, mà trang sử này có tính cách thật quyết định, đổi đời gần như triệt để, cùng với sự giải thể Viện Đại học tư thục Công giáo Việt Nam, đời tôi vừa đúng 50 tuổi cùng một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Quả như đạo Nho có dạy: “Ngũ thập tri thiên mệnh”- năm tôi 50 tuổi, thiên mệnh mới sáng tỏ đời tôi; từ năm 1949 – l975, 26 năm trời theo Chúa, có lẽ đến năm 1975 tôi mới thoáng thấy ra Chúa muốn gì nơi tôi. Cho nên, trước khi tiếp tục, tôi xin ghi lại ngay rằng: đời tôi, trừ năm l925 là năm tôi sinh ra, thì hai năm 1945 và 1975 là hai năm ĐẠI HỒNG PHÚC cho tôi. Và cũng xin ghi ngay răng Hồng Phúc ấy khởi đầu bằng hình bóng cây thánh giá. Đúng là: LÁ RỤNG VỀ CỘI!
Sau khi đã ở lại Pháp tìm kiếm mọi dạng thức tu trì mà không đi đến kết quả nào, tôi thấy rằng đã đến lúc trở về Việt Nam. Về miền Bắc, như tôi đã trình bày, là điều không thể thực hiện được, thì chỉ còn về miền Nam thôi. Trong tâm tư tôi, đó không phải là một sự lựa chọn chế độ, vì như trên đã nói, đối với Hội Thánh Việt Nam, trong lòng dân lộc Việt Nam, trên đất nước Việt Nam này, thì vấn đề Nam-Bắc, hai chế độ là vấn đề trần thế. Ở đâu cũng là con người với những mâu thuẫn, có khía cạnh cao thượng, có khía cạnh tầm thường, thậm chí có khía cạnh tồi tệ, cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, là Hội Thánh là thừa tác viên, phải có mặt ở mọi nơi mà phục vụ. Về Nam năm 1965 chỉ là do có điều kiện thực tế thực hiện được, chứ nếu được lựa chọn thì tôi đã về Bắc với giáo dân Vinh là nơi tôi đã rời bỏ để theo ơn gọi đi tu, nay hoàn tục thì về chỗ xuất phát, về nơi nguyên quán, về nơi có gia đình mà năm 1950 tôi rời bỏ cũng chỉ vì lý do tu hành. Vì đối với tôi, việc chính của đời tôi là thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ trong lòng Hội Thánh, mà Hội Thánh thì phải có mặt bất cứ đâu! Trên thực tế, tôi đã về Nam ấy là vì do có điều kiện thực hiện được, còn Vinh là nơi nguyên quán xuất phát, chứ yếu tố chế độ thì không ảnh hưởng chút nào. Ở đâu tôi cũng chỉ phục vụ trong lòng Hội Thánh mà thôi. Tôi là kẻ chèo thuyền, thuyền là Hội Thánh, còn chế độ chỉ là con sông cho thuyền chèo đi qua mà thôi: nước sâu thì chèo, nước cạn thì chống, thì nhảy xuống đẩy, thuận gió thì căng buồm. Tôi không chọn sông nào cả chỉ tùy ý Chúa đưa vào sông nào thì tùy tiện góp phần nhỏ nhen, là giúp cho thuyền đi tới đích. Làm chứng về Thiên Chúa Tình Yêu. Tin ở Sự Quan Phòng phù trợ của Ngài, chỉ sợ làm trái ý Ngài mà thôi.
Thế là cuối năm 1965, tôi trở về miền Nam Việt Nam. Lúc ấy anh Viện tôi cũng đã về miền Bắc năm 1964. Có điều buồn cười là một số anh em ở miền Bắc nghi ngờ cho tôi là người của anh Viện tôi gài trở về miền Nam với nhiệm vụ gì đó do miền Bắc giao cho! Một vài bạn cũ giữ chức vụ cao ở miền Nam tránh né không muốn gặp lại tôi, mãi đến khi thấy tôi phục vụ cho Hội Thánh, mới hết nghi ngờ cho tôi là Cộng sản nằm vùng (có một người thú thật với tôi như vậy). Và đó là lý do khiến cho anh Nguyễn Văn Trung muốn đưa tôi vào dậy lại Đại học Văn khoa Sài Gòn mà không được. Tôi về Việt Nam, lúc đầu có ý sẽ dạy học lại một trường tư thục Công giáo do các Linh mục thuộc địa phận Vinh di cư phụ trách. Tôi có nghĩ đến trường trung học Chính Tâm ở Phan Thiết. Thế nhưng bấy giờ anh chị em trí thức Công giáo ở Sài gòn có ít nhiều sinh hoạt. Linh mục Nguyễn Bình An khuyên tôi ở lại Sài gòn, xem xét tình hình để nếu có thể, thì cùng với các anh chị em ấy làm việc, thành ra tôi nhận lời dạy triết học chương trình Pháp, tại trường các nữ tu dòng Phaolô ở đường Cường Để. Một mặt tôi trao đổi đi lại với các anh em hội trí thức Công giáo, một mặt thì gặp gỡ trao đổi với một vài anh em tìm một dạng thức tu ở giữa đời. Nhưng sau một năm ở Sài gòn, tôi thấy đều chẳng đem lại kết quả gì. Đầu năm 1966, Linh mục Nguyễn Văn Lập, viện trưởng viện Đại học Đà Lạt đề nghị tôi lên làm việc với ngài. Thế là niên học 66-67 tôi lên Dalat nhận dạy một số giờ triết tại Văn khoa Đại học Dalat, ăn ở ngay trong trường với cộng đoàn giáo ban gồm các Linh mục và tu sĩ. Bấy giờ khoa trưởng Văn khoa là Lm. Lê Văn Lý, trưởng ban triết học là Lm. Lê Tôn Nghiêm. Tôi không phải là Linh mục hay tu sĩ gì cả, nhưng tôi sống với cộng đoàn giáo ban tại Đại học cũng gần như một nhà tu: chỉ lo chu toàn bổn phận chức nghiệp dạy học. Tôi ít lưu tâm đến vấn đề chính trị bên ngoài, trao đổi với anh em đồng nghiệp cũng chỉ ở mặt chuyên môn dạy học và văn hoá mà thôi. Những năm đầu, Đại học Đà lạt cũng gần như chỉ là chỗ tôi dung thân trong cuộc sống tạm gọi là “lạc bước vào Nam” do sự trật đường rầy trên con đường tìm một dạng thức tu trì mà phải bị ném ra giữa cuộc đời thế tục, chứ lòng tôi chẳng hề dính bén về mặt danh lợi và tình duyên. Cuộc sống của tôi có chăng như là một ký túc viên cao cấp: chẳng sắm sửa gì chẳng có ý định gây dựng gì cả. Ai giao việc gì thì làm việc ấy lương bổng đưa bao nhiêu nhận bấy nhiêu, tiêu bấy nhiêu. Ai cần thì cho mượn, có thì trả, không cũng chẳng đòi (nhất là một số sinh viên nghèo), chẳng dành dụm gì cả. Có khi còn phải vay mượn thêm để cho những người cần túng tìm đến. Tôi cũng không chủ trương giúp đỡ ai lâu dài, vì không muốn ràng buộc ơn nghĩa với ai. Tôi tự xem như một quán nước bên đường, thấy khách bộ hành đi ngang qua, thì mời uống bát nước chè xanh, ăn củ khoai lang qua loa thôi! Hết đợt sinh viên này qua đợt sinh viên khác, như vậy ai nhớ trở lại thăm thì vui vẻ, ai đi thẳng thì cũng không nhớ là ai! Tôi dạy học tương đối có kết quả, dần dần được các đồng nghiệp chấp nhận như là đủ trình độ, và được mời đi dạy một số giờ tại Đại học Sài gòn và Đại học Huế. Tôi dạy học tương đối có kết quả, tuy là tận tâm, nhưng hơi “tài tử”. Tự xem mình như là một phụ khảo, một trưởng tràng giúp đỡ anh em sinh viên, chứ không tự coi như là một giáo sư, bởi vì về học vị tôi mới chỉ có bằng Cử nhân mà thôi. Đó là lý do khiến tôi không có giáo trình hay cho in sách vở báo chí gì cả. Bài giảng cho sinh viên, có ai ghi chép lại mà muốn nhân lên phục vụ anh em cùng lớp, tôi chỉ sửa chữa vài chỗ, rồi tùy ý họ làm gì thì làm.
Giữa hàng ngũ sinh viên, tôi như một người anh cả hơn là một vị giáo sư, do đó tương quan rất gần gũi, thân mật rất đậm tình người. Sinh viên vào phòng tôi trọ đêm, hay là ngược lại, tôi ngủ tại phòng trọ của họ là thường. Ngoài giờ học thày trò quây quần quanh quán phở, cà phê cũng là thường, không tổ chức thường xuyên, nhưng tôi cố gắng thực hiện cái cung cách của con người cùng với anh em trẻ đi tìm Chân Lý, như tôi học được nơi các thày ở Sorbonne, chứ giáo trình của tôi thì cũng xoàng thôi. Tôi có quan niệm rằng: không có ai dạy triết cho ai, không có ai học triết với ai được cả! Chỉ là kẻ trước người sau trên đường đi tìm triết lý cho mình, do mình; gặp nhau thì giúp đỡ nhau, khuyến khích nhau, nâng đỡ trao đổi kinh nghiệm với nhau mà thôi. Do đó thi cử tôi cho là phản triết học, chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ! Các đề thi của tôi thường chỉ để thăm dò “chất triết” nơi thí sinh, hơn là kiểu tra vốn liếng tích tũy, nên tôi thường cho điểm khá rộng. Trái lại, vào khẩu vấn, tôi mang tiếng là xoay rất ác! Thực sự là vì sinh viên đông, trong niên học ít khi có dịp gặp từng người, nhân dịp khẩu vấn, tôi hỏi cho đến khi biết được mức cao nhất của thí sinh, hầu hết cứ câu cuối là kẹt, nên họ tưởng là sẽ rớt, nhưng vẫn có lúc tôi cho đến 15, 16 trên 20. Tôi nhân dịp khẩu vấn để tìm phát hiện tài năng và tiếp tục góp phần bồi dưỡng họ. Càng ngày tôi càng được các vị trong Hội đồng quản lý viện Đại học tín nhiệm, rồi vào dịp các Linh mục Nghiêm và Đỉnh từ chức, sau khi tìm kiếm người thay thế không ai nhận lời, tôi tiếp tục nhận chức vụ Trưởng ban triết học và Quyền Khoa trưởng khoa Văn. Sở dĩ tôi được giao cho giữ các chức vụ ấy, mặc dù về bằng cấp tôi chỉ có cái Cử nhân - là vì một mặt tôi sống gần như các tu sĩ, tiếp cận các linh mục và tu sĩ; một mặt tôi chỉ là giáo dân, dễ tiếp cận với các giáo sư bên ngoài; cũng có phần vì tôi được cái tính ôn hòa, vui vẻ dễ tạo được sự hài hòa giữa đời sống bạn hữu, thầy trò, trên dưới; dễ dàng xếp những vụ đối kháng căng thẳng nội bộ. Do đó trong nội bộ Viện Đại học Dalat, cũng như trong sự tiếp xúc với các tổ chức khác, như các viện Đại học Huế, Sài gòn, với các dòng, các Đại chủng viện có gởi tu sĩ và chủng sinh đến học, tôi thường có sự tới lui giao tiếp hài hòa, đôi lúc đóng vai trò trung gian. Tuy học vị của tôi chẳng có là bao, nhưng dần dần có một vị trí nào đó trong giới Đại học.
Mặc dầu vậy, nay xét kỹ lại, tôi vẫn thấy tôi không thực sự xem đó như là sứ mạng thực sự của mình, tuy vẫn làm việc hết mình, soạn bài kỹ, giảng dậy tận tâm, trên giao cho việc gì, ai cần giúp đỡ gì, bất cứ mặt nào, từ việc xin hoãn dịch, cho sinh viên mượn tiền ghi danh, cho đến việc tiếp xúc với chính quyền và giáo quyền, tôi đều làm hết sức lực mình để giúp đỡ và phục vụ; nhưng chiều sâu tâm hồn thì vẫn thấy lạc lõng. Sự tận tâm vẫn có đối với từng việc đưa đến chứ không tự mình vạch ra một ý đồ, một chương trình kế hoạch nào với tư cách như đó là sự nghiệp đời mình hướng về một mục đích rõ rệt. Do đó, tôi không để lại một công trình nào cả! Chăm chú từng việc một, có thể nói là gặp gì làm nấy, làm hết mình, nhưng xong việc là thôi, rồi sang việc khác, như kẻ phục dịch bảo gì làm nấy, chứ không có thái độ tự mình làm việc do mình vạch ra theo một dự kiến duy nhất liên tục nào cả. Tận tụy nhưng tài tử, cần mẫn nhưng lung tung lang tang; lại còn cái việc hay lê lết vỉa hè, các quán cà phê, gặp ai cũng chuyện trò, cũng ăn cũng uống, cũng ngủ nghỉ, cả ở bến xe, nhà bếp, khách sạn! lân la với đủ hạng người, kể cả cao bồi, hành khất và gái giang hồ, bất chấp mọi quy định thói thường của xã hội. Ai cũng có thể mời vào tạm trú vài đêm trong phòng mình; nhưng cũng không chủ trương giúp đỡ ai dài hạn: tôi tự xem như gốc cây quán trọ bên đường, khách bộ hành mệt mỏi nghỉ tạm rồi lại ra đi, có khi không bao giờ trở lại. Nói chung, tôi cớ tâm tư của kẻ lữ hành giữa những kẻ cùng lữ hành, như chưa tìm đâu là chỗ ở, việc làm của mình cả, và cứ như là kẻ nghĩ rằng ngày nào đó lại nhổ lều đi cắm nơi khác.
Những lúc làm việc chăm chỉ, say sưa giảng bài, tôi tạm quên đi chứ những lúc một mình thì cảm thấy trống rỗng. Tôi như một kẻ mất mát cái gì mà tìm chưa thấy, hoặc tệ hơn nữa, như kẻ đi tìm cái gì mà mình cũng chưa rõ là tìm gì nữa! Bởi vì, điều tôi vẫn ấp ủ là đời tu trì thì tự cho như là không còn trông mong gì nữa; tôi không phải là “moine défoqué” (tu xuất, vất áo), mà là “moine manqué” (tu hụt), như hụt tàu, lỡ chuyến, thậm chí không có tàu mà đi. Ngoài ra, lại có vấn đề thời thế: năm 1965 về Việt Nam, tôi có cái nhìn sai lầm là nghĩ rằng với cái chết của Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm, là chiến tranh Việt Nam đã đi đến chỗ kết thúc. Ai ngờ! Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi chả mấy phù hợp với bầu không khí xã hội chính trị miền Nam, nên mới lên Dalat. Thấy thi hài các chiến sĩ cách mạng bị giết và xếp bên vệ đường, tôi thổn thức tự hỏi chẳng biết có em hay cháu mình trong số đó không? Nhưng vừa xuống xe bước vào văn phòng nhà trường thì lại được tin một sinh viên cũ bị động viên tử trận. Thật là xót thương đau đớn trăm chiều! Suy cho cùng khi cái đường tu trì đã chết trong tôi, thì mọi việc trần gian đối với tôi như nửa hư nửa thực! Nhất là mọi việc trần gian ở miền Nam, thì tôi vẫn có cái trực giác và linh cảm rằng nó không tồn tại, chỉ là một cái gì mong manh: chẳng những danh lợi, mà ngay những việc tự nó là tốt cũng sẽ “cuốn theo chiều gió” cho đến các công việc văn hoá, xã hội rồi cũng vậy.
Do đó, sức khoẻ và tinh thần tôi kém sút, mặc dầu ăn uống thuốc men đầy đủ. Đời sống thiêng liêng cũng cứ chập chùng lên xuống, có khi gần như bị chìm hẳn, ít ra cũng là tê dại đi, cóng lạnh lại! Rồi cái tâm chứng mà tôi đã đề cập trên kia, tuy không làm tôi gục hẳn, nhưng cũng đặt ra khá nhiều gay go đòi hỏi một sự phấn đấu cố gắng khá cam go. Cuối cùng thì tôi vẫn như chờ đọi một cái gì… Cái gì? Tôi không rõ! Những việc tôi làm bề ngoài tuy xem ra có vẻ thành công, nhưng tận đáy sâu, tôi vẫn thấy như có cái gì đe dọa và bấp bênh, rất bấp bênh. Tôi vẫn như dân Do thái xưa kia, vừa ăn chiên vượt qua vừa khăn gói để lên đường. Mà quả vậy, hành trang tôi hầu như không có gì, ngoài một số sách, phần lớn mang về từ Pháp năm 1965, tài sản lớn nhất của tôi là một máy thu thanh “National” mua lại của người bạn đồng nghiệp với giá rẻ 5.000 đ và một máy chữ hiệu “Ralau” giá 28.000 đ (năm 1973). Vài bộ quần áo (có một đôi bộ tạm gọi là “sang” để mặc những lúc phải dự các nghi lễ, vài đôi giày có một đôi sang để đi lúc dự các lễ). Toàn là mua những áo cũ may lại. Tiền lương thì tiêu vặt, còn lại ai vay mượn đều đáp ứng (thường là vay mượn vĩnh viễn, thậm chí cần tiền còn đi vay người khác để cho mượn!!!). Ngày miền Nam giải phóng, tôi còn mắc nợ gần 300.000 đ lúc ấy, may mà các chủ nợ đã thông cảm xí xoá cho cả! Nhân dịp này, tôi cũng xin có đôi lời minh xác:
Bề ngoài tôi được nhiều người lầm tưởng tôi đi khá xa trên đường nhân đức!!! Không phải thế! Tôi không dính bén danh lợi chẳng qua vì bản tính tự nhiên không ham cái ấy, có lẽ rằng nếu không biết Chúa, tự nhiên tôi cũng thế mà thôi. Hơn nữa, tình hình bất ổn của xã hội càng làm tôi không dính bén, vì tự nhiên biết đó chẳng ra gì và cũng chẳng vững chắc gì: kinh nghiệm về danh lợi của thân phụ tôi đã làm cho tôi sáng mắt theo sự khôn ngoan triết lý tự nhiên, chứ không phải theo tinh thần nghèo khó Tin Mừng đâu. Vả lại, tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, vì theo chương trình của Ban Quản trị Hội Đại học Dalat, thì thế nào khi tuổi già sức yếu tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, có chỗ nương thân, đó là chưa nói có cùng lắm thì gửi thân cho một tu viện, một giáo xứ nào đó cũng là việc dễ. Cách sống của tôi chẳng qua là vừa có tính cách hơi thiếu sự phòng xa của một kẻ quen sống dựa vào một sự bảo đảm nào đó, vừa có tính cách tài tử vừa có pha ít nhiều nét hơi tạm gọi là “philosophe”, thế thôi! Chẳng có gì là cao thượng cả, mà xét ra lại còn thiếu đức cẩn trọng (prudence) nữa! Về mặt giúp người túng ngặt cũng tương tự như vậy. Quả thực, Chúa ban cho tôi có chút ít lòng thương người tự nhiên (nặng về cảm xúc, không chịu được cái cảnh khổ của kẻ khác, na ná như người không đủ can đảm thấy kẻ bị thương, có làm vài việc từ thiện), chứ không phải là thực sự yêu người theo đúng nghĩa của Tin Mừng đâu. Cuối cùng, việc tôi sống độc thân cũng chẳng phải vì đức khiết tịnh gì đâu! Chẳng qua cuộc sống cá nhân, gia đình, xã hội từ năm 1945 cho tôi thấy lập gia đình thì chỉ lại vướng bận trong một hoàn cảnh chung, luôn có sự đe dọa của cái bất ổn, bất trắc; lại thêm cái tâm chứng của tôi, sợ rằng sống đời gia đình sẽ khó có hạnh phúc. Thế thôi, chẳng có gì là hy sinh vì Chúa, vì anh em cả! Mặc dầu về mặt khách quan bên ngoài, nhờ những điểm ấy, tôi có làm được một số việc gọi là tốt, giúp đỡ được một số người nào đó nhưng về giá trị chủ quan cá nhân, thì chẳng là giá trị cao thượng bao nhiêu.
Thế nhưng, đây là sự kỳ diệu của Thiên Chúa, Chúa che mắt không cho ai thấy được sự thực như vậy cả! Cho nên, đối với một số anh chị em, đời sống của tôi đã có tác dụng xây dựng (édifiant), có thể như là gương sáng… Tạ ơn Chúa, nếu có anh chị em nào nhờ vậy mà thêm phần được ảnh hưởng tốt, thì hoàn toàn là việc Chúa làm, Chúa dùng cái bề ngoài của tôi mà giúp đỡ họ, chứ giá trị bề trong của tôi thì hoàn toàn chẳng có gì! Thế mà, ôi, khốn nạn cho tôi! Mặc dầu ý thức như vậy, đôi lúc tôi cũng đã để cho cái “tự phụ” rởm len lỏi vào tâm hồn, tự cho mình là tốt. Thỉnh thoảng lầm tưởng là mình có tinh thần nghèo khó, có lòng yêu người!!! Nghĩ lại mà xấu hổ! Cúi xin Chúa rộng lòng tha thứ cho và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi được luôn ý thức về “sự thực” của mình, đừng để bị huyễn hoặc bởi một số ảnh hưởng tốt nào đó mà Chúa đã làm bằng cách tạo nơi anh chị em cảm tưởng rằng tôi tốt thật! Tôi cũng tự an ủi rằng, nếu Chúa có gây ra nơi anh chị em cái ấn tượng tốt về tôi, thì cũng là điều hay cho họ, và cũng là sáng danh Chúa phần nào, chuộc lại phần nào cái tệ thực sự nơi tôi, của bản thân tôi. Trên đây tôi có ý nói Chúa làm sự kỳ diệu nơi tôi là kỳ diệu như thế, chứ không phải kỳ diệu theo nghĩa tôi thực sự trở nên tốt như một số anh chị em đã lầm tưởng. Kỳ diệu là ở chỗ Chúa dùng một vậy chẳng tốt lành gì, nhưng nhờ cái ấn tượng tốt mà tạo kết quả tốt nơi anh chị em. Quả thật Chúa là Đấng Toàn Năng và thương xót vô cùng! Tạ ơn Ngài muôn đời! Có thể ví như vị Lương Y dùng thuốc rất thường, rất dở, đôi khi là độc dược, mà đem chữa được bệnh! Thật là vô cùng kỳ diệu. Kết quả tốt là do tài “thầy thuốc” của Chúa, chứ cái dược liệu Chúa dùng thì xoàng vẫn là xoàng, xấu vẫn là xấu. Xin minh xác một lần như vậy là dứt khoát. Các anh chị em không được nghe tôi xưng tội, thì không rõ, mà tôi cũng không được phép gây xì-căng-đan bằng cách nói toạc móng heo thực sự bản chất của tôi. Chỉ có được cái này thôi là tôi tự nhiên chứ không đóng kịch, không giả hình, nên gây được ấn tượng tốt là vì tự nhiên, chứ không cố tình giả vờ! Cuộc sống bề ngoài của tôi là thực, còn động lực bề trong thì chỉ là xoàng, được anh chị em có ấn tượng tốt hiểu theo ý tốt thế thôi! Ý Chúa nhiệm mầu sắp đặt như thế, chúng ta cũng thông cảm với nhau, hiểu nhau mà tạ ơn Ngài, cuối cùng là do Ngài thương chúng ta mà ra cả! Mọi sự Chúa dùng đều “mưu ích cho Hội Thánh Ngài”! việc thánh thiện đã đành, việc xoàng cũng vậy, và về một mặt nào đó, việc xấu cũng vậy! Cảm tạ ngợi khen Ngài!
Tuy nhiên, do cái vị trí của tôi trong viện Đại học, dần dần đôi lúc tôi cũng tự nghĩ có thể tôi đã quá làm theo ý riêng, chỉ tìm một sự hào hứng cá nhân trong từng công việc, mà không đặt vấn đề xem Chúa đưa đẩy mình vào vị trí ấy có phải là Ý Ngài muốn mình làm một việc nào đó chăng? Trưởng ban Triết học, Quyền Khoa trưởng; Văn khoa trong thực chất có khác gì khoa trưởng thực thụ, vì giữ chức vụ ấy 3 năm của một Viện Đại học Công giáo, thì không lẽ chỉ làm việc cá nhân, tài tử, phóng khoáng quá mức như vậy được! Đành rằng ngoài những lý do chủ quan đã trình bày trên, thái độ hơi tài tử của tôi cũng có hơi phần nào do tình trạng khách quan của viện Đại học Đà Lạt; Viện này được thành lập năm 1959 dưới thời chính phủ miền Nam Ngô Đình Diệm, do Đức Giám mục Ngô Đình Thục sáng lập. Từ năm 1959 cho đến khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, sự việc thế nào tại Đà Lạt thì tôi không được rõ, nhưng năm 1966 tôi lên Đà lạt, thì thấy nó đang ở tình trạng của một người tướng suýt chết, may mà được cứu sống, và phải khôi phục sức khỏe từ từ với rất nhiều khó khăn (khó khăn đến nỗi có lúc Hội đồng Giám Mục không phải không đặt vấn đề giải thể nó) nguyên do là sau chính biến l963, viện Đại học Đà lạt bị chính phủ miền Nam cho là gắn liền với chế độ Ngô Đình Diệm, nên chỉ có cái nhìn ác cảm. Do dó, vào những năm 63, 64, 65, viện đã gặp rất nhiều trở ngại; ví dụ về tài chính, một số tài sản làm cơ sở tài chánh của viện bị kiềm tỏa (thậm chí có lúc vấn đề tịch biên được đặt ra), ban giáo sư bị hạn chế, nơi ăn ở của sinh viên phần đông là ở các nơi khác đến cũng nan giải. Người ngoài không biết đấy thôi: có lúc linh mục Viện trưởng phải chạy đi mượn tiền để thanh toán tiền lương cho giáo sư và nhân viên. Vì thế, trong bước khởi đầu và phát triển, buộc lòng phải có những chủ trương hơi thiên về “thực tế”! Có lẽ đó là lý do khiến cho từ năm 1965 đến quãng năm 1970, trường chính trị kinh doanh hơi có phần khuếch trương quá mức so với các khoa khác! Trong giai đoạn ấy, ở xã hội miền Nam nổi lên một phong trào đổ xô về những hoạt động tạm gọi là chính trị (các đảng phái và bè nhóm mọc lên như nấm); rồi chính khách đủ loại, đủ cỡ cũng xuất hiện rầm rộ, danh từ “chính trị” rất ăn khách! Đồng thời với sự xâm nhập của các tổ chức người Mỹ vào miền Nam, một nhu cầu về quản lý, quản trị đã bộc phát: hai tiếng “kinh doanh” cũng chẳng kém phần cao giá! trường chính trị Kinh doanh phần nào đáp ứng được một số yêu cầu và thị hiếu, cho nên được các bạn trẻ yêu thích, và có lẽ cũng được chính phủ nhìn nhận là đáp ứng cho một điều mà họ cho là cần thiết; họ bớt phần gay gắt và dần dần có phần khuyến khích. Trong tình thế như vậy, văn khoa và nhất là ban triết học đôi lúc có cảm tưởng như mình là con ghẻ, lập ra cho lấy có, kẻo mà chỉ lo có trường chính trị kinh doanh! Thế nhưng rồi từ từ, văn hóa và ban triết học mỗi ngày tiến lên một ít, và đến quãng năm 1970-1971 thì tương đối có vị trí gần như xứng đáng của nó, nhất là có một số tu sĩ và linh mục dòng có học vị cao, chịu chấp nhận lên cư trú thường xuyên, đứng vào bộ khung chính thức của nhà trường (lúc đó các vị chỉ lên dạy với tư cách là thỉnh giảng, văn khoa chủ yếu là ban triết mới đi tới chỗ tìm vạch ra một hướng hoạt động đặc thù hợp với chức năng của một Viện Đại Học Công giáo, chứ không phải là cái đuôi “dập dèo” cho khoa chính trị kinh doanh, và đón nhận các sinh viên từ nhiều địa phương, hoặc muốn “du học” xa nhà cho thoải mái, hoặc bị kẹt về mặt nào đó (hoãn dịch, lý do chính trị). Đồng thời, sau khi Đại học Đà lạt đào tạo một số sinh viên tốt nghiệp cử nhân văn khoa có tư cách, có khả năng (trong đó một số thuộc đại chủng viện và nhất là Giáo Hoàng Học viện Piô X, có lòng hăng say học hỏi nghiên cứu, dần dần cái ý thức tạo nên một đường hướng tư tưởng nào đó, một đường lối phục vụ văn hóa nào đó, đúng với chức năng của một cơ quan văn hóa Hội Thánh - được đặt ra. Tôi cùng với một số linh mục thường trú tại viện, cộng với một số chủng sinh có trình độ, một số phụ khảo do chính chúng tôi đào tạo ra, đi đến chỗ phác họa một chương trình làm việc, với sự cộng tác của ban giáo sư Giáo Hoàng Học viện và Đại Chủng Viện Đà Lạt. Và đến năm 1974, lúc có sắc chỉ của tòa Thánh, sát nhập khoa Thần học của Giáo Hoàng Học viện vào viện Đại học Đà lạt, thì chúng tôi bắt đầu thực thi những dự phóng đã nung nấu, đúc kết qua mấy năm dò dẫm, thí nghiệm.
Nhưng! Thuyền tình vừa ghé tới nơi! thì sang năm 1975, miền Nam giải phóng! Lịch sử lại sang trang, mà trang sử này có tính cách thật quyết định, đổi đời gần như triệt để, cùng với sự giải thể Viện Đại học tư thục Công giáo Việt Nam, đời tôi vừa đúng 50 tuổi cùng một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Quả như đạo Nho có dạy: “Ngũ thập tri thiên mệnh”- năm tôi 50 tuổi, thiên mệnh mới sáng tỏ đời tôi; từ năm 1949 – l975, 26 năm trời theo Chúa, có lẽ đến năm 1975 tôi mới thoáng thấy ra Chúa muốn gì nơi tôi. Cho nên, trước khi tiếp tục, tôi xin ghi lại ngay rằng: đời tôi, trừ năm l925 là năm tôi sinh ra, thì hai năm 1945 và 1975 là hai năm ĐẠI HỒNG PHÚC cho tôi. Và cũng xin ghi ngay răng Hồng Phúc ấy khởi đầu bằng hình bóng cây thánh giá. Đúng là: LÁ RỤNG VỀ CỘI!
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |