Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
8. ĐỨC GIÊSU TRONG HỘI THÁNH
Thế là sau khi đậu tú tài II vào tháng 9 năm 1946, tôi từ giã Huế về quê, với tâm niệm mình là một phật tử có ý nguyện là mình sẽ xuất gia khi gặp dịp thuận tiện, lúc ấy, tác phẩm mà tôi say sưa đọc đi đọc lại rất nhiều là cuốn “Ánh Đạo Vàng” của ông Võ Đình Cường, một Phật tử nổi tiếng ở Huế. Vị sư mà tôi quí trọng nhất là sư Thích Mật Thể, phong cách của Ngài dịu hiền, luôn như tỏa ra một cái gì làm cho kẻ đến gần thấy được đón nhận với một lòng từ bi đôn hậu.
Trên đường về quê tôi ghé thăm anh Vương Đình Lương, lúc ấy làm hiệu trưởng trường trung học tư thục do Linh mục Vương Đình Ái làm quản hạt Nghĩa Yên quản lý, tại huyện Đức Thọ. Ngôi trường khá đồ sộ so với điều kiện của một huyện lỵ thời đó. Trước năm 45, tên trường là Saint Joseph, sau đổi là Đậu Quang Lĩnh, tên một vị Linh mục có tham gia phong trào cách mạng với cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp kết án giam tù ở Côn Đảo. Anh Vương Đình Lương mời tôi cộng tác với tư cách giáo viên phụ trách môn việt văn. Thế là tôi trở về với môi trường tư thục Công giáo, phảng phất bầu không khí như trường Thiên Hựu, nhưng với tư cách là một giáo viên. Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh. Tôi dạy học có kết quả tốt, học sinh yêu mến, bạn đồng nghiệp cũng dành cho nhiều thiện cảm. Tôi lưu trú ngay lại trường, và thường đi lại với các gia đình Công giáo thuộc hai xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh là làng của anh Vương Đình Lương, tôi vẫn thỉnh thoảng gặp lại anh Phan Văn Đanh và lui tới với một vài Phật tử, nhất là gia đình ông Lê Hữu Tấn. Ông Tấn có một người em trai lấy người chị họ tôi, con một bà cô có một người chú lấy một bà cô khác của tôi, thân sinh của ông Tấn là cụ Cử Dư, hình như đậu cùng khóa thi hương với phân phụ tôi. Gia đình Lê Hữu là con cháu của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trong thời gian hai niên học 46 - 47, dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh, tôi hình như sống trong môi trường của một thế giới thuần túy Công giáo. Ngoài các sinh hoạt chức nghiệp của trường, tôi chỉ đi lại với các Linh mục, các đại chủng sinh giúp xứ tại nhà xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh, nhất là với gia đình anh Vương Đình Lương. Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi. Vì sao? Sau cách mạng 45 cái nền văn hóa của gia đình tôi và của làng xóm cứ dần dần bị quét sạch. Sinh hoạt ngoài xã hội tuy có sôi nổi đầy hoạt động nhưng lại không thấy thích hợp, vì sinh hoạt ấy quá thiên về đoàn thể bên ngoài, quá nặng nề về chính trị, hình như đời sống của bản thân bị hạn chế, không triển nở nặng nề tập thể hơn là tương giao liên-ngã-vị. Chỉ có tình đồng chí mà thiếu tình bạn, hiểu theo nghĩa chân tình riêng tư mật thiết (intimité) chìm sâu bên trong. Còn cuộc sống gia đình thì như một sự khô héo nào đó, vì những giá trị được tôn trọng theo truyền thống xưa kia như bị héo mòn dần. Sau những buổi sinh hoạt có tính cách cao trào, về gia đình như thể có một cái gì như một thời hấp hối ủ dột thê lương! Tình cha mẹ, anh chị em yêu thương thì vẫn có cái gì như cây đại thụ đến thời héo rũ chết, thương nhau mà chỉ biết im lặng nhìn nhau bùi ngùi.
Trái lại, tại các xóm đạo, trong các gia đình Công giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên (đại diện: vicaire, thừa tác viên: ministre, phục vụ, phục dịch viên: do chữ ministrare). Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm (foyer) ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá.
Về mặt này, tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa. Đặc tính này ta thấy rất rõ khi nghiên cứu các luật dòng tu và qui chế của các dòng tu Công giáo. Ví dụ: một mặt thì tu sĩ vâng lời bề trên cộng đoàn, một mặt thì hàng năm có cuộc kinh lược của vị đại diện bề trên hoặc của bề trên tổng quyền gặp riêng từng tu sĩ, hoàn toàn bảo mật không ai có quyền xâm phạm. Các thể thức bầu Giáo Hoàng và tuyển chọn Giám Mục cũng vậy. Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ. Ví dụ tôi rất thích tương quan giữa tôi với vị Giáo Hoàng, vì một mặt nó có cái gì làm thỏa mãn lòng khao khát trung quân hiếu tử của truyền thống Nho giáo trong mạch máu của tôi, một mặt thỏa mãn cái tinh thần dân chủ mà tôi hấp thụ được từ nền học vấn của Pháp. Còn mẫu mực xã hội sản xuất tập thể thì có lẽ không đâu bằng ở dòng tu. Ở đó, sau các giờ sinh hoạt tập thể với kỉ luật hết sức chặt chẽ, mọi tu sĩ lại trở về phòng riêng hoặc quì chầu Thánh Thể, chìm sâu mất hút vào đời tĩnh nguyện nội tâm dường như trên cả vũ trụ chỉ có một mình mình đối mặt với Thiên Chúa chẳng khác nào một vị ẩn sĩ độc tu.
Và ngược lại trong giờ kinh nguyện thì bất cứ vị ẩn sĩ độc tu nào cũng thấy mình như tan biến mất trong Nhiệm thể Chúa Kitô, nơi mà hàng trăm triệu người trở nên như một (kể cả sự nên một với tổ phụ Abraham, cho đến các tín hữu cuối cùng trước ngày tận thế, có thể vài chục, vài trăm triệu năm về sau).
Nhưng điều quí giá nhất mà tôi, dần dần đã khám phá được nơi những cá nhân cũng như các cộng đoàn Công giáo, không phải là những giá trị bình diện con người trong các khía cạnh khác nhau. Những giá trị ấy thực ra có những nét độc đáo, nhưng ở nơi những người và cộng đoàn Công giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường! Mà xét về một vài khía cạnh nào đó, đôi khi có thể còn kém thua những người, nn cộng đoàn khác. Ví dụ: nói về phương diện hiền hòa, phần đông các vị sư đều hơn các Linh mục; về mặt nghiêm túc mực thước, có lẽ các vị túc nho hơn các Linh mục. Đi xa hơn, có thể nói Đức Giêsu chỉ dạy “yêu người”, chứ Đức Thích Ca, với giới luật cấm sát sinh, còn dạy phải “thương yêu bất cứ sinh vật nào”. Đôi khi có thể nói người Công giáo (ít ra là người Công giáo Việt nam) nói chung hơi thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho giáo vv… Do đó theo ý riêng tôi, điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công giáo nắm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô. Làm chứng bằng những lời truyền bá củng cố. Lắm khi làm chứng một cách hữu ý, nhưng trước hết làm chứng một cách vô tình chỉ bằng sự hiện diện của họ mà thôi! Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là “bí của Đức Kitô”, là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự. Cũng như là kim loại thì bất cứ chì, đồng, kẽm, thiếc, sắt, bạc, vàng hay bạch kim, hễ bắc vào cầu giao điện là có điện. Do đó tiếp cận với thế giới Công giáo, vừa có cái gì làm mình bị hấp dẫn, cái gì làm mình ngài ngại, đôi khi thấy rờn rợn, như thể đến gần cầu giao điện cao thế! Nói quá đi cho dễ hiểu: thế giới Phật giáo chỉ có hiền hòa mát dịu, thế giới Công giáo có cái gì gay gắt cường bạo (Chúa Giêsu có nói: phải dùng sức cường bạo (violence) để vào Nước Trời; thánh Phaolô thì dùng hình ảnh “vận động viên” chạy đua tranh giải). Hàn Mặc Tử cũng mô tả điều ấy được phần nào:
“Run như run thần tử thấy Long Nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng”
Xét cho cùng, điều chính yếu đối với tôi không phải là sự phù hợp thoải mái tâm hồn tôi với môi trường Công giáo nhưng là ở chỗ qua môi trường ấy tôi tiếp cận được một cái gì khác mà môi trường ấy chỉ là chứng tích và là dấu chỉ. Đúng hơn, qua đó tôi tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động “hic et nunc”: Đức Giêsu Kitô. Nếu vào quãng năm l940, bức ảnh Thánh Gioan dựa đầu kề trái tim Chúa Giêsu và năm 1943 những bài suy niệm về cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu của Pascal đã giúp tôi được biết Ngài như là một con người có thật, nhưng đã thuộc về quá khứ gần 2000 năm, và nếu các chủng sinh tu sĩ làm tôi thắc mắc về mối tình của hàng triệu người đối với một người sống dưới thời đế quốc Rô-ma, thì hai năm 1946 - 1947 và 1947 - 1948 cái Hội Thánh bé nhỏ và tầm thường đã có một ảnh hưởng quyết định. Cái Hội Thánh tại xứ đạo Nghĩa Yên thật tầm thường, tuy nhiên có nhiều nét khá hấp dẫn nhưng lại cũng có nhiều nét rất tiêu cực, và trừ vị Linh mục quản xứ ra, chẳng ai là đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Hội Thánh ấy đã giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ: cứ đọc kỹ Tin Mừng thì sẽ thấy nhóm môn đệ đầu tiên của Ngài, kể cả thủ lãnh các tông đồ là Phêrô, thật chẳng có gì là “ngon” cả, so với Quan Công, Trần Hưng Đạo, Nhan Hồi, Tăng Sâm, Ca Diếp, Anan, Platon, Các Mác, Lênin thì còn thua kém về nhiều mặt. Cho nên làm chứng tích về Giêsu có nhiều cách: cách của Gioan, cách của Phêrô (chối Thầy ba lần rồi ôm mặt khóc), cách của Ma-đa-lê-na, cách của Ni -cô -đê -mô, cách của người trộm lành (chỉ được một điều là biết nhìn nhận mình bị đóng đanh là đáng kiếp). Một cô danh ca đàng điếm như Eva Lavanière thì ra cái gì so với nữ triết gia Simone Weil, so với Nguyễn Thị Minh Khai? Ngay cả một vị thánh được xem như một bậc Thánh lớn là Tê-rê-sa Hài Đồng, hỏi đã làm nên trò trống gì được cái thành tích gì? Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công giáo không những là với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế. Thấy được điều ấy tôi kết luận:
“Giêsu là Thiên Chúa”
Và Ngài Đang sống sau khi đã chết thực sự, nghĩa là Ngài Đã Phục Sinh đúng như các sách Tin Mừng tường thuật.
Cũng nhờ đó tôi được giải tỏa điều vẫn thường gây khó khăn cản trở cho những ai muốn theo Giêsu mà không chấp nhận Hội thánh, tôi xin ghi rõ như sau:
Nếu Giêsu chỉ là một Thánh nhân thường, thì có thể tách rời Hội Thánh với Ngài, như tách rời bất cứ tổ chức nào với vị sáng lập nó. Ví dụ, tách rời hoàng tộc nhà Lê lúc mạt vận với Lê Lợi, tách rời một đảng chính trị nào đó với vị anh hùng vĩ đại đã lập ra đảng ấy. Thế nhưng, Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên không thể tách rời Hội Thánh với Ngài, bởi vì dù Hội thánh là chổi cùn, là bút xơ hay thế nào đi nữa, thì Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đã Phục sinh vẫn đang hiện diện và tác động trong Hội Thánh. Bởi lẽ Hội Thánh chỉ là lời mời gọi con người đến với Chúa Giêsu, chứ không phải là một tổ chức thế trần dành riêng cho một thiểu số ưu tú biệt phái! Hội Thánh không phải là Hội ái hữu hay câu lạc bộ dành riêng cho một lớp ưu tú tinh hoa của nhân loại. hội thánh là Đại gia đình của những kẻ biết mình là tội lỗi xấu xa cần ơn cứu độ. (Từ Đức Giáo Hoàng cho đến bất cứ tín hữu nào cũng thường đấm ngực thú nhận: “lỗi tại tôi! lỗi tại tôi! Lỗi lại tôi mọi đàng!” chứ không ai vỗ ngực tự cho mình là tài đức cả; ai cũng luôn nhớ lời Chúa nói: “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”, nhưng “những điều sức loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được”). Những người ấy đến lãnh nhận ơn cứu độ, và khi đã được lãnh nhận rồi, lại đi giới thiệu Vị lương y cho những ai ý thức mình là bệnh nhân cần cứu chữa. Lương y và Thánh dược thì chỉ có một mình ĐỨC KITÔ, là con Thiên Chúa làm người, đã chết và đã Phục Sinh, Ngài dùng Hội Thánh như kẻ đưa tin, như kẻ thủ kho dược phẩm thế thôi! Hội Thánh không phải là một trường phái giảng dạy đạo lý cao siêu, chân lý tuyệt vời, mà chỉ là một tổ chức do Đức Giêsu lập nên để làm công cụ đem ơn cứu độ. Hội Thánh gần như một tổ chức y tế đi cứu một nạn dịch đang hoành hành, chứ không phải đi giảng dạy y khoa tại trường Đại học dành cho các cô, các cậu có bằng tú tài. Công việc phải làm là đi khắp hang cùng ngõ hẻm, mang thuốc trừ dịch đến cho mọi hạng người, rồi lại nhờ những người ấy mang thuốc trừ dịch đến cho những ai biết mình đang mắc chứng bịnh nan y ấy. Thần dược đây cũng không phải chân lý cao siêu, đạo lý uyên thâm… mà chính là bản thân con người GIÊSU với sự sinh ra - sống với - chết đi - sống lại - và đang tác động qua các bí tích mà Ngài đã giao cho Hội Thánh giới thiệu (tức là rao giảng) và thừa hành phục vụ.
Khi đã nhận rõ sự thực cụ thể ấy (réalité concrète) thì việc gia nhập Hội Thánh qua các bí tích thanh tẩy là bước phải đi tới, chỉ còn vấn đề là thời điểm thuận lợi, với ý định dứt khoát và kịp thời. Tôi xin dùng một hình ảnh thô kệch nhưng rõ ràng và dễ hiểu: vào Hội Thánh không phải là ghi danh vào Đại học y khoa chỉ dành cho những sinh viên ưu tú, là vào bệnh viện vì biết mình mắc chứng nan y. Không phải là học hải dương học hay khoa học hàng hải, song là nhẩy vào tàu cứu nạn hồng thủy như nhảy vào tàu Noe. Càng ngộp nước càng không biết bơi, càng kiệt sức càng phải nhảy lên tàu gấp! Dĩ nhiên không biết mình đang trôi dạt giữa trùng khơi, hoặc biết vậy mà cậy tài ỷ sức, lại nghi ngờ thủy thủ là hải tặc thì hẳn tránh xa.
Tóm lại, cùng cùng với hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời tôi từ 39 - 45 cho quãng đầu cuối năm 1948 đã diễn biến như sau:
Đảo chính Nhật và Cách mạng mùa thu như cơn gió bão quét sạch, làm sụp đổ những nền tảng căn bản cuộc sống về nhiều mặt của tôi (cũng như của bao nhiêu người Việt Nam khác).
Một con đường được mở mang, đầy hứa hẹn phấn khởi, là tham gia Cách mạng kháng chiến giành độc lập xây dựng một xã hội mới, một văn hóa mới, một con người mới theo ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê. Một phần rất lớn nhân dân Việt Nam, trong đó gồm số đông thành phần ưu tú của giống nòi, đã chọn con đường ấy: con đường ấy đi đến thành côug rực rỡ vào ngày 1-5-1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lừng lẫy.
Một số đã đi các con đường khác.
Có con đường phản động, chống phá Cách mạng, tôi không đi theo con đường này. Hai năm 54 - 56, tôi có bị động viên vào quân đội Miền Nam: đó không phải là con đường tôi chọn, mà chỉ là cưỡng bức và chẳng qua là đi cho lấy có, như vạn bất đắc dĩ đi làm dịch vụ hai năm để cho rảnh rang để khỏi bị quấy rầy. Có con đường gác ra mọi ngoài lý tưởng, chỉ lo sống bằng yên vô sự, tìm dịp gây dựng cho bản thân và gia đình, tránh dính dáng vào bất cứ chuyện gì, để được an thân. Tôi cũng không đi vào con đường ấy.
Thế thì con đường nào? Qua các biến cố xảy đến cho bản thân và gia đình, dân tộc, xã hội, tôi ý thức rằng: độc lập dân tộc là quý, công bằng xã hội là quý, xã hội, chế độ cũ phải suy vong, một chế độ mới đang được xây đắp và đã là lẽ sống cao quý đáng tôn trọng cho rất nhiều người con ưu tú của dân tộc Việt, trong đó có anh em ruột thịt tôi, thầy và bạn đáng kính mến của tôi, tôi không có lý do gì để cản trở chống đối sự nghiệp đang được xây đắp với bao công lao hy sinh to lớn đó. Tuy nhiên, tôi cũng không theo chân các người ấy, bởi vì, riêng tôi qua các sự việc xảy ra trong những năm ấy, tôi ý thức rằng nhân sinh con người có một bình diện khác, căn bản hơn, sâu xa hơn, có tính cách muôn thuở, vượt mọi thời đại, mọi biên giới, mọi chế độ chính trị, xã hội, văn hoá: bình diện ý nghĩa và cứu cánh cuối cùng của thân phận làm người, với hai vấn đề chính là đau khổ và tội ác. Thời đại nào, gầm trời nào, chế độ nào cũng có nước mắt và máu chảy ra. Sinh - bệnh - lão- tử và tham - sân - si, đó mới là điều phải giải quyết trong căn bản. Đó là rễ, là mầm. Các hiện tượng tiêu cực khác chỉ là lá, cành, hoa, quả. Đó là điều các Thánh Nhân, bậc hiền triết tìm cách suy tư giải luận.
Trước năm 45, có thể nói trong thực tế, tôi sống trên một nền tảng Khổng giáo pha trộn một lớp vỏ tư tưởng dân chủ tư sản Tây Phương, Đảo chánh Nhật và Cách mạng mùa thu năm 45 giúp tôi ý thức rằng lịch sử đã sang trang, phải tìm cái mới.
Chủ nghĩa Mác Lê, tôi thấy không thích hợp với bản thân, vì chỉ đặt ra vấn đề giải quyết chế trần trong thời gian, trong khi tôi thấy nhu cầu phải tìm sâu hơn, xa hơn. Tự đáy tâm hồn, tôi khao khát một cái gì trường tồn vĩnh cửu tuyệt đối cho cái ngã vị của con người mà tôi nghĩ rằng có in dấu vết trường tồn, vĩnh cửu tuyệt đối, nỗi khao khát mà bất cứ giá trị cao quý nào của thế trần cũng không khỏa lấp được. Hình ảnh mẫu người tu sĩ hiện ra như lời giải đáp (tu sĩ nói chung chứ chưa nói về tôn giáo nào cả). Vốn là người Việt Nam ngoài Công giáo, vẫn ưa thích cảnh u tịch của các ngôi chùa từ thuở bé, vốn chịu ảnh hưởng tâm thức thiêng liêng nội tâm (consciene d’une vie spirituelle intérieure) nhuốm màu Phật giáo về khía cạnh nếp sống tu trì và cảm tình qua các tác phẩm văn chương (dù không sở đắc giáo lý của Phật giáo), cho nên trong bước đầu, tôi hướng về đời tu hành dưới hình thức đời sống nhà sư ở chùa, ẩn mình lánh xa thế tục. Thế nhưng rồi, với hai năm dạy học tại trường tư thục Công giáo Đậu Quang Lĩnh, sống giữa lòng hai xứ đạo Nghĩa Yên và Thọ Ninh, những gì tôi đón nhận qua những bài học giáo lý, qua các tác phẩm nghệ thuật Công giáo, nhất là qua các tác phẩm của bậc thiên tài khoa học, văn chương và thần hiệp là Pascal! mà tôi tích trữ trong sáu năm ở trường Thiên Hựu đã kết tinh lại, bùng khởi lên bằng câu trả lời; điều mà tôi tìm kiếm thấy là Đức Giêsu người Na-da-rét, là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu tử nạn và Phục sinh mà Hội Thánh Công giáo là tổ chức do Ngài thành lập để giới thiệu Ngài với mọi người đau thương và tội lỗi cần ơn cứu độ, là phương tiện để Ngài luôn luôn hiện diện và tác động, tuy kín nhiệm nhưng hiện thực, qua các bí tích mà trung tâm là bí tích Thánh Thể, nhằm giúp con người thực hiện được cứu cánh của mình, là qua cuộc sống ở đời này, tiến về cuộc lai sinh mà trong đó ngã vị chủ thể của họ, kể cả thân xác, được trường tồn tham dự vào cuộc sống tình yêu của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa ấy là Cha sáng tạo vạn vật từ hư vô, yêu thương loài người đến độ ban chính con Ngài cho họ để Người Con ấy đưa họ về nơi “Vĩnh cửu tình yêu”, bằng một sự nghiệp vĩ đại huy hoàng những đầy gian khổ là cái chết trên thập giá, con đường mà mỗi người được gọi chung bước với Ngài, để xuyên qua trần thế, tiến về Nước Trời muôn thuở ngõ hầu - cuối cùng tham dự vào chính sự sống, tình yêu, và phúc lạc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tôi cũng tìm thấy quy luật của chính cuộc sống là “tình yêu”: yêu Chúa và yêu người trong sự phục vụ đến quên mình vì Chúa và vì anh em tất cả, bất cứ ai chẳng trừ ai! Tôi thấy qua trung gian Hội Thánh, Đức Giêsu đến với tôi, mời gọi tôi, chờ đợi tôi để ban ơn cứu độ: đồng thời Ngài cũng mời gọi tôi phải cộng tác hoàn thành sự nghiệp cứu độ trong cộng đoàn Hội Thánh phổ quát, tông truyền, duy nhất là “Hội Thánh Công giáo”: đã được Ngài thành lập với nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng khắp nơi cho đến ngày tận thế, bởi vì Đức Giêsu sẽ ở cùng Hội Thánh, tức nhân loại được cứu về cùng Thiên Chúa Cha chí ái trong Chúa Thánh Thần.
Trước đó trở ngại lớn lao nhất ngăn tôi bước vào con thuyền Hội Thánh là các vị Giáo Quyền người Pháp. Trở ngại tự dưng được Chúa cất đi! Điều ấy làm tôi thấy rõ: Hội Thánh là mộl tổ chức “siêu quốc gia” lúc cần người Pháp quản lý cho thuận lợi thì đặt người Pháp, lúc thời thế thay đổi thì giao lại cho Việt Nam, chứ bản chất của Hội Thánh không dính líu gì với nước Pháp và chế độ thực dân nào cả! Chẳng qua là tùy cơ ứng biến, miễn sao Tin Mừng được loan truyền, chủ yếu là việc ban phát lời Chúa và Thánh Thể được thực hiện, còn lúc hành sự, nếu các Linh mục thừa sai có vô tình hay hữu ý phục vụ cho nước Pháp cũng là thường tình. Nếu họ có phần nào lợi dụng vị trí trong Hội Thánh mà phục vụ cho người Pháp thì có lỗi nhưng đó là lỗi cá nhân, chứ không phải chủ trương của Hội Thánh (nhất là qua sự đề nghị của dòng tên) vẫn chủ trương tiến tới thành lập hàng giáo phẩm bản quốc. Vì lý do này nọ, đã có sự trì trệ đáng tiếc trong việc thực hiện: việc này có lẽ trách nhiệm do từ nhiều phía lẫn lộn nhiều bình diện, tuy vậy cũng là quy luật lự nhiên của con người tội lỗi. Biến cố năm 45 cũng là một dịp tốt đẩy nhanh việc thực hiện kế đồ căn bản của Hội Thánh là thành lập hàng giáo phẩm bản quốc: là điều đã thực hiện trọn vẹn vào năm l960. Nhờ đó các thừa sai ngoại quốc tìm lại khuôn mặt đẹp đẽ sáng sủa của thuở ban đầu, thời của các vị như Théophane, Vénard: những tâm hồn quảng đại, lìa bỏ quê hương xứ sở xa cách gia đình dấn thân vào cuộc sống, sống đời hy sinh để phục vụ Tin Mừng: đem ơn cứu độ cho anh em khắp nơi bốn bể năm châu, không phân biệt dân tộc văn hoá, giai cấp, chỉ biết ai cũng là người đau khổ tội lỗi cần ơn cứu độ mà thôi! “Đẹp thay gót chân những sứ giả loan báo Tin Mừng”. Hội Thánh như con thuyền vượt biển, khi nhanh khi chậm, khi yên hàn khi gian nan, khi lên cao khi xuống thấp – với một cơ chế trần gian thay đổi, theo quy luật tự nhiên của tâm lý và xã hội của con người. Hội Thánh đồng hành với con người qua mọi nẻo đường, thì cũng chịu chung một nhân tình thế thái, đúng theo tinh thần nhập thế của Thiên Chúa Ngôi Hai. Hội Thánh vọc tay vào chậu bột làm bánh, lặn sâu vào bùn nhơ trần thế, như kẻ lặn sâu cứu người chết đuối, tránh làm sao khỏi tay lấm mặt vùi, áo quần tả tơi ướt mèm, có vậy Hội Thánh cũng cần ơn cứu độ. Chỉ có Chúa Giêsu mới là lương y và thần dược, còn Hội Thánh chỉ là môi giới mà chính bản cũng là tội lỗi cần được thứ tha và cứu độ như bất cứ người nào và tổ chức nào ở trần gian, các nghi thức phụng vụ bao giờ cũng bắt đầu bằng kinh “sám hối”. Có Kitô hữu nào tự xưng mình là “Thánh” đâu! Trái lại luôn xưng mình là “kẻ có tội”. Càng thêm gần Chúa lại càng thấy mình có tội lỗi, thâm chí còn thấy mình là người tội lỗi nhất trần gian, không dám đặt mình lên trên bất cứ ai, dù họ là kẻ giết người hay gian dâm. Vì thế, người Kitô hữu chỉ có ý tán đồng hay không về những việc làm cụ thể, chứ không hề lên án lương tâm con người nào cả! Ví dụ: việc giết người, việc tà dâm là tội, nhưng người Kitô hữu không dám có ý nghĩ gì buộc tội kẻ làm những điều ấy, vì đó là việc phán xét của Thiên Chúa và của lương tâm đương sự mà thôi. Có chăng thì cũng chỉ cùng với Chúa Giêsu mà dâng lời cầu nguyện: “Xin Cha tha cho họ vì họ chẳng biết việc họ làm”, cũng như Thánh Tê-pha-nô cầu xin Chúa đừng chấp tội kẻ giết hại mình. Khi thẩm lượng việc ác việc thiện, người Kitô hữu cũng chỉ lấy lời Chúa làm tiêu chuẩn chứ không dám lấy trí lự hẹp hòi u tối của mình làm thước vàng khuôn ngọc. Hội Thánh cũng chỉ làm công việc gìn giữ bảo tồn, diễn giải, áp dụng lời Chúa, chứ không phải lên mặt dạy đời nhân danh chính mình. Chỉ có Thiên Chúa mới là Thầy, là Cha duy nhất! Hội Thánh chỉ là “kẻ tôi tớ” được sai đi, có tháo hay buộc cũng là do lệnh của chủ, và trong khi thừa hành mệnh lệnh, nếu có lệch lạc sai sót cũng là chuyện thường. Chúa không làm phép lạ cho người của Hội Thánh không học việc đời mà vẫn thông thạo! Quyền vô ngộ của Đức Giáo Hoàng cũng chỉ mới sử dụng có hai lần, mà lại nhắm hai tín điều không dính dự gì đến việc trần gian cả. Mà mỗi lần đều được sử dụng trong những điều kiện thận trọng, và bảo đảm. Ngoài ra, Đức Giáo Hoàng cũng đấm ngực thú nhận như bất cứ ai khác:
Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!
Thấy được như thế, tôi khao khát muốn được thuộc về cái đại gia đình mà thủy tổ Abraham, với cái viễn tượng mai sau trên Nước Trời muôn thuở cùng muôn dân, muôn nước, muôn ngôn ngữ, không còn biên giới ngăn cách, không còn kỳ thị chủng tộc, phân chia giai cấp, thượng lưu, hạ tiện, người thông thái, kẻ ngu dốt, quân tử, tiểu nhân chủ tớ, giàu nghèo, bậc thánh nhân, kẻ tội lỗi, quan dân, kể cả phân chia nam nữ cũng không! Tất cả chỉ còn là một trong Đức -Kitô, như Ngài và Chúa Cha là một, đầy ắp tương quan liên ngã vị trong bản nhạc tình yêu muôn đời của Thánh Thần, trong một cõi trời mới đất mới mà vật chất cũng sẽ đi vào vinh hiển. Tôi khao khát thuộc về cái đại gia đình tiềm tàng ấp ủ toàn cả nhân loại và vũ trụ sẽ được hiện tỏ mai sau, mà ở trần thế này, Hội Thánh vừa là mầm ươm, vừa là dấu tích, vừa là bảo chứng. Như thế, cuộc đời không còn là bể khổ, tình người không còn là dây oan nữa! Đau khổ chỉ là thần dược, là rèn luyện vun gốc chiết cành tỉa lá cho hoa thêm đẹp, quả thêm ngon: Còn tội lỗi thì chỉ cần biết thành tâm hối cải là được xoá sạch bởi máu con Chiên Thiên Chúa tiệc cưới đã dọn sẵn, chỉ còn biết mặc áo trắng đẹp đẽ vào dự liên hoan, mà thánh lễ là Biểu tượng, là Bảo Chứng, là gieo mầm chuẩn bị. Mọi sinh hoạt trần thế dù có tầm thường, vụn vặt, eo sèo đến đâu mà được lồng vào lòng mến Chúa yêu người cũng đều chất chứa viên ngọc quí giá vô ngần. Cả vũ trụ nhân sinh đang còn như một giọt nước đục ngầu treo mong manh đầu ngọn cỏ hầu sắp rơi tan vào cát bụi, bỗng như được tia nắng sớm rọi vào trở thành viên ngọc muôn màu muôn sắc long lanh rạng ngời, không mê đời, không chán đời, không lánh đời, mà yêu đời với tất cả nỗi niềm của nó, vì trái tim bé mọn của mình đã được kết hợp với trái tim của Người: mà lại là Thiên Chúa Ngôi Hai, trái tim đã đổ đến giọt máu cuối cùng vì yêu nhân loại, để cứu độ những ai biết đón nhận ơn thiêng.
Thế là sau khi đậu tú tài II vào tháng 9 năm 1946, tôi từ giã Huế về quê, với tâm niệm mình là một phật tử có ý nguyện là mình sẽ xuất gia khi gặp dịp thuận tiện, lúc ấy, tác phẩm mà tôi say sưa đọc đi đọc lại rất nhiều là cuốn “Ánh Đạo Vàng” của ông Võ Đình Cường, một Phật tử nổi tiếng ở Huế. Vị sư mà tôi quí trọng nhất là sư Thích Mật Thể, phong cách của Ngài dịu hiền, luôn như tỏa ra một cái gì làm cho kẻ đến gần thấy được đón nhận với một lòng từ bi đôn hậu.
Trên đường về quê tôi ghé thăm anh Vương Đình Lương, lúc ấy làm hiệu trưởng trường trung học tư thục do Linh mục Vương Đình Ái làm quản hạt Nghĩa Yên quản lý, tại huyện Đức Thọ. Ngôi trường khá đồ sộ so với điều kiện của một huyện lỵ thời đó. Trước năm 45, tên trường là Saint Joseph, sau đổi là Đậu Quang Lĩnh, tên một vị Linh mục có tham gia phong trào cách mạng với cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp kết án giam tù ở Côn Đảo. Anh Vương Đình Lương mời tôi cộng tác với tư cách giáo viên phụ trách môn việt văn. Thế là tôi trở về với môi trường tư thục Công giáo, phảng phất bầu không khí như trường Thiên Hựu, nhưng với tư cách là một giáo viên. Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh. Tôi dạy học có kết quả tốt, học sinh yêu mến, bạn đồng nghiệp cũng dành cho nhiều thiện cảm. Tôi lưu trú ngay lại trường, và thường đi lại với các gia đình Công giáo thuộc hai xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh là làng của anh Vương Đình Lương, tôi vẫn thỉnh thoảng gặp lại anh Phan Văn Đanh và lui tới với một vài Phật tử, nhất là gia đình ông Lê Hữu Tấn. Ông Tấn có một người em trai lấy người chị họ tôi, con một bà cô có một người chú lấy một bà cô khác của tôi, thân sinh của ông Tấn là cụ Cử Dư, hình như đậu cùng khóa thi hương với phân phụ tôi. Gia đình Lê Hữu là con cháu của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trong thời gian hai niên học 46 - 47, dạy học tại trường Đậu Quang Lĩnh, tôi hình như sống trong môi trường của một thế giới thuần túy Công giáo. Ngoài các sinh hoạt chức nghiệp của trường, tôi chỉ đi lại với các Linh mục, các đại chủng sinh giúp xứ tại nhà xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh, nhất là với gia đình anh Vương Đình Lương. Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi. Vì sao? Sau cách mạng 45 cái nền văn hóa của gia đình tôi và của làng xóm cứ dần dần bị quét sạch. Sinh hoạt ngoài xã hội tuy có sôi nổi đầy hoạt động nhưng lại không thấy thích hợp, vì sinh hoạt ấy quá thiên về đoàn thể bên ngoài, quá nặng nề về chính trị, hình như đời sống của bản thân bị hạn chế, không triển nở nặng nề tập thể hơn là tương giao liên-ngã-vị. Chỉ có tình đồng chí mà thiếu tình bạn, hiểu theo nghĩa chân tình riêng tư mật thiết (intimité) chìm sâu bên trong. Còn cuộc sống gia đình thì như một sự khô héo nào đó, vì những giá trị được tôn trọng theo truyền thống xưa kia như bị héo mòn dần. Sau những buổi sinh hoạt có tính cách cao trào, về gia đình như thể có một cái gì như một thời hấp hối ủ dột thê lương! Tình cha mẹ, anh chị em yêu thương thì vẫn có cái gì như cây đại thụ đến thời héo rũ chết, thương nhau mà chỉ biết im lặng nhìn nhau bùi ngùi.
Trái lại, tại các xóm đạo, trong các gia đình Công giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên (đại diện: vicaire, thừa tác viên: ministre, phục vụ, phục dịch viên: do chữ ministrare). Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm (foyer) ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá.
Về mặt này, tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa. Đặc tính này ta thấy rất rõ khi nghiên cứu các luật dòng tu và qui chế của các dòng tu Công giáo. Ví dụ: một mặt thì tu sĩ vâng lời bề trên cộng đoàn, một mặt thì hàng năm có cuộc kinh lược của vị đại diện bề trên hoặc của bề trên tổng quyền gặp riêng từng tu sĩ, hoàn toàn bảo mật không ai có quyền xâm phạm. Các thể thức bầu Giáo Hoàng và tuyển chọn Giám Mục cũng vậy. Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ. Ví dụ tôi rất thích tương quan giữa tôi với vị Giáo Hoàng, vì một mặt nó có cái gì làm thỏa mãn lòng khao khát trung quân hiếu tử của truyền thống Nho giáo trong mạch máu của tôi, một mặt thỏa mãn cái tinh thần dân chủ mà tôi hấp thụ được từ nền học vấn của Pháp. Còn mẫu mực xã hội sản xuất tập thể thì có lẽ không đâu bằng ở dòng tu. Ở đó, sau các giờ sinh hoạt tập thể với kỉ luật hết sức chặt chẽ, mọi tu sĩ lại trở về phòng riêng hoặc quì chầu Thánh Thể, chìm sâu mất hút vào đời tĩnh nguyện nội tâm dường như trên cả vũ trụ chỉ có một mình mình đối mặt với Thiên Chúa chẳng khác nào một vị ẩn sĩ độc tu.
Và ngược lại trong giờ kinh nguyện thì bất cứ vị ẩn sĩ độc tu nào cũng thấy mình như tan biến mất trong Nhiệm thể Chúa Kitô, nơi mà hàng trăm triệu người trở nên như một (kể cả sự nên một với tổ phụ Abraham, cho đến các tín hữu cuối cùng trước ngày tận thế, có thể vài chục, vài trăm triệu năm về sau).
Nhưng điều quí giá nhất mà tôi, dần dần đã khám phá được nơi những cá nhân cũng như các cộng đoàn Công giáo, không phải là những giá trị bình diện con người trong các khía cạnh khác nhau. Những giá trị ấy thực ra có những nét độc đáo, nhưng ở nơi những người và cộng đoàn Công giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường! Mà xét về một vài khía cạnh nào đó, đôi khi có thể còn kém thua những người, nn cộng đoàn khác. Ví dụ: nói về phương diện hiền hòa, phần đông các vị sư đều hơn các Linh mục; về mặt nghiêm túc mực thước, có lẽ các vị túc nho hơn các Linh mục. Đi xa hơn, có thể nói Đức Giêsu chỉ dạy “yêu người”, chứ Đức Thích Ca, với giới luật cấm sát sinh, còn dạy phải “thương yêu bất cứ sinh vật nào”. Đôi khi có thể nói người Công giáo (ít ra là người Công giáo Việt nam) nói chung hơi thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho giáo vv… Do đó theo ý riêng tôi, điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công giáo nắm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô. Làm chứng bằng những lời truyền bá củng cố. Lắm khi làm chứng một cách hữu ý, nhưng trước hết làm chứng một cách vô tình chỉ bằng sự hiện diện của họ mà thôi! Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là “bí của Đức Kitô”, là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự. Cũng như là kim loại thì bất cứ chì, đồng, kẽm, thiếc, sắt, bạc, vàng hay bạch kim, hễ bắc vào cầu giao điện là có điện. Do đó tiếp cận với thế giới Công giáo, vừa có cái gì làm mình bị hấp dẫn, cái gì làm mình ngài ngại, đôi khi thấy rờn rợn, như thể đến gần cầu giao điện cao thế! Nói quá đi cho dễ hiểu: thế giới Phật giáo chỉ có hiền hòa mát dịu, thế giới Công giáo có cái gì gay gắt cường bạo (Chúa Giêsu có nói: phải dùng sức cường bạo (violence) để vào Nước Trời; thánh Phaolô thì dùng hình ảnh “vận động viên” chạy đua tranh giải). Hàn Mặc Tử cũng mô tả điều ấy được phần nào:
“Run như run thần tử thấy Long Nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng”
Xét cho cùng, điều chính yếu đối với tôi không phải là sự phù hợp thoải mái tâm hồn tôi với môi trường Công giáo nhưng là ở chỗ qua môi trường ấy tôi tiếp cận được một cái gì khác mà môi trường ấy chỉ là chứng tích và là dấu chỉ. Đúng hơn, qua đó tôi tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động “hic et nunc”: Đức Giêsu Kitô. Nếu vào quãng năm l940, bức ảnh Thánh Gioan dựa đầu kề trái tim Chúa Giêsu và năm 1943 những bài suy niệm về cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu của Pascal đã giúp tôi được biết Ngài như là một con người có thật, nhưng đã thuộc về quá khứ gần 2000 năm, và nếu các chủng sinh tu sĩ làm tôi thắc mắc về mối tình của hàng triệu người đối với một người sống dưới thời đế quốc Rô-ma, thì hai năm 1946 - 1947 và 1947 - 1948 cái Hội Thánh bé nhỏ và tầm thường đã có một ảnh hưởng quyết định. Cái Hội Thánh tại xứ đạo Nghĩa Yên thật tầm thường, tuy nhiên có nhiều nét khá hấp dẫn nhưng lại cũng có nhiều nét rất tiêu cực, và trừ vị Linh mục quản xứ ra, chẳng ai là đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Hội Thánh ấy đã giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ: cứ đọc kỹ Tin Mừng thì sẽ thấy nhóm môn đệ đầu tiên của Ngài, kể cả thủ lãnh các tông đồ là Phêrô, thật chẳng có gì là “ngon” cả, so với Quan Công, Trần Hưng Đạo, Nhan Hồi, Tăng Sâm, Ca Diếp, Anan, Platon, Các Mác, Lênin thì còn thua kém về nhiều mặt. Cho nên làm chứng tích về Giêsu có nhiều cách: cách của Gioan, cách của Phêrô (chối Thầy ba lần rồi ôm mặt khóc), cách của Ma-đa-lê-na, cách của Ni -cô -đê -mô, cách của người trộm lành (chỉ được một điều là biết nhìn nhận mình bị đóng đanh là đáng kiếp). Một cô danh ca đàng điếm như Eva Lavanière thì ra cái gì so với nữ triết gia Simone Weil, so với Nguyễn Thị Minh Khai? Ngay cả một vị thánh được xem như một bậc Thánh lớn là Tê-rê-sa Hài Đồng, hỏi đã làm nên trò trống gì được cái thành tích gì? Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công giáo không những là với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế. Thấy được điều ấy tôi kết luận:
“Giêsu là Thiên Chúa”
Và Ngài Đang sống sau khi đã chết thực sự, nghĩa là Ngài Đã Phục Sinh đúng như các sách Tin Mừng tường thuật.
Cũng nhờ đó tôi được giải tỏa điều vẫn thường gây khó khăn cản trở cho những ai muốn theo Giêsu mà không chấp nhận Hội thánh, tôi xin ghi rõ như sau:
Nếu Giêsu chỉ là một Thánh nhân thường, thì có thể tách rời Hội Thánh với Ngài, như tách rời bất cứ tổ chức nào với vị sáng lập nó. Ví dụ, tách rời hoàng tộc nhà Lê lúc mạt vận với Lê Lợi, tách rời một đảng chính trị nào đó với vị anh hùng vĩ đại đã lập ra đảng ấy. Thế nhưng, Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên không thể tách rời Hội Thánh với Ngài, bởi vì dù Hội thánh là chổi cùn, là bút xơ hay thế nào đi nữa, thì Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đã Phục sinh vẫn đang hiện diện và tác động trong Hội Thánh. Bởi lẽ Hội Thánh chỉ là lời mời gọi con người đến với Chúa Giêsu, chứ không phải là một tổ chức thế trần dành riêng cho một thiểu số ưu tú biệt phái! Hội Thánh không phải là Hội ái hữu hay câu lạc bộ dành riêng cho một lớp ưu tú tinh hoa của nhân loại. hội thánh là Đại gia đình của những kẻ biết mình là tội lỗi xấu xa cần ơn cứu độ. (Từ Đức Giáo Hoàng cho đến bất cứ tín hữu nào cũng thường đấm ngực thú nhận: “lỗi tại tôi! lỗi tại tôi! Lỗi lại tôi mọi đàng!” chứ không ai vỗ ngực tự cho mình là tài đức cả; ai cũng luôn nhớ lời Chúa nói: “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”, nhưng “những điều sức loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được”). Những người ấy đến lãnh nhận ơn cứu độ, và khi đã được lãnh nhận rồi, lại đi giới thiệu Vị lương y cho những ai ý thức mình là bệnh nhân cần cứu chữa. Lương y và Thánh dược thì chỉ có một mình ĐỨC KITÔ, là con Thiên Chúa làm người, đã chết và đã Phục Sinh, Ngài dùng Hội Thánh như kẻ đưa tin, như kẻ thủ kho dược phẩm thế thôi! Hội Thánh không phải là một trường phái giảng dạy đạo lý cao siêu, chân lý tuyệt vời, mà chỉ là một tổ chức do Đức Giêsu lập nên để làm công cụ đem ơn cứu độ. Hội Thánh gần như một tổ chức y tế đi cứu một nạn dịch đang hoành hành, chứ không phải đi giảng dạy y khoa tại trường Đại học dành cho các cô, các cậu có bằng tú tài. Công việc phải làm là đi khắp hang cùng ngõ hẻm, mang thuốc trừ dịch đến cho mọi hạng người, rồi lại nhờ những người ấy mang thuốc trừ dịch đến cho những ai biết mình đang mắc chứng bịnh nan y ấy. Thần dược đây cũng không phải chân lý cao siêu, đạo lý uyên thâm… mà chính là bản thân con người GIÊSU với sự sinh ra - sống với - chết đi - sống lại - và đang tác động qua các bí tích mà Ngài đã giao cho Hội Thánh giới thiệu (tức là rao giảng) và thừa hành phục vụ.
Khi đã nhận rõ sự thực cụ thể ấy (réalité concrète) thì việc gia nhập Hội Thánh qua các bí tích thanh tẩy là bước phải đi tới, chỉ còn vấn đề là thời điểm thuận lợi, với ý định dứt khoát và kịp thời. Tôi xin dùng một hình ảnh thô kệch nhưng rõ ràng và dễ hiểu: vào Hội Thánh không phải là ghi danh vào Đại học y khoa chỉ dành cho những sinh viên ưu tú, là vào bệnh viện vì biết mình mắc chứng nan y. Không phải là học hải dương học hay khoa học hàng hải, song là nhẩy vào tàu cứu nạn hồng thủy như nhảy vào tàu Noe. Càng ngộp nước càng không biết bơi, càng kiệt sức càng phải nhảy lên tàu gấp! Dĩ nhiên không biết mình đang trôi dạt giữa trùng khơi, hoặc biết vậy mà cậy tài ỷ sức, lại nghi ngờ thủy thủ là hải tặc thì hẳn tránh xa.
Tóm lại, cùng cùng với hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời tôi từ 39 - 45 cho quãng đầu cuối năm 1948 đã diễn biến như sau:
Đảo chính Nhật và Cách mạng mùa thu như cơn gió bão quét sạch, làm sụp đổ những nền tảng căn bản cuộc sống về nhiều mặt của tôi (cũng như của bao nhiêu người Việt Nam khác).
Một con đường được mở mang, đầy hứa hẹn phấn khởi, là tham gia Cách mạng kháng chiến giành độc lập xây dựng một xã hội mới, một văn hóa mới, một con người mới theo ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê. Một phần rất lớn nhân dân Việt Nam, trong đó gồm số đông thành phần ưu tú của giống nòi, đã chọn con đường ấy: con đường ấy đi đến thành côug rực rỡ vào ngày 1-5-1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lừng lẫy.
Một số đã đi các con đường khác.
Có con đường phản động, chống phá Cách mạng, tôi không đi theo con đường này. Hai năm 54 - 56, tôi có bị động viên vào quân đội Miền Nam: đó không phải là con đường tôi chọn, mà chỉ là cưỡng bức và chẳng qua là đi cho lấy có, như vạn bất đắc dĩ đi làm dịch vụ hai năm để cho rảnh rang để khỏi bị quấy rầy. Có con đường gác ra mọi ngoài lý tưởng, chỉ lo sống bằng yên vô sự, tìm dịp gây dựng cho bản thân và gia đình, tránh dính dáng vào bất cứ chuyện gì, để được an thân. Tôi cũng không đi vào con đường ấy.
Thế thì con đường nào? Qua các biến cố xảy đến cho bản thân và gia đình, dân tộc, xã hội, tôi ý thức rằng: độc lập dân tộc là quý, công bằng xã hội là quý, xã hội, chế độ cũ phải suy vong, một chế độ mới đang được xây đắp và đã là lẽ sống cao quý đáng tôn trọng cho rất nhiều người con ưu tú của dân tộc Việt, trong đó có anh em ruột thịt tôi, thầy và bạn đáng kính mến của tôi, tôi không có lý do gì để cản trở chống đối sự nghiệp đang được xây đắp với bao công lao hy sinh to lớn đó. Tuy nhiên, tôi cũng không theo chân các người ấy, bởi vì, riêng tôi qua các sự việc xảy ra trong những năm ấy, tôi ý thức rằng nhân sinh con người có một bình diện khác, căn bản hơn, sâu xa hơn, có tính cách muôn thuở, vượt mọi thời đại, mọi biên giới, mọi chế độ chính trị, xã hội, văn hoá: bình diện ý nghĩa và cứu cánh cuối cùng của thân phận làm người, với hai vấn đề chính là đau khổ và tội ác. Thời đại nào, gầm trời nào, chế độ nào cũng có nước mắt và máu chảy ra. Sinh - bệnh - lão- tử và tham - sân - si, đó mới là điều phải giải quyết trong căn bản. Đó là rễ, là mầm. Các hiện tượng tiêu cực khác chỉ là lá, cành, hoa, quả. Đó là điều các Thánh Nhân, bậc hiền triết tìm cách suy tư giải luận.
Trước năm 45, có thể nói trong thực tế, tôi sống trên một nền tảng Khổng giáo pha trộn một lớp vỏ tư tưởng dân chủ tư sản Tây Phương, Đảo chánh Nhật và Cách mạng mùa thu năm 45 giúp tôi ý thức rằng lịch sử đã sang trang, phải tìm cái mới.
Chủ nghĩa Mác Lê, tôi thấy không thích hợp với bản thân, vì chỉ đặt ra vấn đề giải quyết chế trần trong thời gian, trong khi tôi thấy nhu cầu phải tìm sâu hơn, xa hơn. Tự đáy tâm hồn, tôi khao khát một cái gì trường tồn vĩnh cửu tuyệt đối cho cái ngã vị của con người mà tôi nghĩ rằng có in dấu vết trường tồn, vĩnh cửu tuyệt đối, nỗi khao khát mà bất cứ giá trị cao quý nào của thế trần cũng không khỏa lấp được. Hình ảnh mẫu người tu sĩ hiện ra như lời giải đáp (tu sĩ nói chung chứ chưa nói về tôn giáo nào cả). Vốn là người Việt Nam ngoài Công giáo, vẫn ưa thích cảnh u tịch của các ngôi chùa từ thuở bé, vốn chịu ảnh hưởng tâm thức thiêng liêng nội tâm (consciene d’une vie spirituelle intérieure) nhuốm màu Phật giáo về khía cạnh nếp sống tu trì và cảm tình qua các tác phẩm văn chương (dù không sở đắc giáo lý của Phật giáo), cho nên trong bước đầu, tôi hướng về đời tu hành dưới hình thức đời sống nhà sư ở chùa, ẩn mình lánh xa thế tục. Thế nhưng rồi, với hai năm dạy học tại trường tư thục Công giáo Đậu Quang Lĩnh, sống giữa lòng hai xứ đạo Nghĩa Yên và Thọ Ninh, những gì tôi đón nhận qua những bài học giáo lý, qua các tác phẩm nghệ thuật Công giáo, nhất là qua các tác phẩm của bậc thiên tài khoa học, văn chương và thần hiệp là Pascal! mà tôi tích trữ trong sáu năm ở trường Thiên Hựu đã kết tinh lại, bùng khởi lên bằng câu trả lời; điều mà tôi tìm kiếm thấy là Đức Giêsu người Na-da-rét, là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu tử nạn và Phục sinh mà Hội Thánh Công giáo là tổ chức do Ngài thành lập để giới thiệu Ngài với mọi người đau thương và tội lỗi cần ơn cứu độ, là phương tiện để Ngài luôn luôn hiện diện và tác động, tuy kín nhiệm nhưng hiện thực, qua các bí tích mà trung tâm là bí tích Thánh Thể, nhằm giúp con người thực hiện được cứu cánh của mình, là qua cuộc sống ở đời này, tiến về cuộc lai sinh mà trong đó ngã vị chủ thể của họ, kể cả thân xác, được trường tồn tham dự vào cuộc sống tình yêu của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa ấy là Cha sáng tạo vạn vật từ hư vô, yêu thương loài người đến độ ban chính con Ngài cho họ để Người Con ấy đưa họ về nơi “Vĩnh cửu tình yêu”, bằng một sự nghiệp vĩ đại huy hoàng những đầy gian khổ là cái chết trên thập giá, con đường mà mỗi người được gọi chung bước với Ngài, để xuyên qua trần thế, tiến về Nước Trời muôn thuở ngõ hầu - cuối cùng tham dự vào chính sự sống, tình yêu, và phúc lạc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tôi cũng tìm thấy quy luật của chính cuộc sống là “tình yêu”: yêu Chúa và yêu người trong sự phục vụ đến quên mình vì Chúa và vì anh em tất cả, bất cứ ai chẳng trừ ai! Tôi thấy qua trung gian Hội Thánh, Đức Giêsu đến với tôi, mời gọi tôi, chờ đợi tôi để ban ơn cứu độ: đồng thời Ngài cũng mời gọi tôi phải cộng tác hoàn thành sự nghiệp cứu độ trong cộng đoàn Hội Thánh phổ quát, tông truyền, duy nhất là “Hội Thánh Công giáo”: đã được Ngài thành lập với nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng khắp nơi cho đến ngày tận thế, bởi vì Đức Giêsu sẽ ở cùng Hội Thánh, tức nhân loại được cứu về cùng Thiên Chúa Cha chí ái trong Chúa Thánh Thần.
Trước đó trở ngại lớn lao nhất ngăn tôi bước vào con thuyền Hội Thánh là các vị Giáo Quyền người Pháp. Trở ngại tự dưng được Chúa cất đi! Điều ấy làm tôi thấy rõ: Hội Thánh là mộl tổ chức “siêu quốc gia” lúc cần người Pháp quản lý cho thuận lợi thì đặt người Pháp, lúc thời thế thay đổi thì giao lại cho Việt Nam, chứ bản chất của Hội Thánh không dính líu gì với nước Pháp và chế độ thực dân nào cả! Chẳng qua là tùy cơ ứng biến, miễn sao Tin Mừng được loan truyền, chủ yếu là việc ban phát lời Chúa và Thánh Thể được thực hiện, còn lúc hành sự, nếu các Linh mục thừa sai có vô tình hay hữu ý phục vụ cho nước Pháp cũng là thường tình. Nếu họ có phần nào lợi dụng vị trí trong Hội Thánh mà phục vụ cho người Pháp thì có lỗi nhưng đó là lỗi cá nhân, chứ không phải chủ trương của Hội Thánh (nhất là qua sự đề nghị của dòng tên) vẫn chủ trương tiến tới thành lập hàng giáo phẩm bản quốc. Vì lý do này nọ, đã có sự trì trệ đáng tiếc trong việc thực hiện: việc này có lẽ trách nhiệm do từ nhiều phía lẫn lộn nhiều bình diện, tuy vậy cũng là quy luật lự nhiên của con người tội lỗi. Biến cố năm 45 cũng là một dịp tốt đẩy nhanh việc thực hiện kế đồ căn bản của Hội Thánh là thành lập hàng giáo phẩm bản quốc: là điều đã thực hiện trọn vẹn vào năm l960. Nhờ đó các thừa sai ngoại quốc tìm lại khuôn mặt đẹp đẽ sáng sủa của thuở ban đầu, thời của các vị như Théophane, Vénard: những tâm hồn quảng đại, lìa bỏ quê hương xứ sở xa cách gia đình dấn thân vào cuộc sống, sống đời hy sinh để phục vụ Tin Mừng: đem ơn cứu độ cho anh em khắp nơi bốn bể năm châu, không phân biệt dân tộc văn hoá, giai cấp, chỉ biết ai cũng là người đau khổ tội lỗi cần ơn cứu độ mà thôi! “Đẹp thay gót chân những sứ giả loan báo Tin Mừng”. Hội Thánh như con thuyền vượt biển, khi nhanh khi chậm, khi yên hàn khi gian nan, khi lên cao khi xuống thấp – với một cơ chế trần gian thay đổi, theo quy luật tự nhiên của tâm lý và xã hội của con người. Hội Thánh đồng hành với con người qua mọi nẻo đường, thì cũng chịu chung một nhân tình thế thái, đúng theo tinh thần nhập thế của Thiên Chúa Ngôi Hai. Hội Thánh vọc tay vào chậu bột làm bánh, lặn sâu vào bùn nhơ trần thế, như kẻ lặn sâu cứu người chết đuối, tránh làm sao khỏi tay lấm mặt vùi, áo quần tả tơi ướt mèm, có vậy Hội Thánh cũng cần ơn cứu độ. Chỉ có Chúa Giêsu mới là lương y và thần dược, còn Hội Thánh chỉ là môi giới mà chính bản cũng là tội lỗi cần được thứ tha và cứu độ như bất cứ người nào và tổ chức nào ở trần gian, các nghi thức phụng vụ bao giờ cũng bắt đầu bằng kinh “sám hối”. Có Kitô hữu nào tự xưng mình là “Thánh” đâu! Trái lại luôn xưng mình là “kẻ có tội”. Càng thêm gần Chúa lại càng thấy mình có tội lỗi, thâm chí còn thấy mình là người tội lỗi nhất trần gian, không dám đặt mình lên trên bất cứ ai, dù họ là kẻ giết người hay gian dâm. Vì thế, người Kitô hữu chỉ có ý tán đồng hay không về những việc làm cụ thể, chứ không hề lên án lương tâm con người nào cả! Ví dụ: việc giết người, việc tà dâm là tội, nhưng người Kitô hữu không dám có ý nghĩ gì buộc tội kẻ làm những điều ấy, vì đó là việc phán xét của Thiên Chúa và của lương tâm đương sự mà thôi. Có chăng thì cũng chỉ cùng với Chúa Giêsu mà dâng lời cầu nguyện: “Xin Cha tha cho họ vì họ chẳng biết việc họ làm”, cũng như Thánh Tê-pha-nô cầu xin Chúa đừng chấp tội kẻ giết hại mình. Khi thẩm lượng việc ác việc thiện, người Kitô hữu cũng chỉ lấy lời Chúa làm tiêu chuẩn chứ không dám lấy trí lự hẹp hòi u tối của mình làm thước vàng khuôn ngọc. Hội Thánh cũng chỉ làm công việc gìn giữ bảo tồn, diễn giải, áp dụng lời Chúa, chứ không phải lên mặt dạy đời nhân danh chính mình. Chỉ có Thiên Chúa mới là Thầy, là Cha duy nhất! Hội Thánh chỉ là “kẻ tôi tớ” được sai đi, có tháo hay buộc cũng là do lệnh của chủ, và trong khi thừa hành mệnh lệnh, nếu có lệch lạc sai sót cũng là chuyện thường. Chúa không làm phép lạ cho người của Hội Thánh không học việc đời mà vẫn thông thạo! Quyền vô ngộ của Đức Giáo Hoàng cũng chỉ mới sử dụng có hai lần, mà lại nhắm hai tín điều không dính dự gì đến việc trần gian cả. Mà mỗi lần đều được sử dụng trong những điều kiện thận trọng, và bảo đảm. Ngoài ra, Đức Giáo Hoàng cũng đấm ngực thú nhận như bất cứ ai khác:
Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!
Thấy được như thế, tôi khao khát muốn được thuộc về cái đại gia đình mà thủy tổ Abraham, với cái viễn tượng mai sau trên Nước Trời muôn thuở cùng muôn dân, muôn nước, muôn ngôn ngữ, không còn biên giới ngăn cách, không còn kỳ thị chủng tộc, phân chia giai cấp, thượng lưu, hạ tiện, người thông thái, kẻ ngu dốt, quân tử, tiểu nhân chủ tớ, giàu nghèo, bậc thánh nhân, kẻ tội lỗi, quan dân, kể cả phân chia nam nữ cũng không! Tất cả chỉ còn là một trong Đức -Kitô, như Ngài và Chúa Cha là một, đầy ắp tương quan liên ngã vị trong bản nhạc tình yêu muôn đời của Thánh Thần, trong một cõi trời mới đất mới mà vật chất cũng sẽ đi vào vinh hiển. Tôi khao khát thuộc về cái đại gia đình tiềm tàng ấp ủ toàn cả nhân loại và vũ trụ sẽ được hiện tỏ mai sau, mà ở trần thế này, Hội Thánh vừa là mầm ươm, vừa là dấu tích, vừa là bảo chứng. Như thế, cuộc đời không còn là bể khổ, tình người không còn là dây oan nữa! Đau khổ chỉ là thần dược, là rèn luyện vun gốc chiết cành tỉa lá cho hoa thêm đẹp, quả thêm ngon: Còn tội lỗi thì chỉ cần biết thành tâm hối cải là được xoá sạch bởi máu con Chiên Thiên Chúa tiệc cưới đã dọn sẵn, chỉ còn biết mặc áo trắng đẹp đẽ vào dự liên hoan, mà thánh lễ là Biểu tượng, là Bảo Chứng, là gieo mầm chuẩn bị. Mọi sinh hoạt trần thế dù có tầm thường, vụn vặt, eo sèo đến đâu mà được lồng vào lòng mến Chúa yêu người cũng đều chất chứa viên ngọc quí giá vô ngần. Cả vũ trụ nhân sinh đang còn như một giọt nước đục ngầu treo mong manh đầu ngọn cỏ hầu sắp rơi tan vào cát bụi, bỗng như được tia nắng sớm rọi vào trở thành viên ngọc muôn màu muôn sắc long lanh rạng ngời, không mê đời, không chán đời, không lánh đời, mà yêu đời với tất cả nỗi niềm của nó, vì trái tim bé mọn của mình đã được kết hợp với trái tim của Người: mà lại là Thiên Chúa Ngôi Hai, trái tim đã đổ đến giọt máu cuối cùng vì yêu nhân loại, để cứu độ những ai biết đón nhận ơn thiêng.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |