Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
10. LỄ RỬA TỘI
Với sự từ hôn, tôi đã thoát khỏi cái khuôn khổ của một đại gia đình phong kiến Nho giáo, tự thấy mình như được tự do bay bổng thanh thản. Vả chăng, sau ba năm dưới chế độ mới, thầy mẹ tôi cũng dần dần cảm thấy thời cũ đã qua: trong một xã hội hoàn toàn mới, mà cái kiểu đại gia đình quan lại địa chủ phong kiến Nho giáo không còn chỗ đứng nữa, việc kế thừa gia nghiệp không còn là vấn đề, cho nên các con cái cũng có phần được một sự tự do nào đó. Người em gái kế tôi thoát ly tham gia hẳn phong trào cứu quốc. Con gái đã thế huống là con trai! Hầu hết các gia đình có con trai cỡ tuổi tôi cũng đều để cho con thoát ly hoạt động trong các ngành, các đoàn thể, một số lớn tòng quân ra kháng chiến mặt trận. Cái nhiệm vụ của một người con trai trong gia đình theo quan niệm cũ dần dần phai nhạt. Ý muốn tòng giáo của tôi lại bắt đầu chỗi dậy khá mãnh liệt, mà một số trở ngại về mặt gia đình nay đã giảm đi, và vì về mặt kinh tế thì sự có mặt của tôi không phải là cần thiết, còn mặt thừa kế gia phong v.v… thì không thành vấn đề nữa. Và càng ngày tôi càng thấy chỉ những ngày ở lại nhà anh Trần Đức Đào, đi lại với các gia đình Công giáo ở xứ Đông Tràng, rồi chiều tối, có lúc sáng sớm đi nhà thờ… tôi mới thật thoải mái, chứ về với gia đình mình hình như tôi bị bơ vơ lạc lõng trong cái bầu khí của một cơ chế xã hội đang tan rã, mà cơ chế mới đang thành hình thì tôi thấy không hợp, khó bề thích nghi. Trong thời gian lui tới xứ Đông Tràng những lúc vào nhà thờ cùng anh chị em giáo dân để dự lễ đọc kinh tôi như cá được thả vào nước. Nhất là mỗi lần quì gối trước tượng Đức Mẹ Maria! Rồi qua Đức Mẹ Maria, Chúa Giêsu thực sự đã trở nên người mà tôi cảm nhận như là một người bạn đồng hành trong cuộc sống hiện tại thực tế của tôi đem lại ý nghĩa cho cuộc sống mà cách đó một năm tôi thấy như chỉ là oan khiên nghiệp chướng mà Đức Phật chỉ đem lại cho tôi một vài phút an ủi, rồi lại để tôi thui thủi một mình giữa đường đời cô quạnh. Một lần chuông Truyền tin gióng lên, đọc đến câu: “Và ở cùng chúng tôi!”, tôi lại thấy như Đức Mẹ dẫn tôi đến với con của Ngài vừa âu yếm bảo “từ nay con không cô đơn nữa, con của Mẹ đến ở với con đây”: tôi tìm được Chúa Giêsu là bạn. Tôi tìm đọc sách Tin Mừng và cuốn Gương Phúc. Hình ảnh người môn đệ được Chúa Giêsu yêu riêng dựa đầu vào ngực Chúa trong tấm ảnh tôi được thưởng cách đó 8 năm, trở thành hiện thực. Tôi chỉ muốn được như vị tông đồ thanh niên ấy, mà lúc gặp Đức Giêsu Na-da-rét lần đầu chắc cũng vào trạc tuổi tôi năm 1948. Trái tim Chúa Giêsu đã mở ra đón nhận tôi qua tay Đức Mẹ, tôi chỉ muốn dâng trái tim tôi cho Ngài qua bàn tay Đức Mẹ. Tuy chưa chịu phép rửa tội, nhưng những giây phút quì gối trước cung thánh ngước mắt nhìn lên nhà tạm với ngọn đèn chầu lung linh tôi đã cảm nghiệm được sự hiện diện thực sự của Ngài sau tấm màn che thay đổi màu theo các ngày lễ kính thánh trong tuần. Tôi đã phát nguyện thầm dâng trọn cuộc đời cho Ngài, không còn san sẻ tình yêu cho bất cứ ai khác, mà chỉ yêu mến tất cả mọi người trong Ngài, như Ngài và nhờ Ngài. Từ ấy đến nay đã gần 40 năm, đứa em gái út khi tôi từ giã gia đình đi tu hãy còn đòi bế thì nay đã sắp có khả năng thành bà ngoại; trong đời tôi cũng như ở bên ngoài, đã biết bao thay đổi, nhưng mỗi lần vào nhà thờ nhìn lên nhà tạm tôi vẫn như sống lại phút ân tình của buổi đầu. Tình yêu chẳng những không già, không phai nhạt. mà càng ngày càng son trẻ thêm đậm đà thêm, nồng nhiệt thêm. So với tôi “Tình Già” của Phan Khôi thì quả là trời với đất. Càng ngày tôi càng lặn sâu vào đáy khiêm hạ mà dâng lời tán tạ Chúa Giêsu đã quá thương tôi, ban cho tôi được biết tình yêu tuyệt đối của Ngài. Đến nay đã 61 tuổi, tôi nôn nóng chờ đợi khát khao cái giây phút được như bà chị thiêng liêng của tôi nay ở trên trời, đã kết thúc bài “kinh dâng hiến cho tình yêu xót thương của Thiên Chúa” rằng: “con muốn cứ mỗi nhịp đập của trái tim con, sẽ nhắc lại muôn vàn lần lời kinh hiến dâng này, cho đến lúc mà bóng tối trần gian tan biến: con được thưa lại với Chúa tấm tình yêu của con trong sự đối mặt muôn đời” (Tê-rê-sa Hài Đồng).
Tâm hồn tôi chơi vơi ngây ngất hương vị tình yêu vĩnh cửu. Mà tôi nghĩ rằng tâm hồn nào khi nói đến “tình yêu” cũng đều khơi dậy lòng khao khát khôn nguôi. Và từ trung tâm lò lửa yêu mến ấy, mối tương quan liên ngã vị khác bỗng như cũng được phần nào thông dự vào tuyệt đối tính và vĩnh cửu tính. Và cuộc đời nói chung, dù là có nhiều vị đắng cay lẫn lộn với ngọt bùi, cũng là đối tượng của tấm tình yêu bao quát ấy. Tôi cảm nghiệm rằng nếu Thiên Chúa là Tình Yêu và con người được tạo dựng theo hình ảnh Người, thì tự con người rốt cuộc cũng chỉ là tình yêu. Con người chỉ tự thể hiện được chính yếu tính của mình trong tình yêu mà thôi. Và đó là ý nghĩa và cứu cánh của nhân sinh. Vì thế, tôi nghĩ rằng người Kitô hữu sống độc thân dâng mình cho Thiên Chúa và trao ban cho mọi người, không nên gọi là đi tu, mà nên gọi là hiến dâng, hiến sĩ. Bởi vì chữ “tu” dầu sao cũng mang theo một âm hưởng thoát trần, lánh thế, trong lúc người hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa, cho tình mến Chúa yêu người - là noi theo Đấng Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng mọi người, đem tình yêu đến cho mọi người, mời gọi mọi người sống tình yêu ngay từ đời này, mọi nơi, mọi lúc, như gieo mầm xuống lòng đất mẹ để đi đến ngày triển nở trong lòng Cha trên Trời, chứ không phải thoát trần một gót tiên thiên, làm cái thân ngoại vật để phiêu diêu lãng đãng: thế mới đúng cái hình ảnh con người chân đi bén đất, vác Thánh Giá tình yêu nhỏ máu, mồ hôi và nước mắt thấm sâu vào đất, cho đất nẩy mầm sinh hoa kết quả trong mùa gặt huy hoàng: Hạt lúa thơm hương Trời được gieo vãi từ vị đất. Không yêu riêng một mình ai ngoài Chúa, vì chỉ trong Chúa mới thực hiện được cao vọng yêu mọi người, bất cứ ai, như yêu riêng một mình họ vậy… Yêu riêng mỗi một người như chỉ có một mình họ, chứ không phải chỉ thương chung tất cả mọi người, nhất là không yêu chung Nhân Loại viết hoa. Chữ hoa ấy chỉ là hoa hòe, hoa cành lá, khác với chữ hoa viết tên riêng: cô Xoài, cậu Ớt, Anh Mít, ông Bưởi, bà Chanh, em Kèo, cháu Cội mới là “hoa” thực sự là đối tượng tình yêu chân thành cụ thể, cụ thể đến mức chết vì người mình yêu như Giêsu trên khổ giá.
Nếu nói rằng chuyện đời tôi, thì đến đây, tôi đã có thể kết luận: đời tôi là GIÊSU KITÔ! Có viết trăm ngàn vạn chữ, có nói trăm ngàn vạn lời, thì chung quy chỉ có một lời, có một chữ Thánh Gioan tẩy giả, trước khi rút lui vào bóng tối, giới thiệu với các môn đệ đầu tiên của Chúa: này đây là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.
Đời tôi là GIÊSU, hay nói như Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Đức Giêsu Kitô sống trong tôi”. Đó vừa là hiện thực, vừa là chân trời lý tưởng luôn hướng tới, và cũng như chân trời, càng tiến tới càng thấy đích đến vẫn ở mãi chân trời xa. Hiện thực là Đức giêsu sinh hoạt trong mỗi linh hồn và trong Hội Thánh là trong các bí tích. Do đó, bước đầu là phải nhận bí tích Thánh tẩy. Và bước đầu đi vào ấy, tôi đã cất bước vào…
“Ngày 9-1-1949.
Tại Thánh Đường xứ Nghĩa Yên.
Linh mục rửa tội là cha xứ Nghĩa Yên: Lm. Nguyễn Ngọc Bang.
Linh mục dâng lễ là cha xứ Yên Nhiên: Lm. Phúc.
Cha đỡ đầu: Lm. Vương Đình Ái”.
Sự việc xảy ra như sau: cái quyết định sẽ rửa tội, tôi chỉ mới tự nói với mình như thế vào những ngày đầu niên học 1948-1949, nhất là những lúc vào cầu nguyện tại nhà thờ xứ Đông Tràng, hoặc dự các buổi kinh chiều, kinh sáng tại nhà anh Trần Đức Đào (nói là dự, nhưng chỉ là bằng cách lắng nghe và hợp ý với gia đình anh Đào, chứ bên ngoài thì tôi vẫn làm như người khách ngoại giáo ở trọ vậy thôi, chứ không trực tiếp tham gia vào các buổi cầu nguyện ấy). Tuy nhiên tôi vẫn chưa nghĩ đến việc sẽ thực hiện vào lúc nào, và cũng chưa trình bày với ai cả, chỉ thỉnh thoảng, nói qua với anh Đào cái ý muốn rửa tội thế thôi.
Thế rồi lễ Giáng Sinh năm 1948 gần đến… Từ ngày rời trường Đậu Quang Lĩnh và các gia đình bạn bè người Công giáo ở hai xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh, trở về Hương Sơn với gia đình cho đến gần Giáng Sinh năm 1948, tôi không có dịp trở lại thăm hỏi. Nhân dịp nghỉ lễ Giáng Sinh (bấy giờ Nhà nước còn cho nghỉ học vào dịp ấy), tôi xuống Đức Thọ để thăm gia đình anh Vương Đình Lương. Đêm Noel ấy, tôi dự lễ lại nhà thờ xứ Nghĩa Yên, rồi về dự tiệc khuya và ngủ tại nhà anh Lê Văn Lộc một học sinh thân của tôi năm 47- 48, nhà ở tại họ Bùi Xá, một họ lẻ của xứ Nghĩa Yên. Ngày 25-12 -1948, bữa ăn trưa, tôi được Linh mục Vương Đình Ái mời dự bữa cơm mừng lễ với các giáo viên trường Đậu Quang Lĩnh. Sau bữa ăn, lúc chỉ còn lại Linh mục Ái, Linh mục Nguyễn Ngọc Bang là cha xứ Nghĩa Yên, và anh Vương Đình Lương, tôi thưa với cha Ái về ý muốn (chứ chưa phải là quyết định thực hiện) lãnh nhận bí tích rửa tội. Linh mục, vốn được anh Lương giới thiệu về tôi, tỏ vẻ vui mừng nhưng còn ngơ ngác bán tín bán nghi. Hỏi tôi trong nụ cười:
– Thầy nói thật đấy à?
– Thưa cha, thật đấy ạ!
Cha Vương Đình Ái nói:
– Giáo lý thì thầy đã học trong sáu năm tại trường Thiên Hựu. Chỉ có việc rửa tội mà thôi, vậy thầy muốn khi nào?
– Khi nào cũng được, thưa cha, càng sớm càng tốt!
– Nhân dịp này được không?
– Dạ thưa được ạ!
– Nhưng hai cụ ở nhà nghĩ sao?
– Thưa cha, chắc là không tán thành đấy, nhưng thầy con tôn trọng tự do con cái lắm, sẽ không phản đối đâu; chỉ có mẹ con thì chắc sẽ buồn và giận đấy, nhưng vì thương con nên rồi cũng qua. Vậy ý cha tính sao?
– Vậy ta tiến hành ngay. Vài hôm nữa, tôi sẽ rảnh rang, chúng ta sẽ xuống Vinh, thầy cấm phòng một tuần rồi về rửa tội.
Ngài nhìn cuốn lịch rồi nói tiếp:
– Vào ngày 9 -1, lễ thánh Gia Thất.
Từ ngày đó tôi ở lại nhà chung xứ Nghĩa Yên chờ ngày đi Vinh cấm phòng: sống gần như một người tín hữu, dự lễ, đọc kinh và đọc bộ “le Christ, vie de l’âme” của cha Dom Columbia Marmion do cha Vương Đình Ái đưa cho. Vài ngày sau, hình như vào ngày mùng 1 hay mùng 2 tháng giêng năm l949, tôi xuống thuyền cùng cha Ái ra Vinh cấm phòng tại nhà dòng Phan-xi-cô, trước khi xuống Vinh, tôi viết một lá thơ cho thân phụ tôi, đại ý xin phép (thực ra là báo cáo) được rửa tội tòng giáo, và xin sự thông cảm của người về việc tôi đã cả dám thực thiện ý định trước khi được người trả lời, và tôi viết: “con tin chắc rằng, vì hiểu rõ con và thương con, thầy sẽ nhận lời, và mẹ sẽ đồng ý với thầy”.
Tu viện dòng phanxicô ở Vinh. Sau gần một ngày một đêm đi thuyền xuống Vinh, cha Ái đưa tôi đến cửa nhà dòng, kéo chuông gọi cửa. Một tu sĩ tuổi chừng 60, mặc áo nâu có lúp, thắt dây lưng gai mở cửa chào đón tươi vui nhẹ nhàng. Thầy dẫn chúng tôi vào nhà khách, mời ngồi và đi mời cha bề trên xuống tiếp khách. Lúc cửa phòng mở ra, cha bề trên bước vào tươi cười bắt tay cha Ái và tôi. Thật như là một “apparition”. Có thể nói tôi có cảm tưởng lạc vào động tiên mà cha bề trên là một vị tiên ông ra chào đón tôi. Tu viện phanxicô khác nào như vườn địa đàng nhỏ ở giữa lòng thành phố Vinh hoang tàn đỗ nát.
Trong bốn bức tường thành của tu viện, một khóm nhà vẫn y nguyên, xây cất theo hình chữ khẩu: bốn dãy nhà bọc lấy một hoa viên, phía sau là một vườn rau xanh tươi. Trong các hành lang thấp thoáng một vài tu sĩ đi lại, từ tốn, im lặng, dịu hiền. Còn cha bề trên tuy là một ông cố Tây, tuổi xấp xỉ lục tuần, nhưng chòm râu bạc phất phơ, dáng vóc gầy như hình hạc, trong bộ y phục mầu nâu, nên trông có dáng dấp nâu sồng dưa muối cửa thiền môn, thêm vào một cái gì âu yếm gần gũi. Ngài như xóa hẳn cái hình ảnh những ông cố Tây đã in khá sâu vào tâm trí tôi từ hồi còn bé. Tôi không thấy nơi Ngài cái gì là Tây nữa! Ngài đã vượt qua mọi biên giới phân chia: ngài chỉ là một nhà tu, cặp mắt, nụ cười, giọng nói (mặc dầu còn lơ lớ giọng người Pháp) đầy một tình người nhuần đượm tình thương, ngay cả ấn lượng thuộc về một “tôn giáo” hình như cũng không còn nữa là chỉ còn là một “con người” của “tình thương yêu” thuần túy. Rồi ngài dẫn tôi vào một căn phòng gọn nhỏ dành cho khách cấm phòng; cách trang trí căn phòng, cách xếp đặt bàn ghế, ngọn đèn, bình nước, ấm trà, thau rửa mặt, cuộn giấy vệ sinh: tất cả được sắp xếp như để đón chào, tạo điều kiện cho con người có cảm tưởng được săn sóc với sự lưu ý đến những chi tiết nhỏ nhặt trong các nhu cầu của con người. Ngay cả đôi guốc xếp gọn dưới gầm giường cũng như in dấu bàn tay săn sóc của mẹ hiền. Và đương nhiên trên bàn, ngoài cây thánh giá, có lọ hoa cắm rất Mỹ thuật. Những bữa ăn thanh đạm nhưng rất chu đáo. Tất cả đều có sự chắt chiu âu yếm làm ấm hẳn lòng người.
Như đã nói trên kia, giáo lý tôi đã học, gọi là tạm đủ, mọi vấn đề đã được giải tỏa, tuần cấm phòng chỉ là thời gian lắng đọng tâm tư trong khung cảnh tươi vui hiền hoà của một tu viện, với sự hiện diện của một tu sĩ đạo đức, với bầu không khí nguyện cầu, chứ không phải là thời gian suy tư học hỏi, tìm kiếm gì nữa. Đầu năm dương lịch vào tiết đông mà hồn tôi bừng nở như một đoá hoa xuân: vì trong hồn tôi, vị Chúa Xuân luôn thuở đã ngự xuống cách thiêng liêng: chỉ còn việc kiên định bằng một bước đi về mặt bí tích và về mặt Nhiệm Thể Chúa Kitô nữa mà thôi. Trong những buổi dạo trên các lối đi của vườn hoa, hay dưới các hành lang của tu viện, các tu sĩ và các dự tu (xấp xỉ lứa tuổi của tôi) gặp tôi chỉ cúi chào mỉm cười im lặng, nhưng như gửi đến cho tôi cả trăm nghìn lời chào đón vui mừng thương yêu. Sau bốn năm rời khỏi trường Thiên Hựu, tôi lại tìm thấy bóng dáng của các bạn học tu sĩ mà tôi đã phác hoạ vài nét ở trên kia: với một cái gì tươi vui hơn, hiền hoà hơn, thanh đạm hơn, nhẹ nhàng hơn. Trong lòng tôi khởi dậy lên một ước muốn tha thiết: “Nếu được cùng chung sống một cuộc đời với các anh em ấy thì hạnh phúc chừng nào!” Ý muốn sống đời tu sĩ đã gieo vào lòng tôi. Và từ lúc ấy, đối với tôi, đời Kitô hữu và đời hiến dâng trọn bản thân cho Chúa chỉ là một. Tôi không hình dung đời sống Kitô hữu của tôi dưới dạng thức nào khác hơn là dạng thức sống kết nghĩa với Chúa Giêsu như các tu sĩ Công giáo đang cùng nhau sống tại tu viện Phan-xi-cô giữa lòng một thành phố đổ nát điêu tàn. Dòng tu như biểu tượng cho sự bình an tái tạo, trùng tu, phục hồi, giữa cảnh trần gian bị đau khổ và tội lỗi phá đổ tan tành. Từ giây phút ấy cho đến nay, dù cuộc sống bên ngoài của tôi có phải chung lộn với cảnh đời muôn vẻ: Đại học, quân trường, ký túc xá ở giữa Paris đô hội, sinh hoạt văn hoá xã hội, ra vào các bộ các dinh, trong trại cải tạo, tại bàn giấy của cơ quan, thì bên trong tâm hồn tôi, vẫn là một tu viện vô hình, nơi tôi hiến dâng bản thân mình cho một mình Chúa dưới sự bảo vệ đùm bọc chở che của Đức Mẹ Maria mà thôi: không rào ngăn, không lời khấn, nhưng vẫn gắn bó keo sơn, có lúc chặt, có lúc lơi, nhưng không bao giờ dứt hẳn.
Sau tuần cấm phòng tôi trở về Nghĩa Yên, và lễ Rửa Tội của tôi được cử hành khá trọng thể, hơi có vẻ “triomphalisme” một tý! Rửa tội xong, tôi được mời ra trước cửa Thánh đường có vài lời cùng toàn thể anh chị em giáo hữu, và sau đó anh chị em vây quanh tôi gần như rước tôi vào nhà xứ giữa bài hát “Hoan hô Chúa Cứu Thế” vang lừng! Cái tin con trai cụ Hiệp Niêm trở lại được loan đi khắp địa phận Vinh như một “sự cố” khá quan trọng. Một số giáo xứ muốn mời tôi đến, gần như để hơi “phô trương” một tí, theo kiểu để trình bày chiến lợi phẩm! Bây giờ suy gẫm lại tôi thấy: đành rằng sự đón tiếp của các cha, các anh chị em giáo hữu dành cho tôi là do lòng vui mừng vì “một con chiên lạc” trở về, nhưng có lẽ thiếu khôn ngoan nhất là về sự “khiêm nhường” mà tôi cần phải được đào luyện làm nền tảng cho lâu đài thiêng liêng sau này. Ngoài ra trong cái bối cảnh xã hội chính trị lúc bấy giờ ở Nghệ Tĩnh, không khỏi có những dư luận bàn tán xôn xao, ngộ nhận, xuyên tạc (và có thể có sự lạm dụng) không có lợi cho ai cả. Lúc ấy dường như người ta đã quên rằng mỗi khi Chúa làm phép lạ, Chúa đều dặn phải kín đáo không được “rùm beng”. Việc “tôi trở lại đạo” năm 1949 ở địa phận Vinh quả có hơi “rùm beng” tí chút.
Trong tuần tôi cấm phòng ở Vinh, Linh mục Vương Đình Ái đã tới gia đình tôi, trao đổi với thân phụ tôi, và ngài chỉ nói với tôi:
– Cụ không được vui lắm, nhưng cụ hiểu và không có gì trách giận anh và tôi cả!
Thế là tôi yên tâm trở lại Hương Sơn.
Trên đường về nhà, từ đàng xa, thấy cái cổng nhà tôi, tôi hồi hộp lo âu, không biết sự gặp gỡ sẽ xảy ra như thế nào. Nhất là mẹ tôi, người sẽ có phản ứng gì? Càng đến gần càng xao xuyến… Nhưng, khác hẳn sự tôi lo âu! Tôi vào nhà, thày tôi chỉ hỏi: “con đã về?”. Nét mặt người không có vẻ gì là tức giận cả, chỉ có nét mặt đăm chiêu tư lư. Còn mẹ tôi, khi tôi chào người, người gỏn gọn có một tiếng: “Ừ”, rồi cúi đầu có vẻ giận. Bữa cơm đầu tiên, tôi thấy có vẻ thịnh soạn hơn thường một chút. Thế là tôi thấy tình thương gia đình vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có cái buồn buồn như thoảng nhẹ bao phủ tất cả mọi người trong nhà. Ít trao đổi hơn, và trong lời nói có cái như ngượng ngập nhưng không có vẻ gì là hằn học, oán trách cả. Riêng tôi, tôi cảm thấy lòng như ướp dịu một cảm tình vừa xót xa vừa êm dịu: người cũng như cảnh, đến cả con chó con mèo con gà, cũng thấy quyến luyến ưu ái hơn trước. Và dần dà tôi thấy như mọi người đối với tôi cũng như có cái gì quyến luyến bịn rịn dịu dàng hơn. Vì những ngày trước đó, tôi như một người bất thường, ủ dột, hay nóng nảy, mà nay - thì hình như có cái gì khoáng đạt dịu dàng êm ái, nên có cái gì hấp dẫn hơn. Vì những ngày trước đó và nay đã có cái gì khác! Các em nhỏ, các cháu con anh tôi trở nên quấn quít bên tôi nhiều hơn trước! Tối hôm ấy, sau khi cả nhà đi ngủ, thày tôi bảo tôi lại gần người trò chuyện. Đại khái, người nói:
“Thày không vui gì lắm về việc con theo đạo. Nhưng thày cũng không có ác cảm gì với Công giáo: đạo nào cũng dạy việc tốt lành. Vả lại, thày cũng dự đoán trước, nếu con có theo một tôn giáo nào, thì phải theo Công giáo, chứ Phật giáo đối với con chỉ là một cách tìm an ủi thoa dịu ưu phiền mà thôi. Nhưng nếu con tìm được hạnh phúc trong niềm tin, thì thày cũng mừng cho con. Thày chỉ ngại là việc con theo đạo sẽ bị hiểu lầm xuyên tạc, có thể gây khó khăn cho bản thân và gia đình. Con cố gắng tránh xa những chuyện dính líu vào chính trị rắc rối, cứ chuyên tâm vào đời sống tôn giáo thuần túy và chân chính, để khỏi hại cho bản thân, khỏi liên luỵ đến gia đình là được”. Tôi cũng bảo đảm với người là tôi nhất quyết tuân theo lời người dạy, và trong thâm tâm tôi, ý hướng của tôi cũng như vậy, chứ không có gì khác! Lòng tôi đã hướng về một cuộc sống xa hẳn mọi việc ở đời, hiến thân cho Chúa trong một đời tu hành có hướng khổ hạnh và ẩn dật chứ không thiên về hoạt động giữa đời.
Với sự từ hôn, tôi đã thoát khỏi cái khuôn khổ của một đại gia đình phong kiến Nho giáo, tự thấy mình như được tự do bay bổng thanh thản. Vả chăng, sau ba năm dưới chế độ mới, thầy mẹ tôi cũng dần dần cảm thấy thời cũ đã qua: trong một xã hội hoàn toàn mới, mà cái kiểu đại gia đình quan lại địa chủ phong kiến Nho giáo không còn chỗ đứng nữa, việc kế thừa gia nghiệp không còn là vấn đề, cho nên các con cái cũng có phần được một sự tự do nào đó. Người em gái kế tôi thoát ly tham gia hẳn phong trào cứu quốc. Con gái đã thế huống là con trai! Hầu hết các gia đình có con trai cỡ tuổi tôi cũng đều để cho con thoát ly hoạt động trong các ngành, các đoàn thể, một số lớn tòng quân ra kháng chiến mặt trận. Cái nhiệm vụ của một người con trai trong gia đình theo quan niệm cũ dần dần phai nhạt. Ý muốn tòng giáo của tôi lại bắt đầu chỗi dậy khá mãnh liệt, mà một số trở ngại về mặt gia đình nay đã giảm đi, và vì về mặt kinh tế thì sự có mặt của tôi không phải là cần thiết, còn mặt thừa kế gia phong v.v… thì không thành vấn đề nữa. Và càng ngày tôi càng thấy chỉ những ngày ở lại nhà anh Trần Đức Đào, đi lại với các gia đình Công giáo ở xứ Đông Tràng, rồi chiều tối, có lúc sáng sớm đi nhà thờ… tôi mới thật thoải mái, chứ về với gia đình mình hình như tôi bị bơ vơ lạc lõng trong cái bầu khí của một cơ chế xã hội đang tan rã, mà cơ chế mới đang thành hình thì tôi thấy không hợp, khó bề thích nghi. Trong thời gian lui tới xứ Đông Tràng những lúc vào nhà thờ cùng anh chị em giáo dân để dự lễ đọc kinh tôi như cá được thả vào nước. Nhất là mỗi lần quì gối trước tượng Đức Mẹ Maria! Rồi qua Đức Mẹ Maria, Chúa Giêsu thực sự đã trở nên người mà tôi cảm nhận như là một người bạn đồng hành trong cuộc sống hiện tại thực tế của tôi đem lại ý nghĩa cho cuộc sống mà cách đó một năm tôi thấy như chỉ là oan khiên nghiệp chướng mà Đức Phật chỉ đem lại cho tôi một vài phút an ủi, rồi lại để tôi thui thủi một mình giữa đường đời cô quạnh. Một lần chuông Truyền tin gióng lên, đọc đến câu: “Và ở cùng chúng tôi!”, tôi lại thấy như Đức Mẹ dẫn tôi đến với con của Ngài vừa âu yếm bảo “từ nay con không cô đơn nữa, con của Mẹ đến ở với con đây”: tôi tìm được Chúa Giêsu là bạn. Tôi tìm đọc sách Tin Mừng và cuốn Gương Phúc. Hình ảnh người môn đệ được Chúa Giêsu yêu riêng dựa đầu vào ngực Chúa trong tấm ảnh tôi được thưởng cách đó 8 năm, trở thành hiện thực. Tôi chỉ muốn được như vị tông đồ thanh niên ấy, mà lúc gặp Đức Giêsu Na-da-rét lần đầu chắc cũng vào trạc tuổi tôi năm 1948. Trái tim Chúa Giêsu đã mở ra đón nhận tôi qua tay Đức Mẹ, tôi chỉ muốn dâng trái tim tôi cho Ngài qua bàn tay Đức Mẹ. Tuy chưa chịu phép rửa tội, nhưng những giây phút quì gối trước cung thánh ngước mắt nhìn lên nhà tạm với ngọn đèn chầu lung linh tôi đã cảm nghiệm được sự hiện diện thực sự của Ngài sau tấm màn che thay đổi màu theo các ngày lễ kính thánh trong tuần. Tôi đã phát nguyện thầm dâng trọn cuộc đời cho Ngài, không còn san sẻ tình yêu cho bất cứ ai khác, mà chỉ yêu mến tất cả mọi người trong Ngài, như Ngài và nhờ Ngài. Từ ấy đến nay đã gần 40 năm, đứa em gái út khi tôi từ giã gia đình đi tu hãy còn đòi bế thì nay đã sắp có khả năng thành bà ngoại; trong đời tôi cũng như ở bên ngoài, đã biết bao thay đổi, nhưng mỗi lần vào nhà thờ nhìn lên nhà tạm tôi vẫn như sống lại phút ân tình của buổi đầu. Tình yêu chẳng những không già, không phai nhạt. mà càng ngày càng son trẻ thêm đậm đà thêm, nồng nhiệt thêm. So với tôi “Tình Già” của Phan Khôi thì quả là trời với đất. Càng ngày tôi càng lặn sâu vào đáy khiêm hạ mà dâng lời tán tạ Chúa Giêsu đã quá thương tôi, ban cho tôi được biết tình yêu tuyệt đối của Ngài. Đến nay đã 61 tuổi, tôi nôn nóng chờ đợi khát khao cái giây phút được như bà chị thiêng liêng của tôi nay ở trên trời, đã kết thúc bài “kinh dâng hiến cho tình yêu xót thương của Thiên Chúa” rằng: “con muốn cứ mỗi nhịp đập của trái tim con, sẽ nhắc lại muôn vàn lần lời kinh hiến dâng này, cho đến lúc mà bóng tối trần gian tan biến: con được thưa lại với Chúa tấm tình yêu của con trong sự đối mặt muôn đời” (Tê-rê-sa Hài Đồng).
Tâm hồn tôi chơi vơi ngây ngất hương vị tình yêu vĩnh cửu. Mà tôi nghĩ rằng tâm hồn nào khi nói đến “tình yêu” cũng đều khơi dậy lòng khao khát khôn nguôi. Và từ trung tâm lò lửa yêu mến ấy, mối tương quan liên ngã vị khác bỗng như cũng được phần nào thông dự vào tuyệt đối tính và vĩnh cửu tính. Và cuộc đời nói chung, dù là có nhiều vị đắng cay lẫn lộn với ngọt bùi, cũng là đối tượng của tấm tình yêu bao quát ấy. Tôi cảm nghiệm rằng nếu Thiên Chúa là Tình Yêu và con người được tạo dựng theo hình ảnh Người, thì tự con người rốt cuộc cũng chỉ là tình yêu. Con người chỉ tự thể hiện được chính yếu tính của mình trong tình yêu mà thôi. Và đó là ý nghĩa và cứu cánh của nhân sinh. Vì thế, tôi nghĩ rằng người Kitô hữu sống độc thân dâng mình cho Thiên Chúa và trao ban cho mọi người, không nên gọi là đi tu, mà nên gọi là hiến dâng, hiến sĩ. Bởi vì chữ “tu” dầu sao cũng mang theo một âm hưởng thoát trần, lánh thế, trong lúc người hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa, cho tình mến Chúa yêu người - là noi theo Đấng Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng mọi người, đem tình yêu đến cho mọi người, mời gọi mọi người sống tình yêu ngay từ đời này, mọi nơi, mọi lúc, như gieo mầm xuống lòng đất mẹ để đi đến ngày triển nở trong lòng Cha trên Trời, chứ không phải thoát trần một gót tiên thiên, làm cái thân ngoại vật để phiêu diêu lãng đãng: thế mới đúng cái hình ảnh con người chân đi bén đất, vác Thánh Giá tình yêu nhỏ máu, mồ hôi và nước mắt thấm sâu vào đất, cho đất nẩy mầm sinh hoa kết quả trong mùa gặt huy hoàng: Hạt lúa thơm hương Trời được gieo vãi từ vị đất. Không yêu riêng một mình ai ngoài Chúa, vì chỉ trong Chúa mới thực hiện được cao vọng yêu mọi người, bất cứ ai, như yêu riêng một mình họ vậy… Yêu riêng mỗi một người như chỉ có một mình họ, chứ không phải chỉ thương chung tất cả mọi người, nhất là không yêu chung Nhân Loại viết hoa. Chữ hoa ấy chỉ là hoa hòe, hoa cành lá, khác với chữ hoa viết tên riêng: cô Xoài, cậu Ớt, Anh Mít, ông Bưởi, bà Chanh, em Kèo, cháu Cội mới là “hoa” thực sự là đối tượng tình yêu chân thành cụ thể, cụ thể đến mức chết vì người mình yêu như Giêsu trên khổ giá.
Nếu nói rằng chuyện đời tôi, thì đến đây, tôi đã có thể kết luận: đời tôi là GIÊSU KITÔ! Có viết trăm ngàn vạn chữ, có nói trăm ngàn vạn lời, thì chung quy chỉ có một lời, có một chữ Thánh Gioan tẩy giả, trước khi rút lui vào bóng tối, giới thiệu với các môn đệ đầu tiên của Chúa: này đây là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.
Đời tôi là GIÊSU, hay nói như Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Đức Giêsu Kitô sống trong tôi”. Đó vừa là hiện thực, vừa là chân trời lý tưởng luôn hướng tới, và cũng như chân trời, càng tiến tới càng thấy đích đến vẫn ở mãi chân trời xa. Hiện thực là Đức giêsu sinh hoạt trong mỗi linh hồn và trong Hội Thánh là trong các bí tích. Do đó, bước đầu là phải nhận bí tích Thánh tẩy. Và bước đầu đi vào ấy, tôi đã cất bước vào…
“Ngày 9-1-1949.
Tại Thánh Đường xứ Nghĩa Yên.
Linh mục rửa tội là cha xứ Nghĩa Yên: Lm. Nguyễn Ngọc Bang.
Linh mục dâng lễ là cha xứ Yên Nhiên: Lm. Phúc.
Cha đỡ đầu: Lm. Vương Đình Ái”.
Sự việc xảy ra như sau: cái quyết định sẽ rửa tội, tôi chỉ mới tự nói với mình như thế vào những ngày đầu niên học 1948-1949, nhất là những lúc vào cầu nguyện tại nhà thờ xứ Đông Tràng, hoặc dự các buổi kinh chiều, kinh sáng tại nhà anh Trần Đức Đào (nói là dự, nhưng chỉ là bằng cách lắng nghe và hợp ý với gia đình anh Đào, chứ bên ngoài thì tôi vẫn làm như người khách ngoại giáo ở trọ vậy thôi, chứ không trực tiếp tham gia vào các buổi cầu nguyện ấy). Tuy nhiên tôi vẫn chưa nghĩ đến việc sẽ thực hiện vào lúc nào, và cũng chưa trình bày với ai cả, chỉ thỉnh thoảng, nói qua với anh Đào cái ý muốn rửa tội thế thôi.
Thế rồi lễ Giáng Sinh năm 1948 gần đến… Từ ngày rời trường Đậu Quang Lĩnh và các gia đình bạn bè người Công giáo ở hai xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh, trở về Hương Sơn với gia đình cho đến gần Giáng Sinh năm 1948, tôi không có dịp trở lại thăm hỏi. Nhân dịp nghỉ lễ Giáng Sinh (bấy giờ Nhà nước còn cho nghỉ học vào dịp ấy), tôi xuống Đức Thọ để thăm gia đình anh Vương Đình Lương. Đêm Noel ấy, tôi dự lễ lại nhà thờ xứ Nghĩa Yên, rồi về dự tiệc khuya và ngủ tại nhà anh Lê Văn Lộc một học sinh thân của tôi năm 47- 48, nhà ở tại họ Bùi Xá, một họ lẻ của xứ Nghĩa Yên. Ngày 25-12 -1948, bữa ăn trưa, tôi được Linh mục Vương Đình Ái mời dự bữa cơm mừng lễ với các giáo viên trường Đậu Quang Lĩnh. Sau bữa ăn, lúc chỉ còn lại Linh mục Ái, Linh mục Nguyễn Ngọc Bang là cha xứ Nghĩa Yên, và anh Vương Đình Lương, tôi thưa với cha Ái về ý muốn (chứ chưa phải là quyết định thực hiện) lãnh nhận bí tích rửa tội. Linh mục, vốn được anh Lương giới thiệu về tôi, tỏ vẻ vui mừng nhưng còn ngơ ngác bán tín bán nghi. Hỏi tôi trong nụ cười:
– Thầy nói thật đấy à?
– Thưa cha, thật đấy ạ!
Cha Vương Đình Ái nói:
– Giáo lý thì thầy đã học trong sáu năm tại trường Thiên Hựu. Chỉ có việc rửa tội mà thôi, vậy thầy muốn khi nào?
– Khi nào cũng được, thưa cha, càng sớm càng tốt!
– Nhân dịp này được không?
– Dạ thưa được ạ!
– Nhưng hai cụ ở nhà nghĩ sao?
– Thưa cha, chắc là không tán thành đấy, nhưng thầy con tôn trọng tự do con cái lắm, sẽ không phản đối đâu; chỉ có mẹ con thì chắc sẽ buồn và giận đấy, nhưng vì thương con nên rồi cũng qua. Vậy ý cha tính sao?
– Vậy ta tiến hành ngay. Vài hôm nữa, tôi sẽ rảnh rang, chúng ta sẽ xuống Vinh, thầy cấm phòng một tuần rồi về rửa tội.
Ngài nhìn cuốn lịch rồi nói tiếp:
– Vào ngày 9 -1, lễ thánh Gia Thất.
Từ ngày đó tôi ở lại nhà chung xứ Nghĩa Yên chờ ngày đi Vinh cấm phòng: sống gần như một người tín hữu, dự lễ, đọc kinh và đọc bộ “le Christ, vie de l’âme” của cha Dom Columbia Marmion do cha Vương Đình Ái đưa cho. Vài ngày sau, hình như vào ngày mùng 1 hay mùng 2 tháng giêng năm l949, tôi xuống thuyền cùng cha Ái ra Vinh cấm phòng tại nhà dòng Phan-xi-cô, trước khi xuống Vinh, tôi viết một lá thơ cho thân phụ tôi, đại ý xin phép (thực ra là báo cáo) được rửa tội tòng giáo, và xin sự thông cảm của người về việc tôi đã cả dám thực thiện ý định trước khi được người trả lời, và tôi viết: “con tin chắc rằng, vì hiểu rõ con và thương con, thầy sẽ nhận lời, và mẹ sẽ đồng ý với thầy”.
Tu viện dòng phanxicô ở Vinh. Sau gần một ngày một đêm đi thuyền xuống Vinh, cha Ái đưa tôi đến cửa nhà dòng, kéo chuông gọi cửa. Một tu sĩ tuổi chừng 60, mặc áo nâu có lúp, thắt dây lưng gai mở cửa chào đón tươi vui nhẹ nhàng. Thầy dẫn chúng tôi vào nhà khách, mời ngồi và đi mời cha bề trên xuống tiếp khách. Lúc cửa phòng mở ra, cha bề trên bước vào tươi cười bắt tay cha Ái và tôi. Thật như là một “apparition”. Có thể nói tôi có cảm tưởng lạc vào động tiên mà cha bề trên là một vị tiên ông ra chào đón tôi. Tu viện phanxicô khác nào như vườn địa đàng nhỏ ở giữa lòng thành phố Vinh hoang tàn đỗ nát.
Trong bốn bức tường thành của tu viện, một khóm nhà vẫn y nguyên, xây cất theo hình chữ khẩu: bốn dãy nhà bọc lấy một hoa viên, phía sau là một vườn rau xanh tươi. Trong các hành lang thấp thoáng một vài tu sĩ đi lại, từ tốn, im lặng, dịu hiền. Còn cha bề trên tuy là một ông cố Tây, tuổi xấp xỉ lục tuần, nhưng chòm râu bạc phất phơ, dáng vóc gầy như hình hạc, trong bộ y phục mầu nâu, nên trông có dáng dấp nâu sồng dưa muối cửa thiền môn, thêm vào một cái gì âu yếm gần gũi. Ngài như xóa hẳn cái hình ảnh những ông cố Tây đã in khá sâu vào tâm trí tôi từ hồi còn bé. Tôi không thấy nơi Ngài cái gì là Tây nữa! Ngài đã vượt qua mọi biên giới phân chia: ngài chỉ là một nhà tu, cặp mắt, nụ cười, giọng nói (mặc dầu còn lơ lớ giọng người Pháp) đầy một tình người nhuần đượm tình thương, ngay cả ấn lượng thuộc về một “tôn giáo” hình như cũng không còn nữa là chỉ còn là một “con người” của “tình thương yêu” thuần túy. Rồi ngài dẫn tôi vào một căn phòng gọn nhỏ dành cho khách cấm phòng; cách trang trí căn phòng, cách xếp đặt bàn ghế, ngọn đèn, bình nước, ấm trà, thau rửa mặt, cuộn giấy vệ sinh: tất cả được sắp xếp như để đón chào, tạo điều kiện cho con người có cảm tưởng được săn sóc với sự lưu ý đến những chi tiết nhỏ nhặt trong các nhu cầu của con người. Ngay cả đôi guốc xếp gọn dưới gầm giường cũng như in dấu bàn tay săn sóc của mẹ hiền. Và đương nhiên trên bàn, ngoài cây thánh giá, có lọ hoa cắm rất Mỹ thuật. Những bữa ăn thanh đạm nhưng rất chu đáo. Tất cả đều có sự chắt chiu âu yếm làm ấm hẳn lòng người.
Như đã nói trên kia, giáo lý tôi đã học, gọi là tạm đủ, mọi vấn đề đã được giải tỏa, tuần cấm phòng chỉ là thời gian lắng đọng tâm tư trong khung cảnh tươi vui hiền hoà của một tu viện, với sự hiện diện của một tu sĩ đạo đức, với bầu không khí nguyện cầu, chứ không phải là thời gian suy tư học hỏi, tìm kiếm gì nữa. Đầu năm dương lịch vào tiết đông mà hồn tôi bừng nở như một đoá hoa xuân: vì trong hồn tôi, vị Chúa Xuân luôn thuở đã ngự xuống cách thiêng liêng: chỉ còn việc kiên định bằng một bước đi về mặt bí tích và về mặt Nhiệm Thể Chúa Kitô nữa mà thôi. Trong những buổi dạo trên các lối đi của vườn hoa, hay dưới các hành lang của tu viện, các tu sĩ và các dự tu (xấp xỉ lứa tuổi của tôi) gặp tôi chỉ cúi chào mỉm cười im lặng, nhưng như gửi đến cho tôi cả trăm nghìn lời chào đón vui mừng thương yêu. Sau bốn năm rời khỏi trường Thiên Hựu, tôi lại tìm thấy bóng dáng của các bạn học tu sĩ mà tôi đã phác hoạ vài nét ở trên kia: với một cái gì tươi vui hơn, hiền hoà hơn, thanh đạm hơn, nhẹ nhàng hơn. Trong lòng tôi khởi dậy lên một ước muốn tha thiết: “Nếu được cùng chung sống một cuộc đời với các anh em ấy thì hạnh phúc chừng nào!” Ý muốn sống đời tu sĩ đã gieo vào lòng tôi. Và từ lúc ấy, đối với tôi, đời Kitô hữu và đời hiến dâng trọn bản thân cho Chúa chỉ là một. Tôi không hình dung đời sống Kitô hữu của tôi dưới dạng thức nào khác hơn là dạng thức sống kết nghĩa với Chúa Giêsu như các tu sĩ Công giáo đang cùng nhau sống tại tu viện Phan-xi-cô giữa lòng một thành phố đổ nát điêu tàn. Dòng tu như biểu tượng cho sự bình an tái tạo, trùng tu, phục hồi, giữa cảnh trần gian bị đau khổ và tội lỗi phá đổ tan tành. Từ giây phút ấy cho đến nay, dù cuộc sống bên ngoài của tôi có phải chung lộn với cảnh đời muôn vẻ: Đại học, quân trường, ký túc xá ở giữa Paris đô hội, sinh hoạt văn hoá xã hội, ra vào các bộ các dinh, trong trại cải tạo, tại bàn giấy của cơ quan, thì bên trong tâm hồn tôi, vẫn là một tu viện vô hình, nơi tôi hiến dâng bản thân mình cho một mình Chúa dưới sự bảo vệ đùm bọc chở che của Đức Mẹ Maria mà thôi: không rào ngăn, không lời khấn, nhưng vẫn gắn bó keo sơn, có lúc chặt, có lúc lơi, nhưng không bao giờ dứt hẳn.
Sau tuần cấm phòng tôi trở về Nghĩa Yên, và lễ Rửa Tội của tôi được cử hành khá trọng thể, hơi có vẻ “triomphalisme” một tý! Rửa tội xong, tôi được mời ra trước cửa Thánh đường có vài lời cùng toàn thể anh chị em giáo hữu, và sau đó anh chị em vây quanh tôi gần như rước tôi vào nhà xứ giữa bài hát “Hoan hô Chúa Cứu Thế” vang lừng! Cái tin con trai cụ Hiệp Niêm trở lại được loan đi khắp địa phận Vinh như một “sự cố” khá quan trọng. Một số giáo xứ muốn mời tôi đến, gần như để hơi “phô trương” một tí, theo kiểu để trình bày chiến lợi phẩm! Bây giờ suy gẫm lại tôi thấy: đành rằng sự đón tiếp của các cha, các anh chị em giáo hữu dành cho tôi là do lòng vui mừng vì “một con chiên lạc” trở về, nhưng có lẽ thiếu khôn ngoan nhất là về sự “khiêm nhường” mà tôi cần phải được đào luyện làm nền tảng cho lâu đài thiêng liêng sau này. Ngoài ra trong cái bối cảnh xã hội chính trị lúc bấy giờ ở Nghệ Tĩnh, không khỏi có những dư luận bàn tán xôn xao, ngộ nhận, xuyên tạc (và có thể có sự lạm dụng) không có lợi cho ai cả. Lúc ấy dường như người ta đã quên rằng mỗi khi Chúa làm phép lạ, Chúa đều dặn phải kín đáo không được “rùm beng”. Việc “tôi trở lại đạo” năm 1949 ở địa phận Vinh quả có hơi “rùm beng” tí chút.
Trong tuần tôi cấm phòng ở Vinh, Linh mục Vương Đình Ái đã tới gia đình tôi, trao đổi với thân phụ tôi, và ngài chỉ nói với tôi:
– Cụ không được vui lắm, nhưng cụ hiểu và không có gì trách giận anh và tôi cả!
Thế là tôi yên tâm trở lại Hương Sơn.
Trên đường về nhà, từ đàng xa, thấy cái cổng nhà tôi, tôi hồi hộp lo âu, không biết sự gặp gỡ sẽ xảy ra như thế nào. Nhất là mẹ tôi, người sẽ có phản ứng gì? Càng đến gần càng xao xuyến… Nhưng, khác hẳn sự tôi lo âu! Tôi vào nhà, thày tôi chỉ hỏi: “con đã về?”. Nét mặt người không có vẻ gì là tức giận cả, chỉ có nét mặt đăm chiêu tư lư. Còn mẹ tôi, khi tôi chào người, người gỏn gọn có một tiếng: “Ừ”, rồi cúi đầu có vẻ giận. Bữa cơm đầu tiên, tôi thấy có vẻ thịnh soạn hơn thường một chút. Thế là tôi thấy tình thương gia đình vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có cái buồn buồn như thoảng nhẹ bao phủ tất cả mọi người trong nhà. Ít trao đổi hơn, và trong lời nói có cái như ngượng ngập nhưng không có vẻ gì là hằn học, oán trách cả. Riêng tôi, tôi cảm thấy lòng như ướp dịu một cảm tình vừa xót xa vừa êm dịu: người cũng như cảnh, đến cả con chó con mèo con gà, cũng thấy quyến luyến ưu ái hơn trước. Và dần dà tôi thấy như mọi người đối với tôi cũng như có cái gì quyến luyến bịn rịn dịu dàng hơn. Vì những ngày trước đó, tôi như một người bất thường, ủ dột, hay nóng nảy, mà nay - thì hình như có cái gì khoáng đạt dịu dàng êm ái, nên có cái gì hấp dẫn hơn. Vì những ngày trước đó và nay đã có cái gì khác! Các em nhỏ, các cháu con anh tôi trở nên quấn quít bên tôi nhiều hơn trước! Tối hôm ấy, sau khi cả nhà đi ngủ, thày tôi bảo tôi lại gần người trò chuyện. Đại khái, người nói:
“Thày không vui gì lắm về việc con theo đạo. Nhưng thày cũng không có ác cảm gì với Công giáo: đạo nào cũng dạy việc tốt lành. Vả lại, thày cũng dự đoán trước, nếu con có theo một tôn giáo nào, thì phải theo Công giáo, chứ Phật giáo đối với con chỉ là một cách tìm an ủi thoa dịu ưu phiền mà thôi. Nhưng nếu con tìm được hạnh phúc trong niềm tin, thì thày cũng mừng cho con. Thày chỉ ngại là việc con theo đạo sẽ bị hiểu lầm xuyên tạc, có thể gây khó khăn cho bản thân và gia đình. Con cố gắng tránh xa những chuyện dính líu vào chính trị rắc rối, cứ chuyên tâm vào đời sống tôn giáo thuần túy và chân chính, để khỏi hại cho bản thân, khỏi liên luỵ đến gia đình là được”. Tôi cũng bảo đảm với người là tôi nhất quyết tuân theo lời người dạy, và trong thâm tâm tôi, ý hướng của tôi cũng như vậy, chứ không có gì khác! Lòng tôi đã hướng về một cuộc sống xa hẳn mọi việc ở đời, hiến thân cho Chúa trong một đời tu hành có hướng khổ hạnh và ẩn dật chứ không thiên về hoạt động giữa đời.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |