Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
20. HÀNH HƯƠNG HÀ NỘI
Lại xin tiếp tục sau khi giai đoạn ở trại học tập Sông Mao trở về Đà Lạt, rời khỏi cuộc sống tự do bên ngoài, lúc Sài Gòn chưa giải phóng và trở lại Đà Lạt khi hai miền Nam - Bắc đã thống nhất hoàn toàn mới một Quốc Hội duy nhất, một Nhà Nước duy nhất, đang bước những bước đầu đưa miền Nam lên Xã hội chủ nghĩa; rời khỏi vị trí một giáo sư Đại học trong xã hội, bắt đầu tập nĩa đất trồng rau, với tâm trạng của một người chưa có quyền công dân, không nói thì cũng biết là sự thích ứng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và gặp khó khăn như sức khoẻ, tâm lý, suy tư, tiếp xúc với xã hội, cũng như những nhu cầu sinh hoạt về mọi mặt. Tuy nhiên, bù lại thì có được một điều an ủi là Đất nước thống nhất và gia đình đoàn tụ. Trên kia đã nói qua về vấn đề “thống nhất”, nay xin sang vấn đề “đoàn tụ”.
Sau này thống nhất, người trong gia đình mà tôi đã gặp mặt đầu tiên là Cẩn (bạn cũ và là em rể tôi) cùng đi với đứa con gái của anh ta, gọi tôi bằng cậu, vào thăm tôi tại trại cải tạo Sông Mao. Tiếp đến là anh Viện tôi và đứa em gái áp út của tôi, cũng vào thăm tôi tại Sông Mao. Hai cuộc gặp gỡ ấy, tuy bản chất là vui mừng, nhưng bề ngoài thì chẳng mấy bình thường. Tôi còn nhớ đứa cháu gái cứ trố mắt nhìn tôi dưới dạng một ngụy quân học tập cải tạo. Thật khó tả! Cậu ruột nó đấy, bạn thân ngày xưa của bố nó đấy! Nhưng lại là sĩ quan ngụy, đánh thuê cho ngụy đấy! (Đó là chưa nói: Công giáo trí thức cỡ lớn đấy!). Còn cô em gái thì cứ ôm mặt khóc, tôi phải tìm cách nói đùa chọc cho cô ta cười lên, để bớt nỗi thê thảm! Chỉ có với anh Viện là tương đối thoải mái. Sau ngày trở về lại Đà Lạt, anh Viện là người đầu tiên đến thăm tôi tại trường Đại học Đà Lạt. Điều đáng nói nhất là trong một buổi tọa đàm do trường tổ chức tại phòng khách nhà Viện trưởng cũ. Tôi ngồi nghe anh Viện nói chuyện, mà cứ như trong mộng. Thật khó ngờ được rằng lại có cái ngày anh Viện tôi đến thuyết trình cho anh em cán bộ trường Đại học Đà Lạt, ngồi tại chính cái phòng khách ấy! Và lẽ ra, ít nhất tôi cũng được đón anh tôi với tư cách giáo sư duy nhất ở lại viện Đại học, lúc toàn ban giáo sư di tản, thế nhưng, lại ngồi nghe anh như một anh ngụy quân đi học tập về chưa có quyền công dân! Tôi thương mình thì ít mà thương anh thì nhiều! Chẳng biết thâm tâm anh ra sao, nhưng tôi thấy anh có thương tôi nhiều mới lên thăm tôi để hai anh em chúng tôi phải sống những giây phút khá oái oăm như vậy! Sau này, so sánh thái độ của một số người có ít nhiều chức vị ở Bắc đối xử với bà con ngụy quân ngụy quyền đi học tập cải tạo, tôi lại càng thấy anh tôi quả là thương tôi và hiểu tôi lắm!
Và vì có nhiều người vẫn cứ hỏi về sự gặp gỡ trao đổi giữa hai anh em chúng tôi, nhân tiện đây tôi xin ghi lại sơ lược vài hàng về tương quan giữa tôi và ông anh cả của tôi: Nguyễn Khắc Viện. Tuy khác mẹ, nhưng nhiều lúc chúng tôi quên hẳn điều ấy. Anh Viện hơn tôi 10 tuổi. Từ thuở bé, gia đình tôi đã dành cho anh một sự mến phục hơi đặc biệt, vì anh học rất giỏi, có sức khoẻ, môn thể thao nào cũng khá, tính tình vừa khẳng khái, vừa hiền hoà, sống một cuộc đời rất thanh bạch, quả là một trang thanh niên kiểu mẫu. Từ trước, anh đã có cái mộng trở nên một bác sĩ kiểu như Albert Schweitzer. Sau khi sang Pháp du học, trong tình thế cuộc đệ nhị thế chiến, tiếp theo là cuộc chiến tranh Đông Dương, anh xin gia nhập đảng Cộng sản Pháp, và được Hồ chủ tịch tin dùng. Vì bệnh lao phổi rất nặng (chỉ còn 2/3 của một lá phổi duy nhất), anh ở lại Pháp với chức năng tổng thư ký hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp cho đến năm 1964, bị Pháp trục xuất về Hà Nội. Từ khi anh du học Pháp, năm 1938 cho đến năm 1956, lúc tôi sang Pháp, tôi là người đầu tiên trong gia đình gặp lại anh. Qua bao nhiêu thay đổi về thời cuộc, về gia đình, về bản thân mỗi người, thì giữa hai anh em chúng tôi: một là đảng viên Cộng sản, một là tu sĩ dòng Phanxicô; điều nặng nề nhất là hình ảnh người cha bị chết trong trại cải tạo năm 1954. Tôi đến thăm anh, lúc ấy ở một gác trọ nhỏ ở Paris, bày biện sơ sài như phòng trọ của một sinh viên nghèo du học, bữa ăn đầu tiên giữa hai anh em rất đạm bạc, có điều là hai anh em trao đổi rất tự nhiên, như chẳng có gì là ngỡ ngàng, ngạc nhiên cả! Chúng tôi không hề đả động gì chuyện tư riêng của nhau, và cả hai đều tránh đả động đến việc thân phụ tôi bị làm nạn nhân của cải cách ruộng đất. Anh tôi không hề có một câu hỏi, một lời gì về việc tôi tòng giáo và vào Nam cả! Anh chỉ gợi ý rất tế nhị cho tôi thấy rằng thế nào rồi cuối cùng chế độ Cộng sản cũng sẽ toàn chiếm nước Việt Nam, vì thế tôi cũng như Giáo Hội Việt Nam cần đi đến chỗ:
1) Sống phù hợp với văn hoá dân tộc.
2) Sống phù hợp với chế độ Cộng sản.
Anh thường khuyên tôi nên liên lạc với Liên đoàn thợ thuyền Công giáo, để hiểu về phong trào đấu tranh của giới thợ. Anh rất am hiểu về Công giáo, về Giáo Hội, anh cũng đã từng đọc Gioan Thánh giá. Anh có xác tín của người mác-xít cho rằng khi mọi vấn đề trần thế được giải quyết tốt đẹp (điều mà anh tin rằng sẽ được thực hiện trong tương lai thì tự nhiên tôn giáo sẽ không còn). Có lẽ anh thuộc về những người Mác-xít cho rằng tôn giáo tự nó sẽ tiêu vong, không cần phải trực tiếp hạn chế làm gì. Có thể anh không đồng ý về những vụ khiến người ta suy nghĩ (có thể đúng mà cũng có thể sai) rằng có chủ trương hạn chế, cấm đoán hoặc bách hại tôn giáo, bởi vì cuối cùng chẳng có lợi gì về bất cứ phương diện nào, bất cứ theo quan điểm nào, mà chỉ gây ngộ nhận, gây chia rẽ, tạo đau khổ, phạm đến những con người cụ thể.
Một đôi khi tôi thấy anh phê bình chỉ trích Giáo phẩm không theo đúng tinh thần Tin Mừng và còn quá chịu ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng hình như anh tránh né đề cập vấn đề “tôn giáo” với tôi; cho nên phía tôi cũng có phần tránh né không đả động gì đến vấn đề “ý thức hệ”; anh em gặp nhau chỉ trao đổi về những vấn đề cụ thể: về phía anh thì vẫn xem tôi như đứa em, có thể vấp phạm những điều dại dột có thể thiệt nhân, cho nên anh có nhiệm vụ chỉ dẫn để tránh khỏi những sai phạm có hại ấy. Phần tôi, cũng nghĩ mình là em, mà anh ấy lại là người có trình độ cao về nhiều mặt, cho nên, cũng chỉ hạn chế vào những điều mà anh có thể và có ý muốn giúp đỡ tôi; để cuối cùng anh em, dầu sao cũng vẫn giữ được sự hài hoà, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lập trường của nhau, và ít nhiều mến thương, tin tưởng, kính nể nhau. Chúng tôi thấy không cần đi sâu vào vấn đề làm gì, vì cả hai đều biết rằng chúng tôi đã chọn - ai đường nấy đi không phải là hời hợi, mù quáng hay vì lợi vì danh gì, chẳng cần phải làm cái việc vô bổ là bàn giải khuyên can thuyết phục gì nhau nữa cả! Hiểu nhau quá rồi, cố gắng giữ lấy tình anh em, tình đồng bào, tình người giữa hai con người tạm gọi là “trí” là đã quý và không phải đã dễ dàng! Và có ai hỏi tôi về sự đánh giá của tôi đối với anh, tôi cũng chỉ cười, vì tôi nghĩ rằng mỗi con người là cả một huyền nhiệm, ai cũng có những đỉnh cao những lũng thấp, những tài đức, những khuyết điểm, những nỗi niềm, và rồi ai cũng có những cái “một mình mình biết một mình mình hay!”, và đứng trước cái “chỗ ấy” thì ta nên cất mũ cúi đầu im lặng, nguyện cầu, vì ngưỡng cửa ấy chỉ có Thiên Chúa mới có quyền và có khả năng bước vào.
Từ năm ‘76, tôi vẫn thỉnh thoảng gặp lại anh, anh em vẫn nguyên tình thân ái, vả chăng cả hai cũng càng ngày càng đến tuổi già, có lẽ sẽ đến lúc nhìn về quá khứ với một sự cởi mở, bao dung nào đó, hơi triết lý nào đó, bởi vì cuối cùng, thì mọi sự cũng chỉ có một thời, rồi sẽ qua đi! Cốt giữ lấy tình người là quan trọng. Nhất là anh ấy chỉ là một cán bộ văn hoá, còn tôi chỉ là một người không có một quan hệ trực tiếp nào về mặt thế trần, cũng như không có một chức vị gì ở trong Giáo Hội.
Vào cuối năm 1977, nhờ sự can thiệp của anh Viện tôi, tôi được phép ra Hà Nội thăm mẹ già và bà con ở miền Bắc! Nói lên nỗi xúc cảm của tôi khi cầm tấm giấy thông hành đặc biệt Đà Lạt – Hà Nội, lên xe ca ra Bắc, thật là việc khó! Hà Nội nghìn năm văn vật, bên kia sông Thạch Hãn (mà cuối năm 74 tôi đứng ở bờ phía Nam nhìn về quê cũ tưởng như không bao giờ còn thấy được nữa!) Đèo ngang! Núi Hồng! Sông Lam! Và con tàu Thống Nhất qua những nhà ga: Mỹ Lý, Thuận Lý, Ngân Sơn, Chu Lễ, Đò Lèn, Phủ Lý v.v… Và hình ảnh mẹ già đã trên 70, sau 30 năm xa cách với bao thăng trầm biến đổi!
Bước xuống ga Hàng Cỏ sau mấy ngày đêm đi đường, tôi cứ như đi trong giấc mơ! Lại gặp lúc Hà Nội vào thu, lá vàng bắt đầu rụng trên hè phố! Trời Hà Nội vẫn là trời Hà Nội: có lẽ từ Ức Trai – Bạch Vân, Tố Như và trước nữa, rồi Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nhất Linh và kể cả Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, ai đã yêu Hà Nội 36 phố phường thì khi đến Hà Nội dù thời nào, chế độ nào cũng phải có tâm tình của kẻ hành hương. Và dù chủ thuyết nào, tín ngưỡng nào, cũng biết ở đó có lăng – nơi an nghỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người kiệt chúng của thế kỷ 20, đáng cho giống nòi hãnh diện. Quả là may, qua những vụ Mỹ ném bom cuối cùng chỉ có phố Khâm Thiên bị nặng ngoài ra, Tháp Rùa, Văn Miếu, chùa Trấn Quốc, cột cờ, chùa Một Cột, cầu Long Biên vẫn còn. Mùa thu năm đó tôi say sưa với ý nghĩ rằng về mặt thế trần, tôi được nhìn cảnh trời thu Hà Nội thế là đủ rồi, các điều khác chỉ là chuyện phụ. Tâm tư tôi về mặt thế trần chỉ đơn giản có thế. Hà Nội - Sài Gòn phải được nối liền cái đã, các việc khác tính sau! Tôi cho rằng Đức giáo hoàng Phaolô VI cũng nghĩ như vậy mà thôi! Mặc dù biết rằng rồi sẽ có cả trăm nghìn việc khó khăn, nhưng dù sao thì nước Việt Nam phải là “một” cái đã! Đi giữa lòng mùa thu năm 77, tâm hồn tôi tràn ngập niềm vui vì ý nghĩ ấy! Tôi ra Hà Nội đây, vượt qua Thạch Hãn và Bến Hải: giấc mơ ấp ủ từ năm ‘54 nay đã là sự thật!
Và Hà Nội: vẫn có nhà tạm, nơi Chúa Giêsu ẩn ngự trong bi tích tình yêu, có các linh mục, có Hồng y TGM hiệp thông cùng Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị Thánh Phêrô! Hà Nội: sáng chiều vẫn có lời “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Không những lời chí thánh được lập lại, mà chắc rằng còn có những lời nguyện cầu âm thầm lặng lẽ của những tâm hồn trung thành với Chúa trong gian lao thử thách, mà không ai biết ai hay, đang tiếp dẫn ơn cứu độ xuống đất nước, và có thể tràn chảy đến tận cùng thế giới! Hà Nội: nơi mà nếu Têrêxa Hài đồng không bị chứng nan y cản trở, thì có lẽ đã được phái sang lập dòng và gởi lại di hài cho năm châu bốn bể đến hành hương thăm viếng! Tôi cảm thấy rằng Hà Nội có từ Lý Công Uẩn và sẽ còn mãi mãi với non sông vạn kỷ chứ đâu có phải của một thời nào! Đó là tâm tư của tôi khi đứng chiêm ngưỡng tượng Đức Maria cầm lưỡi đòng dí đầu con rắn dữ xuống đất đen, trước Vương cung Thánh Đường Chánh toà Giáo phận thủ đô Hà Nội.
Ai biết được dưới những bức tường rêu phủ của những tu viện, những Thánh Đường vắng vẻ đìu hiu, Thiên Chúa đang vùi những hạt giống gì cho hẩm nát để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau! Máu Thánh Chúa mỗi ngày dâng lên từ một số bàn thờ rất ít do những bàn tay run rẩy của những vị Linh mục già sắp về với Chúa mà không chắc có người kế tục, giá trị ngần nào trước tôn nhan Thiên Chúa Cha, ai mà lường được!
Cho đến nay, hai vị Giám Mục đã được tòa thánh phong tước vị Hồng Y vẫn là ở Hà Nội, Hội đồng các Giám mục Việt Nam vẫn thường họp tại Hà Nội, đó là những sự kiện khách quan làm cho ta phải suy nghĩ nhiều và cầu nguyện càng nhiều hơn nữa. Tôi tin chắc rằng vị nữ tu xưa kia có ý định sang Hà Nội, ngày nay di hài ở Li-di-ơ, những hoa hồng từ bàn tay Ngài tuôn xuống, ắt vẫn còn dành khá nhiều cho Hà Nội. Và máu của vị tử đạo mà Ngài yêu mến cách riêng “Théophane Vénard” cũng đổ ra thấm xuống bãi cát bên bờ sông Hồng trôi về biển cả! Và Hà Nội, nay mai sẽ là nơi an nghỉ của một số nữ tu đã sống mấy chục năm trời trong một khung cảnh mà một nữ tu ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ trú ngụ có một tuần đã cảm thấy “lạnh thấu buốt tâm can xương tủy”. Do đó, khi đến đưa lá thư của một người bạn gửi cho một nữ tu ở Hà Nội, tôi muốn qùy xuống ôm hôn cái bàn chân đã đứng vững trong những bức tường tu viện ấy trong mấy chục năm qua, và tôi chợt nhớ tới lời một linh mục Pháp thuộc dòng tu từ Bắc di cư vào Nam năm 54 tâm sự với tôi rằng: “Tôi tiếc rằng mình không phải là công dân Việt Nam để được ở lại miền Bắc với các Đức Cha, các linh mục và các tu sĩ nam nữ ngoài ấy!”
Và tín hữu ngoài ấy! tôi không thể không ghi lại đây hình ảnh hai cụ ông cụ bà Vũ Thế Hùng, song thân của Lm Vũ Khởi Phụng: Đẹp làm sao, tổ ấm của một cặp chim già sống chung thủy với nhau, cũng như chung thủy với Chúa, qua bao gian nan thử thách! Cái thằng tôi mãi rong chơi khắp Paris, Thụy Sỹ, Louvain… nay về gặp hai cụ dắt nhau đi dự lễ trên đường phố Hà Nội, mà cảm thấy mình xấu hổ! Quả như là tôi đã nói trên kia: “Sự tỉnh khỏi cơn mộng du!”, tôi chỉ biết có một đôi bạn là hai cụ Vũ Thế Hùng, chứ ở Hà Nội có bao nhiêu tín hữu như vậy: Témoignage Chrétien, Information Catholique lnternationale, Osservatore Romano, la Croix… làm sao biết được danh tính? Hội Thánh Việt Nam đâu phải chỉ có linh mục X, Y, Z hoặc giáo sư M, N, T, V được đăng tên trong báo, được các đài đủ loại phát thanh ầm ĩ, Hội Thánh Việt Nam còn có những tâm hồn như tôi tôi nói trên đây, mà đó mới thật là nền móng. Những kẻ được biết tên biết tiếng có thể chỉ là nóc nhà, là mái cao, qua cơn gió mạnh có thể bị bốc đi, còn nền móng vẫn đứng yên bám chặt vào lòng đất của mọi miền trên đất nước Việt Nam nay đã có gần 500 năm giáo sử. Hai cụ ông cụ bà Vũ Thế Hùng không biết đó thôi. Sự hiện diện của hai cụ ở Hà Nội làm cho niềm vui của tôi lần đầu tiên ra Hà Nội năm 77 tăng lên gấp bội chẳng kém gì so với sự hiện diện của mẹ già tôi còn sống để đón chờ tôi về thăm. Thử tưởng tượng nếu năm 77, tôi ra Hà Nội mà không có Tòa giám mục, không có linh mục, không có thánh lễ, không có tín hữu thì tôi sẽ ra sao? Tôi có thể vui đoàn tụ gia đình, vui đất nước thống nhất một cách trọn vẹn được không? Biết lấy gì mà tạ ơn những người tín hữu ở lại Hà Nội năm 1954!
Hà Nội đối với tôi năm 1977 là như vậy đó. Dĩ nhiên Hà Nội còn là nơi mẹ già tôi và phần đông anh chị em ruột thịt, bà con nội ngoại, thầy cũ, bạn cũ, học trò cũ của tôi cư ngụ sinh sống, làm việc, vui buồn, sướng khổ, và nay mai sẽ trút hơi thở lìa. đời. Ôi! Mẹ già! Mẹ già tôi! Trước năm 45 đã từng vào cung DIÊN THỌ hầu tài bàn Đức Từ Cung!, đã cần kiệm để giúp thân phụ tôi giữ được thanh liêm trong lúc làm quan! Và đã từng bị trói suốt một ngày trời để bắt nhận tội xúi giục con ăn trộm buồng chuối trong thửa vườn mà trước đó vài ngày mình còn là chủ nhân sở hữu! Mẹ già tôi! Đã hơn 20 năm qua, với hai bàn tay trắng theo nghĩa đen, nuôi con khôn lớn sau khi chồng bị đấu tố, chết trong trại học tập và bị tịch biên toàn bộ tài sản, không ai dám thuê mướn, giúp đỡ hay chào hỏi, phải rời bỏ quê nhà “đi tha hương cầu thực” theo nghĩa đen! Mẹ tôi! sao lại không tự tử năm 54 như hai bà cô của tôi, như bà cụ thím của thân phụ tôi, như ông dượng chồng bà dì tôi, như biết bao nhiêu người khác đã làm trong hoàn cảnh tương tự! Thần lực nào đã giữ hai làm răng của người lại để khỏi cắn lưỡi mà chết đi cho rảnh nợ đời khi bị trói suốt một ngày vì vụ buồng chuối trên kia? Đã hết đâu! Trên 70 tuổi rồi sau khi con cái có chút sự nghiệp, thì trong niềm vui đất nước thống nhất, lại có thằng con trai đầu lòng đi học tập cải tạo với tư cách là ngụy quân, đã theo giặc cầm súng bắn vào đồng bào!!! Tôi chỉ đọc và suy niệm về “khổ giá”, chứ mẹ tôi mới thật bước đi trên con đường “khổ giá”!
Cũng may là trong thời gian học tập tôi không bị ruột dư, thương hàn, thổ tả, dịch hạch mà chết đi, còn được sống trở về Hà Nội mà thăm mẹ già; chứ nếu tôi chết đi như bao anh em cải tạo khác, thì mẹ tôi sẽ hai lần khóc; khóc chồng chết trong cải tạo năm 54, và khóc con cũng thế năm 75-76 (tạ ơn Chúa đã tha cho mẹ con gánh nặng thứ hai này!), những cái nhục nhã xót xa khi nghe tin tôi đi học tập và cái lo sợ tôi sẽ như thân phụ tôi, cũng đã đủ cực lòng người như thế nào! Ai biết được, vì bà dám tâm sự cùng ai!!! Biết hỏi ai? Sao? Con tôi có làm tay sai cho phòng nhì Pháp không? Cho xịa không? Tay con tôi có bóp cò súng nhả vào quân đội nhân dân kháng chiến không? vv… Họa chăng có Đức Mẹ Maria khi nghe tin Chúa Giêsu bị bắt, mới hiểu lòng dạ mẹ tôi khi nghe tin tôi bị đưa đi học tập cải tạo vì lý do sĩ quan ngụy! Ai cho người biết chắc rằng tôi không phải như ông Phan Huy Quát, Hà Thúc Ký, Đặng văn Sung, Tôn Thất Thiện, Hà Vĩnh Phương, là những cậu ấm con quan mà mẹ tôi đã biết trước năm 45, hay cũng phải là cây bút chống cộng sắc sảo như Nguyễn Mạnh Côn, Võ phiến v.v… Có thể anh Viện tôi, vì đã hiểu rõ tôi, may ra có thể trấn an được, nhưng người có tin không? Hay lại nghĩ rằng chẳng qua anh ấy dấu sự thật cho người an tâm, cho nên giây phút đầu tiên mẹ con gặp nhau, tôi chỉ vỏn vẹn một tiếng “Mẹ” rồi im lặng mắt hơi rướm, mà người đã nói với tôi câu tôi đã thuật lại trên kia! Người chỉ thương tôi lưu lạc, chứ không hề nghĩ tới nỗi khổ của người. Ôi lòng mẹ thương con!
Sau câu tôi thưa lại: “Vâng, con đi chơi lạc đường, may anh Viện dẫn về, chứ không thì chẳng biết đâu mà tìm!”, nhìn ánh mắt của mẹ tôi, tôi biết rằng người đã tìm được nơi tôi hình ảnh đứa con 40 năm về trước, học trường tây con quan đầu tỉnh, mà vẫn đi chân đất, đội nón lá, tuy có hơi già vì trên 50 tuổi rồi! Chứ không có gì là ngụy quân ngụy quyền ác ôn hay ngụy trí thức thâm độc, cả đến u sầu ủ dột như kẻ ở tù cũng không! Trái lại, vẫn vui vẻ hồn nhiên tươi mát. Hầu hết người thân của tôi ở Bắc gặp lại đều ngạc nhiên và bỡ ngỡ như vậy! Tưởng đâu cái ông sĩ quan ngụy, khoa trưởng Đại học văn khoa, trưởng ban triết trường “Đại học Ngô Đình Thục” ra sao, chứ vẫn là cái thằng Dương hơi gàn gàn thuở nào! Một số bạn cũ (và cả học trò cũ) của tôi có chức vị ở miền Bắc trông oai vệ hơn nhiều. Và họ càng ngạc nhiên khi biết rằng tài sản lớn nhất của tôi là một máy radio 4 băng cũ mua lại giá rất rẻ, và một máy đánh chữ; còn thì chỉ là giấy viết dở mà tôi lượm lặt trong các kỳ thi do sinh viên viết bậy gom góp lại để làm giấy nháp, và vài trăm cuốn sách đem ra bán ký gói hàng may ra chỉ đủ sống vài tuần! Và họ tưởng tôi ở nhà dòng với kinh kệ, chắc là đạo mạo nghiêm nghị, ai ngờ lại là một cây tiếu lâm, và đùa giỡn với các cháu bé lên 4 lên 3 rất là ăn ý! Sau này gặp lại, tôi thấy tôi quả là một câu hỏi đặt ra cho họ: khó xếp loại tôi quá, chẳng thứ gì ra thứ gì cả! Thậm chí có kẻ cho tôi là tay đóng kịch đại tài! Bề ngoài nói nói cười cười, nhưng bên trong là cả một nỗi niềm uẩn khúc không đáy!! Có! Nỗi niềm của tôi là nỗi niềm thông dự vào mầu nhiệm Giết-sê-ma-ni mà Pascal đã in sâu vào hồn tôi từ những năm 42 - 44, là lúc mà gia đình tôi, còn gọi được là “vinh hoa phú quí” và tôi là một “cậu ấm con quan” thuộc loại học giỏi, hạnh kiểm tốt, thầy yêu, bạn mến; nỗi niềm ấy thì sẽ còn đó cho đến trọn đời tôi! Còn ngoài ra, việc trần thế thì tôi là cái lều tranh trống không, gió lộng muôn phương, quả tình không có hướng! Không phải là “hoa trôi man mác” như Kiều, mà là mặc cho gió trời lộng thổi, nhưng Tê-rê-sa Hài Đồng, hoàn toàn phó thác cho cánh Thần Ưng muốn “kênh” đi đâu thì tùy ý mặc lòng!
Lại xin tiếp tục sau khi giai đoạn ở trại học tập Sông Mao trở về Đà Lạt, rời khỏi cuộc sống tự do bên ngoài, lúc Sài Gòn chưa giải phóng và trở lại Đà Lạt khi hai miền Nam - Bắc đã thống nhất hoàn toàn mới một Quốc Hội duy nhất, một Nhà Nước duy nhất, đang bước những bước đầu đưa miền Nam lên Xã hội chủ nghĩa; rời khỏi vị trí một giáo sư Đại học trong xã hội, bắt đầu tập nĩa đất trồng rau, với tâm trạng của một người chưa có quyền công dân, không nói thì cũng biết là sự thích ứng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và gặp khó khăn như sức khoẻ, tâm lý, suy tư, tiếp xúc với xã hội, cũng như những nhu cầu sinh hoạt về mọi mặt. Tuy nhiên, bù lại thì có được một điều an ủi là Đất nước thống nhất và gia đình đoàn tụ. Trên kia đã nói qua về vấn đề “thống nhất”, nay xin sang vấn đề “đoàn tụ”.
Sau này thống nhất, người trong gia đình mà tôi đã gặp mặt đầu tiên là Cẩn (bạn cũ và là em rể tôi) cùng đi với đứa con gái của anh ta, gọi tôi bằng cậu, vào thăm tôi tại trại cải tạo Sông Mao. Tiếp đến là anh Viện tôi và đứa em gái áp út của tôi, cũng vào thăm tôi tại Sông Mao. Hai cuộc gặp gỡ ấy, tuy bản chất là vui mừng, nhưng bề ngoài thì chẳng mấy bình thường. Tôi còn nhớ đứa cháu gái cứ trố mắt nhìn tôi dưới dạng một ngụy quân học tập cải tạo. Thật khó tả! Cậu ruột nó đấy, bạn thân ngày xưa của bố nó đấy! Nhưng lại là sĩ quan ngụy, đánh thuê cho ngụy đấy! (Đó là chưa nói: Công giáo trí thức cỡ lớn đấy!). Còn cô em gái thì cứ ôm mặt khóc, tôi phải tìm cách nói đùa chọc cho cô ta cười lên, để bớt nỗi thê thảm! Chỉ có với anh Viện là tương đối thoải mái. Sau ngày trở về lại Đà Lạt, anh Viện là người đầu tiên đến thăm tôi tại trường Đại học Đà Lạt. Điều đáng nói nhất là trong một buổi tọa đàm do trường tổ chức tại phòng khách nhà Viện trưởng cũ. Tôi ngồi nghe anh Viện nói chuyện, mà cứ như trong mộng. Thật khó ngờ được rằng lại có cái ngày anh Viện tôi đến thuyết trình cho anh em cán bộ trường Đại học Đà Lạt, ngồi tại chính cái phòng khách ấy! Và lẽ ra, ít nhất tôi cũng được đón anh tôi với tư cách giáo sư duy nhất ở lại viện Đại học, lúc toàn ban giáo sư di tản, thế nhưng, lại ngồi nghe anh như một anh ngụy quân đi học tập về chưa có quyền công dân! Tôi thương mình thì ít mà thương anh thì nhiều! Chẳng biết thâm tâm anh ra sao, nhưng tôi thấy anh có thương tôi nhiều mới lên thăm tôi để hai anh em chúng tôi phải sống những giây phút khá oái oăm như vậy! Sau này, so sánh thái độ của một số người có ít nhiều chức vị ở Bắc đối xử với bà con ngụy quân ngụy quyền đi học tập cải tạo, tôi lại càng thấy anh tôi quả là thương tôi và hiểu tôi lắm!
Và vì có nhiều người vẫn cứ hỏi về sự gặp gỡ trao đổi giữa hai anh em chúng tôi, nhân tiện đây tôi xin ghi lại sơ lược vài hàng về tương quan giữa tôi và ông anh cả của tôi: Nguyễn Khắc Viện. Tuy khác mẹ, nhưng nhiều lúc chúng tôi quên hẳn điều ấy. Anh Viện hơn tôi 10 tuổi. Từ thuở bé, gia đình tôi đã dành cho anh một sự mến phục hơi đặc biệt, vì anh học rất giỏi, có sức khoẻ, môn thể thao nào cũng khá, tính tình vừa khẳng khái, vừa hiền hoà, sống một cuộc đời rất thanh bạch, quả là một trang thanh niên kiểu mẫu. Từ trước, anh đã có cái mộng trở nên một bác sĩ kiểu như Albert Schweitzer. Sau khi sang Pháp du học, trong tình thế cuộc đệ nhị thế chiến, tiếp theo là cuộc chiến tranh Đông Dương, anh xin gia nhập đảng Cộng sản Pháp, và được Hồ chủ tịch tin dùng. Vì bệnh lao phổi rất nặng (chỉ còn 2/3 của một lá phổi duy nhất), anh ở lại Pháp với chức năng tổng thư ký hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp cho đến năm 1964, bị Pháp trục xuất về Hà Nội. Từ khi anh du học Pháp, năm 1938 cho đến năm 1956, lúc tôi sang Pháp, tôi là người đầu tiên trong gia đình gặp lại anh. Qua bao nhiêu thay đổi về thời cuộc, về gia đình, về bản thân mỗi người, thì giữa hai anh em chúng tôi: một là đảng viên Cộng sản, một là tu sĩ dòng Phanxicô; điều nặng nề nhất là hình ảnh người cha bị chết trong trại cải tạo năm 1954. Tôi đến thăm anh, lúc ấy ở một gác trọ nhỏ ở Paris, bày biện sơ sài như phòng trọ của một sinh viên nghèo du học, bữa ăn đầu tiên giữa hai anh em rất đạm bạc, có điều là hai anh em trao đổi rất tự nhiên, như chẳng có gì là ngỡ ngàng, ngạc nhiên cả! Chúng tôi không hề đả động gì chuyện tư riêng của nhau, và cả hai đều tránh đả động đến việc thân phụ tôi bị làm nạn nhân của cải cách ruộng đất. Anh tôi không hề có một câu hỏi, một lời gì về việc tôi tòng giáo và vào Nam cả! Anh chỉ gợi ý rất tế nhị cho tôi thấy rằng thế nào rồi cuối cùng chế độ Cộng sản cũng sẽ toàn chiếm nước Việt Nam, vì thế tôi cũng như Giáo Hội Việt Nam cần đi đến chỗ:
1) Sống phù hợp với văn hoá dân tộc.
2) Sống phù hợp với chế độ Cộng sản.
Anh thường khuyên tôi nên liên lạc với Liên đoàn thợ thuyền Công giáo, để hiểu về phong trào đấu tranh của giới thợ. Anh rất am hiểu về Công giáo, về Giáo Hội, anh cũng đã từng đọc Gioan Thánh giá. Anh có xác tín của người mác-xít cho rằng khi mọi vấn đề trần thế được giải quyết tốt đẹp (điều mà anh tin rằng sẽ được thực hiện trong tương lai thì tự nhiên tôn giáo sẽ không còn). Có lẽ anh thuộc về những người Mác-xít cho rằng tôn giáo tự nó sẽ tiêu vong, không cần phải trực tiếp hạn chế làm gì. Có thể anh không đồng ý về những vụ khiến người ta suy nghĩ (có thể đúng mà cũng có thể sai) rằng có chủ trương hạn chế, cấm đoán hoặc bách hại tôn giáo, bởi vì cuối cùng chẳng có lợi gì về bất cứ phương diện nào, bất cứ theo quan điểm nào, mà chỉ gây ngộ nhận, gây chia rẽ, tạo đau khổ, phạm đến những con người cụ thể.
Một đôi khi tôi thấy anh phê bình chỉ trích Giáo phẩm không theo đúng tinh thần Tin Mừng và còn quá chịu ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng hình như anh tránh né đề cập vấn đề “tôn giáo” với tôi; cho nên phía tôi cũng có phần tránh né không đả động gì đến vấn đề “ý thức hệ”; anh em gặp nhau chỉ trao đổi về những vấn đề cụ thể: về phía anh thì vẫn xem tôi như đứa em, có thể vấp phạm những điều dại dột có thể thiệt nhân, cho nên anh có nhiệm vụ chỉ dẫn để tránh khỏi những sai phạm có hại ấy. Phần tôi, cũng nghĩ mình là em, mà anh ấy lại là người có trình độ cao về nhiều mặt, cho nên, cũng chỉ hạn chế vào những điều mà anh có thể và có ý muốn giúp đỡ tôi; để cuối cùng anh em, dầu sao cũng vẫn giữ được sự hài hoà, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lập trường của nhau, và ít nhiều mến thương, tin tưởng, kính nể nhau. Chúng tôi thấy không cần đi sâu vào vấn đề làm gì, vì cả hai đều biết rằng chúng tôi đã chọn - ai đường nấy đi không phải là hời hợi, mù quáng hay vì lợi vì danh gì, chẳng cần phải làm cái việc vô bổ là bàn giải khuyên can thuyết phục gì nhau nữa cả! Hiểu nhau quá rồi, cố gắng giữ lấy tình anh em, tình đồng bào, tình người giữa hai con người tạm gọi là “trí” là đã quý và không phải đã dễ dàng! Và có ai hỏi tôi về sự đánh giá của tôi đối với anh, tôi cũng chỉ cười, vì tôi nghĩ rằng mỗi con người là cả một huyền nhiệm, ai cũng có những đỉnh cao những lũng thấp, những tài đức, những khuyết điểm, những nỗi niềm, và rồi ai cũng có những cái “một mình mình biết một mình mình hay!”, và đứng trước cái “chỗ ấy” thì ta nên cất mũ cúi đầu im lặng, nguyện cầu, vì ngưỡng cửa ấy chỉ có Thiên Chúa mới có quyền và có khả năng bước vào.
Từ năm ‘76, tôi vẫn thỉnh thoảng gặp lại anh, anh em vẫn nguyên tình thân ái, vả chăng cả hai cũng càng ngày càng đến tuổi già, có lẽ sẽ đến lúc nhìn về quá khứ với một sự cởi mở, bao dung nào đó, hơi triết lý nào đó, bởi vì cuối cùng, thì mọi sự cũng chỉ có một thời, rồi sẽ qua đi! Cốt giữ lấy tình người là quan trọng. Nhất là anh ấy chỉ là một cán bộ văn hoá, còn tôi chỉ là một người không có một quan hệ trực tiếp nào về mặt thế trần, cũng như không có một chức vị gì ở trong Giáo Hội.
Vào cuối năm 1977, nhờ sự can thiệp của anh Viện tôi, tôi được phép ra Hà Nội thăm mẹ già và bà con ở miền Bắc! Nói lên nỗi xúc cảm của tôi khi cầm tấm giấy thông hành đặc biệt Đà Lạt – Hà Nội, lên xe ca ra Bắc, thật là việc khó! Hà Nội nghìn năm văn vật, bên kia sông Thạch Hãn (mà cuối năm 74 tôi đứng ở bờ phía Nam nhìn về quê cũ tưởng như không bao giờ còn thấy được nữa!) Đèo ngang! Núi Hồng! Sông Lam! Và con tàu Thống Nhất qua những nhà ga: Mỹ Lý, Thuận Lý, Ngân Sơn, Chu Lễ, Đò Lèn, Phủ Lý v.v… Và hình ảnh mẹ già đã trên 70, sau 30 năm xa cách với bao thăng trầm biến đổi!
Bước xuống ga Hàng Cỏ sau mấy ngày đêm đi đường, tôi cứ như đi trong giấc mơ! Lại gặp lúc Hà Nội vào thu, lá vàng bắt đầu rụng trên hè phố! Trời Hà Nội vẫn là trời Hà Nội: có lẽ từ Ức Trai – Bạch Vân, Tố Như và trước nữa, rồi Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nhất Linh và kể cả Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, ai đã yêu Hà Nội 36 phố phường thì khi đến Hà Nội dù thời nào, chế độ nào cũng phải có tâm tình của kẻ hành hương. Và dù chủ thuyết nào, tín ngưỡng nào, cũng biết ở đó có lăng – nơi an nghỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người kiệt chúng của thế kỷ 20, đáng cho giống nòi hãnh diện. Quả là may, qua những vụ Mỹ ném bom cuối cùng chỉ có phố Khâm Thiên bị nặng ngoài ra, Tháp Rùa, Văn Miếu, chùa Trấn Quốc, cột cờ, chùa Một Cột, cầu Long Biên vẫn còn. Mùa thu năm đó tôi say sưa với ý nghĩ rằng về mặt thế trần, tôi được nhìn cảnh trời thu Hà Nội thế là đủ rồi, các điều khác chỉ là chuyện phụ. Tâm tư tôi về mặt thế trần chỉ đơn giản có thế. Hà Nội - Sài Gòn phải được nối liền cái đã, các việc khác tính sau! Tôi cho rằng Đức giáo hoàng Phaolô VI cũng nghĩ như vậy mà thôi! Mặc dù biết rằng rồi sẽ có cả trăm nghìn việc khó khăn, nhưng dù sao thì nước Việt Nam phải là “một” cái đã! Đi giữa lòng mùa thu năm 77, tâm hồn tôi tràn ngập niềm vui vì ý nghĩ ấy! Tôi ra Hà Nội đây, vượt qua Thạch Hãn và Bến Hải: giấc mơ ấp ủ từ năm ‘54 nay đã là sự thật!
Và Hà Nội: vẫn có nhà tạm, nơi Chúa Giêsu ẩn ngự trong bi tích tình yêu, có các linh mục, có Hồng y TGM hiệp thông cùng Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị Thánh Phêrô! Hà Nội: sáng chiều vẫn có lời “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Không những lời chí thánh được lập lại, mà chắc rằng còn có những lời nguyện cầu âm thầm lặng lẽ của những tâm hồn trung thành với Chúa trong gian lao thử thách, mà không ai biết ai hay, đang tiếp dẫn ơn cứu độ xuống đất nước, và có thể tràn chảy đến tận cùng thế giới! Hà Nội: nơi mà nếu Têrêxa Hài đồng không bị chứng nan y cản trở, thì có lẽ đã được phái sang lập dòng và gởi lại di hài cho năm châu bốn bể đến hành hương thăm viếng! Tôi cảm thấy rằng Hà Nội có từ Lý Công Uẩn và sẽ còn mãi mãi với non sông vạn kỷ chứ đâu có phải của một thời nào! Đó là tâm tư của tôi khi đứng chiêm ngưỡng tượng Đức Maria cầm lưỡi đòng dí đầu con rắn dữ xuống đất đen, trước Vương cung Thánh Đường Chánh toà Giáo phận thủ đô Hà Nội.
Ai biết được dưới những bức tường rêu phủ của những tu viện, những Thánh Đường vắng vẻ đìu hiu, Thiên Chúa đang vùi những hạt giống gì cho hẩm nát để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau! Máu Thánh Chúa mỗi ngày dâng lên từ một số bàn thờ rất ít do những bàn tay run rẩy của những vị Linh mục già sắp về với Chúa mà không chắc có người kế tục, giá trị ngần nào trước tôn nhan Thiên Chúa Cha, ai mà lường được!
Cho đến nay, hai vị Giám Mục đã được tòa thánh phong tước vị Hồng Y vẫn là ở Hà Nội, Hội đồng các Giám mục Việt Nam vẫn thường họp tại Hà Nội, đó là những sự kiện khách quan làm cho ta phải suy nghĩ nhiều và cầu nguyện càng nhiều hơn nữa. Tôi tin chắc rằng vị nữ tu xưa kia có ý định sang Hà Nội, ngày nay di hài ở Li-di-ơ, những hoa hồng từ bàn tay Ngài tuôn xuống, ắt vẫn còn dành khá nhiều cho Hà Nội. Và máu của vị tử đạo mà Ngài yêu mến cách riêng “Théophane Vénard” cũng đổ ra thấm xuống bãi cát bên bờ sông Hồng trôi về biển cả! Và Hà Nội, nay mai sẽ là nơi an nghỉ của một số nữ tu đã sống mấy chục năm trời trong một khung cảnh mà một nữ tu ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ trú ngụ có một tuần đã cảm thấy “lạnh thấu buốt tâm can xương tủy”. Do đó, khi đến đưa lá thư của một người bạn gửi cho một nữ tu ở Hà Nội, tôi muốn qùy xuống ôm hôn cái bàn chân đã đứng vững trong những bức tường tu viện ấy trong mấy chục năm qua, và tôi chợt nhớ tới lời một linh mục Pháp thuộc dòng tu từ Bắc di cư vào Nam năm 54 tâm sự với tôi rằng: “Tôi tiếc rằng mình không phải là công dân Việt Nam để được ở lại miền Bắc với các Đức Cha, các linh mục và các tu sĩ nam nữ ngoài ấy!”
Và tín hữu ngoài ấy! tôi không thể không ghi lại đây hình ảnh hai cụ ông cụ bà Vũ Thế Hùng, song thân của Lm Vũ Khởi Phụng: Đẹp làm sao, tổ ấm của một cặp chim già sống chung thủy với nhau, cũng như chung thủy với Chúa, qua bao gian nan thử thách! Cái thằng tôi mãi rong chơi khắp Paris, Thụy Sỹ, Louvain… nay về gặp hai cụ dắt nhau đi dự lễ trên đường phố Hà Nội, mà cảm thấy mình xấu hổ! Quả như là tôi đã nói trên kia: “Sự tỉnh khỏi cơn mộng du!”, tôi chỉ biết có một đôi bạn là hai cụ Vũ Thế Hùng, chứ ở Hà Nội có bao nhiêu tín hữu như vậy: Témoignage Chrétien, Information Catholique lnternationale, Osservatore Romano, la Croix… làm sao biết được danh tính? Hội Thánh Việt Nam đâu phải chỉ có linh mục X, Y, Z hoặc giáo sư M, N, T, V được đăng tên trong báo, được các đài đủ loại phát thanh ầm ĩ, Hội Thánh Việt Nam còn có những tâm hồn như tôi tôi nói trên đây, mà đó mới thật là nền móng. Những kẻ được biết tên biết tiếng có thể chỉ là nóc nhà, là mái cao, qua cơn gió mạnh có thể bị bốc đi, còn nền móng vẫn đứng yên bám chặt vào lòng đất của mọi miền trên đất nước Việt Nam nay đã có gần 500 năm giáo sử. Hai cụ ông cụ bà Vũ Thế Hùng không biết đó thôi. Sự hiện diện của hai cụ ở Hà Nội làm cho niềm vui của tôi lần đầu tiên ra Hà Nội năm 77 tăng lên gấp bội chẳng kém gì so với sự hiện diện của mẹ già tôi còn sống để đón chờ tôi về thăm. Thử tưởng tượng nếu năm 77, tôi ra Hà Nội mà không có Tòa giám mục, không có linh mục, không có thánh lễ, không có tín hữu thì tôi sẽ ra sao? Tôi có thể vui đoàn tụ gia đình, vui đất nước thống nhất một cách trọn vẹn được không? Biết lấy gì mà tạ ơn những người tín hữu ở lại Hà Nội năm 1954!
Hà Nội đối với tôi năm 1977 là như vậy đó. Dĩ nhiên Hà Nội còn là nơi mẹ già tôi và phần đông anh chị em ruột thịt, bà con nội ngoại, thầy cũ, bạn cũ, học trò cũ của tôi cư ngụ sinh sống, làm việc, vui buồn, sướng khổ, và nay mai sẽ trút hơi thở lìa. đời. Ôi! Mẹ già! Mẹ già tôi! Trước năm 45 đã từng vào cung DIÊN THỌ hầu tài bàn Đức Từ Cung!, đã cần kiệm để giúp thân phụ tôi giữ được thanh liêm trong lúc làm quan! Và đã từng bị trói suốt một ngày trời để bắt nhận tội xúi giục con ăn trộm buồng chuối trong thửa vườn mà trước đó vài ngày mình còn là chủ nhân sở hữu! Mẹ già tôi! Đã hơn 20 năm qua, với hai bàn tay trắng theo nghĩa đen, nuôi con khôn lớn sau khi chồng bị đấu tố, chết trong trại học tập và bị tịch biên toàn bộ tài sản, không ai dám thuê mướn, giúp đỡ hay chào hỏi, phải rời bỏ quê nhà “đi tha hương cầu thực” theo nghĩa đen! Mẹ tôi! sao lại không tự tử năm 54 như hai bà cô của tôi, như bà cụ thím của thân phụ tôi, như ông dượng chồng bà dì tôi, như biết bao nhiêu người khác đã làm trong hoàn cảnh tương tự! Thần lực nào đã giữ hai làm răng của người lại để khỏi cắn lưỡi mà chết đi cho rảnh nợ đời khi bị trói suốt một ngày vì vụ buồng chuối trên kia? Đã hết đâu! Trên 70 tuổi rồi sau khi con cái có chút sự nghiệp, thì trong niềm vui đất nước thống nhất, lại có thằng con trai đầu lòng đi học tập cải tạo với tư cách là ngụy quân, đã theo giặc cầm súng bắn vào đồng bào!!! Tôi chỉ đọc và suy niệm về “khổ giá”, chứ mẹ tôi mới thật bước đi trên con đường “khổ giá”!
Cũng may là trong thời gian học tập tôi không bị ruột dư, thương hàn, thổ tả, dịch hạch mà chết đi, còn được sống trở về Hà Nội mà thăm mẹ già; chứ nếu tôi chết đi như bao anh em cải tạo khác, thì mẹ tôi sẽ hai lần khóc; khóc chồng chết trong cải tạo năm 54, và khóc con cũng thế năm 75-76 (tạ ơn Chúa đã tha cho mẹ con gánh nặng thứ hai này!), những cái nhục nhã xót xa khi nghe tin tôi đi học tập và cái lo sợ tôi sẽ như thân phụ tôi, cũng đã đủ cực lòng người như thế nào! Ai biết được, vì bà dám tâm sự cùng ai!!! Biết hỏi ai? Sao? Con tôi có làm tay sai cho phòng nhì Pháp không? Cho xịa không? Tay con tôi có bóp cò súng nhả vào quân đội nhân dân kháng chiến không? vv… Họa chăng có Đức Mẹ Maria khi nghe tin Chúa Giêsu bị bắt, mới hiểu lòng dạ mẹ tôi khi nghe tin tôi bị đưa đi học tập cải tạo vì lý do sĩ quan ngụy! Ai cho người biết chắc rằng tôi không phải như ông Phan Huy Quát, Hà Thúc Ký, Đặng văn Sung, Tôn Thất Thiện, Hà Vĩnh Phương, là những cậu ấm con quan mà mẹ tôi đã biết trước năm 45, hay cũng phải là cây bút chống cộng sắc sảo như Nguyễn Mạnh Côn, Võ phiến v.v… Có thể anh Viện tôi, vì đã hiểu rõ tôi, may ra có thể trấn an được, nhưng người có tin không? Hay lại nghĩ rằng chẳng qua anh ấy dấu sự thật cho người an tâm, cho nên giây phút đầu tiên mẹ con gặp nhau, tôi chỉ vỏn vẹn một tiếng “Mẹ” rồi im lặng mắt hơi rướm, mà người đã nói với tôi câu tôi đã thuật lại trên kia! Người chỉ thương tôi lưu lạc, chứ không hề nghĩ tới nỗi khổ của người. Ôi lòng mẹ thương con!
Sau câu tôi thưa lại: “Vâng, con đi chơi lạc đường, may anh Viện dẫn về, chứ không thì chẳng biết đâu mà tìm!”, nhìn ánh mắt của mẹ tôi, tôi biết rằng người đã tìm được nơi tôi hình ảnh đứa con 40 năm về trước, học trường tây con quan đầu tỉnh, mà vẫn đi chân đất, đội nón lá, tuy có hơi già vì trên 50 tuổi rồi! Chứ không có gì là ngụy quân ngụy quyền ác ôn hay ngụy trí thức thâm độc, cả đến u sầu ủ dột như kẻ ở tù cũng không! Trái lại, vẫn vui vẻ hồn nhiên tươi mát. Hầu hết người thân của tôi ở Bắc gặp lại đều ngạc nhiên và bỡ ngỡ như vậy! Tưởng đâu cái ông sĩ quan ngụy, khoa trưởng Đại học văn khoa, trưởng ban triết trường “Đại học Ngô Đình Thục” ra sao, chứ vẫn là cái thằng Dương hơi gàn gàn thuở nào! Một số bạn cũ (và cả học trò cũ) của tôi có chức vị ở miền Bắc trông oai vệ hơn nhiều. Và họ càng ngạc nhiên khi biết rằng tài sản lớn nhất của tôi là một máy radio 4 băng cũ mua lại giá rất rẻ, và một máy đánh chữ; còn thì chỉ là giấy viết dở mà tôi lượm lặt trong các kỳ thi do sinh viên viết bậy gom góp lại để làm giấy nháp, và vài trăm cuốn sách đem ra bán ký gói hàng may ra chỉ đủ sống vài tuần! Và họ tưởng tôi ở nhà dòng với kinh kệ, chắc là đạo mạo nghiêm nghị, ai ngờ lại là một cây tiếu lâm, và đùa giỡn với các cháu bé lên 4 lên 3 rất là ăn ý! Sau này gặp lại, tôi thấy tôi quả là một câu hỏi đặt ra cho họ: khó xếp loại tôi quá, chẳng thứ gì ra thứ gì cả! Thậm chí có kẻ cho tôi là tay đóng kịch đại tài! Bề ngoài nói nói cười cười, nhưng bên trong là cả một nỗi niềm uẩn khúc không đáy!! Có! Nỗi niềm của tôi là nỗi niềm thông dự vào mầu nhiệm Giết-sê-ma-ni mà Pascal đã in sâu vào hồn tôi từ những năm 42 - 44, là lúc mà gia đình tôi, còn gọi được là “vinh hoa phú quí” và tôi là một “cậu ấm con quan” thuộc loại học giỏi, hạnh kiểm tốt, thầy yêu, bạn mến; nỗi niềm ấy thì sẽ còn đó cho đến trọn đời tôi! Còn ngoài ra, việc trần thế thì tôi là cái lều tranh trống không, gió lộng muôn phương, quả tình không có hướng! Không phải là “hoa trôi man mác” như Kiều, mà là mặc cho gió trời lộng thổi, nhưng Tê-rê-sa Hài Đồng, hoàn toàn phó thác cho cánh Thần Ưng muốn “kênh” đi đâu thì tùy ý mặc lòng!
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |