Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
3. HẠT GIỐNG TIN MỪNG
Thời trẻ, tôi luôn luôn thay đổi trường học, tùy theo sự thuyên chuyển của thân phụ tôi về mặt công vụ; Chủ yếu đi về giữa Huế - Khánh Hòa - Huế. Năm 1936, tôi theo trọ học nhà anh T.T.T (về trường tiểu học Thịnh Xá) thuyên chuyển ra dạy học ở Vinh. Năm 1937, tôi lại theo anh TTT về ở trường học Thịnh Xá (ở đó tôi gặp anh Đinh Nho Liêm), cuối niên học 37 - 38, đỗ tiểu học xong, tôi lại trở về với gia đình tại Huế để thi vào trường Quốc học Huế.
Kỳ thi hạch vào trường quốc học Huế, tôi bị hỏng! Có lẽ tôi bị loại điểm ngay từ môn chính tả, bởi vì, tôi tuy học giỏi, nhưng về môn chính tả thì tôi rất kém: cứ lầm lẫn số ít số nhiều, giống đực giống cái ... Mà thời ấy các kỳ thi lại lấy điểm chính tả làm điểm loại, hễ môn ấy mà bị 5 lỗi là bị loại không được chấm điểm các môn khác (dù các bài ấy có khá cũng không được chấm luôn!). Thế là mẹ tôi quyết định cho tôi theo học chương trình Pháp tại trường Thiên Hựu ở Huế, chứ không vào các trường tư thục theo chương trình của Đông Dương. Với cái kém chính tả ấy, tôi mà theo chương trình trung học Dông Dương thì sẽ khó lòng qua cái ải kỳ thi trung học Pháp Việt với điểm loại do môn chính tả. Còn theo chương trình Pháp thì học từ lớp 6 đến lớp I, thi tú tài bán phần Pháp không có môn chính tả, tôi có thể hy vọng đỗ dễ dàng. Không hiểu vì có ai biết rõ nên đã khuyên mẹ tôi như vậy, hay chính mẹ tôi muốn cho con mình học tại trường trung học tư thục có giá nhất ở Huế thời ấy là trường Thiên Hựu.
Dầu sao cái quyết định của mẹ tôi cho tôi thi vào trường Thiên Hựu quả là do “Thiên Hựu” (Providence: sự quan phòng, sự an bài xếp đặt của Thiên Chúa). Vì có vậy ngày nay mới có tập hồi ký này. Có vậy tôi mới biết Chúa Giêsu, mới trở thành tín hữu của Ngài. Mà như vậy thì việc tôi thi hỏng vào trường Quốc học ở Huế là cơ hội cho tôi được cái Hồng Phúc trên mọi ơn phúc là “phúc được biết Chúa Giêsu” là điều kiện, là căn bản của sự sống đời đời! Thi hỏng là cái cơ hội được phúc muôn đời! Viết đến đây... tôi muốn qùy gối im lặng thật lâu để thờ lạy THÁNH Ý NHIỆM MẦU thăm thẳm của THIÊN CHÚA, với lòng cảm tạ vô cùng, kinh ngạc vô cùng.
Suy cho hết lẽ thì hình như đó là khởi dầu MẦU NHIỆM THẬP GIÁ đối với tôi: Một sự cố xem ra bề ngoài là “thất bại” lại là cơ may cho tôi bước vào con đường cứu rỗi muôn đời! Từ việc này, tôi muốn được phép rút ra một kết luận: “Thất bại ở đời này, chưa hẳn là vô phúc!”. Và nếu không phải tội mình gây ra thì chắc chắn là ĐẠI HỒNG PHÚC. Phải chăng vì thế mà đã có câu ca vịnh: “AVE CRUX SPES UNICA”: Chào mừng CÂY THẬP GIÁ, nguồn Cậy trông duy nhất! Cũng xin nói ngay rằng trong những ngày bi đát nhất của đời tôi sau này, chính chân lý ấy là ánh Sáng soi đường cho tôi, khuyến khích nâng đỡ tôi làm cho tôi không bao giờ tuyệt vọng.
Dù có xảy ra biến cố gì, dù cho trời long đất lở cũng vậy thôi! Có thể về tâm lý tự nhiên, tôi chung chia những nỗi lo buồn, sầu não, sợ hãi, băn khoăn, chán nản, mệt nhọc... với anh em nhân loại; nhưng tuyệt vọng thì nhất định không bao giờ! Việc tôi thi hỏng là một cái gì rất đau đớn cho tôi, vì trừ ông anh thứ hai của tôi ra (do đau ốm nên đã có hỏng thi), thì trong gia đình tôi hễ thi là đậu và đậu rất cao, không thủ khoa thì cũng vòng thứ năm là cùng. Tôi là người trong gia đình thi hỏng lần đầu vì dốt môn chính tả! lúc ấy tôi thấy khổ tâm và nhục lắm! Có phải chăng chỉ một việc ấy đã chứa đựng mầm mống cho bài học “thập giá” sau này? Thế nhưng rồi từ đó đến ngày tôi đỗ tú tài I năm 1944, tôi lại tiếp tục là một học trò giỏi, ngoan... Việc tôi học một trường Pháp trong trường tư thục do các Linh mục hội Thừa sai Paris điều khiển, là một sự cố có tính cách quyết định lên cuộc đời tôi: vì căn bản nền học vấn thực sự của tôi, chính là nền học vấn được giảng dạy trong sáu năm trời, từ năm 38 - 44 tại trường Thiên Hựu. Đó là nền học vấn nhân văn Tây Phương được giảng dạy trong một tinh thần Công giáo. Có thể gói ghém vào hai phạm trù cốt tủy: Một nền nhân bản từ văn minh Hy Lạp - La Mã, đã được nhuần nhuyễn với một nền Thiện Căn của Công Giáo, kết tinh là nền văn chương thế kỷ 17 với Bossuet, Descartes, Pascal, Racine. Hạt nhân kiến thức của tôi là văn học thế kỷ 17 mà trọng tâm là Pascal một thiên tài về khoa học văn chương, tư tưởng, một tín hữu Công Giáo có đời sống thần hiệp (mystique) khá cao thâm. Sở dĩ như vậy, vì tuy là con nhà Nho học, nhưng tôi không được học chữ Hán và không học tiếp Nho giáo, mà chỉ chịu một nền giáo dục gia đình theo khuôn khổ Nho giáo cổ truyền. Về Phật giáo, Lão giáo cũng vậy, tôi không bao giờ được thực sự học hai nền triết học ấy cả, chỉ chịu ảnh hưởng qua văn chương phong tục mà thôi. Còn học vấn thực sự của tôi là nền văn học Pháp như tôi đã nói ở trên. Tâm trí tôi đã được nhuần nhuyễn văn hoá ấy từ lúc 13 tuổi đến 20 tuổi là những năm quyết định về mặt tư tưởng của một con người. Ở đó, vị thày chính yếu là Pascal. Về sau, tôi có được biết nhiều tư tưởng gia đông tây kim cổ nhưng tôi vẫn thấy Pascal là bậc thầy tư tưởng của tôi về triết học tự nhiên cũng như về tư tưởng và cảm thức tôn giáo (tôi không dùng chữ Thần Học, vì Pascal không phải là nhà thần học chuyên môn, mà tôi cũng không được học chuyên khoa thần học).
Tôi nói rằng có hỏng thi hạch vào Quốc học Huế, tôi mới vào học Thiên Hựu, và nhờ đó mới được hồng phúc trở nên tín hữu Công giáo, nhưng buổi ấy thì chẳng ai ngờ, ngay cả chính tôi cũng không ngờ nổi! Mãi đến nay đã trên 30 năm là tín hữu Công giáo, mà nhiều lúc hồi tưởng lại tôi vẫn thấy thật không ngờ! ơn tôi được hưởng quả là ơn Thiên Chúa ban cho vượt qua mọi sự có thể ngờ được! Cho nên hiện nay gia đình, họ hàng, bạn bè cũ của tôi vẫn lấy làm ngạc nhiên rằng làm sao như tôi mà thành người tín hữu Công giáo được! Không ngờ được đến nỗi tới nay vẫn có người thắc mắc nghi vấn không biết tôi có thực tâm là tín hữu Công giáo không??! hay là tôi bị khống chế, hay là tôi bị bùa mê thuốc lú gì chăng? Các bạn chỉ quen biết tôi sau khi tôi theo đạo Công giáo thì không biết điều ấy; chứ các bạn cũ của tôi trước ngày tôi thành người Công giáo, thì vẫn cho là kỳ quặc, không sao hiểu nổi! Mà thực ra trong bản chất, việc tôi theo Chúa Giêsu là mầu nhiệm tình yêu lựa chọn của Ngài, làm sao mà hiểu nổi! (Nào ai cắt nghĩa một tình yêu ? tình yêu nhân loại đã thế, huống chi là Tình yêu lựa chọn của Thiên Chúa!). Chính tôi lắm lúc vẫn thưa với Chúa rằng: “ Trong vòng gia đình con, bạn bè con, dân tộc con, bao nhiêu người xứng đáng hơn con, nếu họ được Chúa chọn như con thì chắc họ sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn con, phụng sự Chúa đắc lực hơn con nhiều”. Nhưng quả đúng như lời Ngài dậy: “Ta chọn lựa không phải kẻ xứng đáng, nhưng là kẻ Ta xót thương”.
Ôi lạy Chúa, tình xót thương nhưng-không của Chúa, con cũng như bất kỳ ai, lành sao mà hiểu được! Một chỉ biết cúi đầu thờ lạy mà thôi.
Vâng quả thế, khi tôi được trúng tuyển vào học ở trường Thiên Hựu, bà Chị kế tôi có nói với mẹ tôi rằng:
– Mợ không sợ thằng Dương nó theo đạo sao?
– KHÔNG BAO GIỜ !
Đó là câu trả lời của tôi lúc ấy. Tôi vốn là đứa bé hay cả thẹn, hơi nhút nhát, ít bộc lộ suy nghĩ tình cảm trước mặt người lớn, mà dám trả lời tức khắc một cách dứt khoát, gọn ghẽ như thế, thì đủ rõ: trước khi bước chân vào trường Thiên Hựu, đối với đạo Công giáo, tôi như thế nào rồi.
Mà đương nhiên là vậy. Tôi là người Nghệ Tĩnh, là nơi có truyền khống Văn Thân, lại là con nhà Nho cỡ lớn thì đối với Công giáo, có rất nhiều thành kiến chẳng mấy tốt đẹp. Trước hết tôi cũng như phần lớn dư luận cho rằng Công giáo có phần trách nhiệm trong việc dẫn đường cho Pháp cướp Nước ta. Sau nữa, Công giáo là “tà đạo”, dạy mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc, gây ấn tượng rờn rợn! Chẳng những nó là ngoại lai (do Pháp truyền sang) mà lại như là một thứ người khác hẳn mọi người (vì ngay đối với một số người Pháp “cấp tiến” thuộc phái tự do tư tưởng - libre penseur - thì Công giáo cũng là kỳ quặc, hủ lậu, lạc hậu, mê tín dị đoan, mù quáng); người Công giáo lại cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ - thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi - con nhà khoa bảng, học thức - hơi có vẻ khinh đạo Công giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc. Vì vậy, “cậu ấm” lên 13 lúc ấy đã dứt khoát ngay để mà trả lời “Không bao giờ” là lẽ dĩ nhiên! Những thành kiến của tôi đối với đạo Công giáo, mãi đến năm 1945, tuy có giảm đi nhiều về mặt trí thức, nhưng về mặt cảm tính, thì đã thành quán tính ăn sâu vào hệ quản, huyết thống, nên vẫn còn khá mạnh. Chính cuối năm 44 sang đầu năm 45, có hai bạn cùng lớp ngỏ ý muốn theo đạo Công giáo, thì tôi và một số bạn bè khác hết sức tìm cách ngăn trở và nhất là chế diễu nhạo cười.
Thế nhưng, vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó. Trước hết là các vị linh mục giáo sư. Điều làm tôi lưu ý là sự tận tâm chức nghiệp của các vị ấy. Ai đã có học trường tư thục Công giáo chắc đều nhận chân điều đó. Điều thứ hai là “tình yêu người” được bộc lộ ra qua cách đối xử. Tôi xin phân biệt “yêu” người với “thương” người. Đạo Khổng cũng dạy: thương người như thể thương thân; đạo Phật, cao hơn, còn dạy thương người, thương cả vạn vật chúng sinh; giúp người hoạn nạn, cứu người cùng khổ ... Thì chủ nghĩa nào, tôn giáo nào cũng dạy thế cả; nhưng “yêu” người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được.
Yêu người đây là thái độ tương tự như thái độ với người tình duy nhất: có cái gì trìu mến, yêu thương, đằm thắm, thiết tha, làm cho người ta có cảm tưởng mình được xem như là một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế của một người yêu. Như thánh Âu Tinh đã định nghĩa : “tình yêu là niềm vui của tôi vì sự hiện hữu của Anh”, chứ không vì một lý do nào khác. Vì vậy, người được yêu cảm thấy mình là một giá trị độc nhất vô nhị đối với người yêu mình; và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi! Sở dĩ người ta có lúc quỳ gối trước mặt và hôn chân người yêu là vì thế!
Lẽ dĩ nhiên, chỉ có Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chịu chết vì môn đệ, và một vài vị thánh như Phan-xi-cô Át-xi-di, Vinh Sơn Phao-lô, mới yêu bất cứ người nào cũng như một người tình duy nhất; nhưng tôi thấy rằng chính cách thức cư xử của các linh mục đều có ít nhiều cái gì tương tự! Sau này, khi sống với các bạn Công giáo, tôi cũng đều có cái cảm giác như vậy. Thái độ này không phải là một đức hạnh hiểu theo nghĩa luân lý đạo đức (vertu), mà là một động thái (comportement) bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người. Tôi xin lấy một ví dụ cho rõ: tôi được hân hạnh quen biết một vị sư mà tôi hết sức kính mến, đó là Thượng toạ Thích Mật Thể. Đứng về phương diện đạo đức luân lý, ngài là một bậc chân tu, đạo hạnh rất cao, có lẽ ít linh mục tu sĩ Công giáo nào sánh kịp. Thế nhưng mỗi lần tiếp xúc với ngài, tôi tuy biết rằng ngài có thể liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một “ngã vị”. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mên của Ngài.
Hình như nhà văn Nguyễn Tuân có viết ở đâu đó rằng: “Nụ cười của nhà sư chỉ có vẻ hiền lành mà thôi”. Câu ấy tả đúng tâm trạng của tôi mỗi lần được hân hạnh tiếp xúc với các vị sư và chiêm bái tượng Phật. (Xin các bạn Phật giáo hiểu cho rằng tôi không muốn nói hơn thua, mà chỉ mô tả để phân biệt thôi. Và tôi nghĩ rằng theo cái nhìn Phật giáo, thì chính cái “lửa yêu mến” ấy là một thứ dục mà thôi. Và cái nhân sinh Kitô giáo đề cao ngã vị, đặt nhân vị lên trên các loài chúng sinh vẫn là chấp ngã, chấp trước).
Trái lại, một linh mục, một tu sĩ, một giáo dân Công giáo, dầu về mặt đạo hạnh theo nghĩa luân lý đạo đức, so với Thượng Toạ Mật Thể dù còn thua xa, nhưng trong động thái thì có cái gì ấm áp hơn, có lẽ bắt nguồn từ Ngọn Lửa Yêu Mến mà Chúa Giêsu đã tỏ ra qua Thánh Tâm Ngài đã bị lưỡi đòng đâm thủng. Mà cũng có lẽ vì vậy mà - theo một số bạn bè của tôi nhận xét thì - hình như phái nữ Công giáo “đa tình” hơn. Có phải chăng là do từ tấm bé, chữ “Yêu” đã được nhập tâm và in sâu hình ảnh hai trái tim bị đau đớn vì YÊU: Trái tim Chúa Giêsu và Trái tim Đức Mẹ Maria?
Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse).
Vậy đi vào thế giới Kitô giáo, tôi được nếm mùi vị của tình yêu người, với cái gì ấp ủ, trìu mến, đằm thắm, da diết mà tôi không thấy ở nơi khác. Tôi cũng nhấn mạnh rằng là “tình yêu người”, chứ không phải là “đức thương người”. Mãi về sau, tôi mới biết nguồn gốc của những điều ấy được ghi chép trong các chương từ 13 đến 17 trong Tin Mừng theo thánh Gio-an. Tình yêu ấy là một động thái bộc phát từ tâm lý đã nhuần nhuyễn bởi một cái gì đối với mỗi một tha nhân. Còn đức thương người có thể nói như là kết quả dày công tu tập về luân lý đạo đức và cái nhìn về loài người nói chung.
Rồi và đến lúc tôi phải học môn giáo lý, vì trong chương trình, môn ấy là bắt buộc. Vốn chăm học, nên tôi tuy không là Công giáo hình như bao giờ tôi cũng được điểm cao về giáo lý, nếu không nói là điểm nhất, vì mỗi bài giáo lý tôi đều thuộc làu như bất cứ môn học nào phải học. Qua đó tôi được biết đời sống của Chúa Giêsu. Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn - nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết.
Tóm lại, sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): “sa personne” et “sa vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn. Có nhiều lúc thấy Ngài gần gũi đến nỗi như người cùng hội cùng thuyền; thậm chí, thấy Ngài thậl đáng thương, thật tội nghiệp: Đứa bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, phải chạy trốn lúc còn măng sữa, xin môn đệ cầu nguyện an ủi, nài nẵng xin Thiên Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng; trước lúc chết còn xin Cha tha cho kẻ giết mình, rồi phàn nàn như oán trách trời đất, trối trăn Mẹ mình cho môn đệ. Chúa Giêsu thật là người, “người” quá đỗi! Có giận, có nóng, có thương và hình như có ghét (chỉ không thù ai mà thôi). Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm - như người con càng biết mình làm mẹ buồn khổ thì càng tưởng nhớ đến mẹ mình, nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được! Phê-rô đã khóc sau khi chối bỏ Ngài là như vậy; mà có lẽ Giu-đa tự tử sau khi bán Ngài là vì vậy. Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!!
Hình ảnh đầu tiên của Ngài in vào tâm trí tôi là một bức ảnh nho nhỏ tôi được lãnh thưởng về môn giáo lý: hình dung Thánh Gio-an dựa đầu vào ngực Ngài, còn Ngài thì một ngón tay chỉ vào trái tim bừng tia lửa. Lúc ấy, tôi 14-15 tuổi gì đó. Tự nhiên tôi muốn được như Thánh Gio-an vậy! Tuy lúc đó tôi chưa tin vào Ngài là con Thiên Chúa cứu thế chuộc tội cả và loài người, nhưng tôi thấy mến Ngài một cách kỳ lạ. Rồi từ tâm tình ấy tôi mới để ý đến giáo lý của Ngài và tìm được những điều có ích, có giá trị trong lời Ngài dạy; nhưng như tôi đã ghi trên, về nội dung luân lý và triết học hiểu theo nghĩa tư tưởng loài người, thì chẳng có gì đặc biệt lắm! Cho nên rốt cuộc tôi vẫn xem Ngài như một con người đáng thương, đáng yêu trong lịch sử đã 2000 năm về quá khứ, bùi ngùi thương tiếc, thế thôi!
Thế rồi, mãi cho đến năm học lớp đệ nhị, tôi đã gặp Pascal. Pascal đã gieo vào tâm trí tôi một quan niệm về con người mà tôi cho là hiện thực bậc nhất. Nếu triết học là một nỗ lực thực hiện lời Socrate : “Hãy tìm hiểu chính mình”, thì tôi tưởng rằng, đối với tôi, Pascal là nhà triết học, một triết gia vĩ dại nhất của nhân loại. Triết lý của Pascal không cao siêu như đạo đức kinh, như Dialogue của Platon... nhưng giúp ta hiểu rõ về con người một cách gần như thấu suốt tâm can. Rồi Pascal cũng là người diễn tả đúng nhất con người trong vũ trụ và trước cái Tuyệt đối. Tôi nghĩ rằng về vấn đề nhân sinh, Pascal là nhà tư tưởng khó ai vượt qua nổi. Cả về mặt khoa học văn chương, Pascal cũng vào hàng vĩ nhân. Một thiên tài vĩ đại như thế cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa. Đọc bài của Pascal viết về giờ hấp hối của Giêsu Na-za-rét trong vườn Giêt-sê-ma-ni, tôi như được chứng kiến một cảnh thực diễn ra trước mắt, và hình như tôi được cùng Pascal thấy rõ là giọt máu nào Giêsu dành cho tôi vậy. Và câu “Giêsu hấp hối đến ngày tận thế” làm cho tôi tan nát cõi lòng! Câu này cũng là câu “Đời là bể khổ”, nhưng cụ thể hơn, và có cái gì gần gũi, thiết tha, gắn bó, ràng buộc mời gọi thông dự hơn là thúc dục tìm lối thoát.
Có thể nói năm ấy (1943) tôi chưa tin vào Giêsu là Thiên Chúa; nhưng một cách nào đó Giêsu đã dùng đoạn văn của Pascal là trung gian cho tôi được gặp Ngài trong giây phút bi thảm nhất của đời Ngài: Khi Ngài vất vả, u sầu, quằn quại đến độ đổ mồ hôi máu ra. Và phần nào tôi cũng cùng Pascal cảm nghiệm rằng máu Ngài đã thấm vào hồn tôi và trực cảm rằng tôi được Ngài yêu mến quá bội! Như vậy, cách nào đó tôi đã tìm được một cách cụ thể và hiện thực, vô cùng sâu xa, sống động, tận đáy lòng của tâm hồn cái ý nghĩa đau thương của cuộc đời. Cái nhìn về cuộc sống mà Kiều và Cung oán ... vẫn chi phối tâm hồn tôi, được hướng về Giêsu quằn quại trong vườn Giêtsêmani, và trút hơi thở trên khổ Giá vì một bản án tử hình oan khiên. Cái chết của Nhạc Phi, của Socrate, của Nguyễn Trãi, của bao nhiêu người khác chết vì đại nghĩa cũng như vì lòng nhân ái đối với kẻ hoạn nạn khốn cùng, đều như quy về cái chết của Giêsu trên khổ Giá. Nếu tâm hồn tôi từ tấm bé đã bị câu: “Đời là bể khổ” ám ảnh đè nặng, thì hình ảnh Giêsu quằn quại trong vườn Giêt-si-ma-ni và chết trên khổ Giá đã đem lại liều thuốc (hay nói đúng hơn: Một tiếng trả lời vọng lại, rền vang, in sâu vào tâm khảm) chữa lành trong hiện thực chứ không phải bằng tư duy trừu tượng.
Nhưng năm ấy, tất cả những điều đó chỉ có ở bình diện cảm tính nhân loại; tôi chỉ thấy Giêsu là con người thâu gồm cả kiếp người vốn là đau khổ. “ECCE HOMO”: NÀY LÀ NGƯỜI! Quả đúng vậy, nếu Diogène đã thắp đuốc tìm một con người, thì Pascal chính là người giới thiệu cho tôi con người: GIÊSU LÀ CON NGƯỜI ! và một cách nào đó Pascal đã cho tôi thấy con người của tôi, của mọi người, của mỗi một người đã được thể hiện trọn vẹn nơi CON NGƯỜI GIÊSU. Hình như bắt đầu đã có sự đồng hóa nào đó giữa tôi và mọi người với Giêsu và giữa Giêsu với mỗi người. Có lẽ lúc ấy tôi chưa tin rằng Giêsu là con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhưng về mặt thuần túy nhân loại thì tôi đã là người thuộc về Giêsu rồi, Giêsu là cả kiếp người, ai là người thì đã ở trong Giêsu rồi, và Giêsu ở nơi bất cứ người nào. “ECCE HOMO” “NÀY LÀ NGƯỜI”! Thuở ấy, về mặt nhân sinh, tôi đã cảm nghiệm được điều ấy qua trung gian sự giới thiệu của Pascal. Tuy vậy, cũng như những cảm tình đối với những sự cố trong gia đình, những nhân vật lịch sử hay nhân vật hư cấu trong văn chương mà có tính cách thống thiết bi ai, những tình cảm của tôi đối với Đức Giêsu thời đó có thêm, làm cho tôi dễ có một nhân sinh quan “đời là bể khổ”, là giấc mộng: những cảm tình ấy chỉ là những lớp phù sa cho từng trận lụt đọng lại thành từng lớp, tùy theo thời điểm, rồi lại chìm sâu vào tiềm thức, và bị khỏa lấp bởi sinh hoạt chính, đó là học hành cho thành đạt. Đó là lẽ thường của một cậu học sinh thuộc một gia đình quan lại, khá giả, đời sống nề nếp, khuôn phép hòa thuận, được bà con bằng hữu ít nhiều kính nể và thầy bạn yêu mến, ít nhiều tự mãn về gia đình bề thế (gia thế) của mình cũng như về khả năng học hành và tính hạnh của mình.
Thời trẻ, tôi luôn luôn thay đổi trường học, tùy theo sự thuyên chuyển của thân phụ tôi về mặt công vụ; Chủ yếu đi về giữa Huế - Khánh Hòa - Huế. Năm 1936, tôi theo trọ học nhà anh T.T.T (về trường tiểu học Thịnh Xá) thuyên chuyển ra dạy học ở Vinh. Năm 1937, tôi lại theo anh TTT về ở trường học Thịnh Xá (ở đó tôi gặp anh Đinh Nho Liêm), cuối niên học 37 - 38, đỗ tiểu học xong, tôi lại trở về với gia đình tại Huế để thi vào trường Quốc học Huế.
Kỳ thi hạch vào trường quốc học Huế, tôi bị hỏng! Có lẽ tôi bị loại điểm ngay từ môn chính tả, bởi vì, tôi tuy học giỏi, nhưng về môn chính tả thì tôi rất kém: cứ lầm lẫn số ít số nhiều, giống đực giống cái ... Mà thời ấy các kỳ thi lại lấy điểm chính tả làm điểm loại, hễ môn ấy mà bị 5 lỗi là bị loại không được chấm điểm các môn khác (dù các bài ấy có khá cũng không được chấm luôn!). Thế là mẹ tôi quyết định cho tôi theo học chương trình Pháp tại trường Thiên Hựu ở Huế, chứ không vào các trường tư thục theo chương trình của Đông Dương. Với cái kém chính tả ấy, tôi mà theo chương trình trung học Dông Dương thì sẽ khó lòng qua cái ải kỳ thi trung học Pháp Việt với điểm loại do môn chính tả. Còn theo chương trình Pháp thì học từ lớp 6 đến lớp I, thi tú tài bán phần Pháp không có môn chính tả, tôi có thể hy vọng đỗ dễ dàng. Không hiểu vì có ai biết rõ nên đã khuyên mẹ tôi như vậy, hay chính mẹ tôi muốn cho con mình học tại trường trung học tư thục có giá nhất ở Huế thời ấy là trường Thiên Hựu.
Dầu sao cái quyết định của mẹ tôi cho tôi thi vào trường Thiên Hựu quả là do “Thiên Hựu” (Providence: sự quan phòng, sự an bài xếp đặt của Thiên Chúa). Vì có vậy ngày nay mới có tập hồi ký này. Có vậy tôi mới biết Chúa Giêsu, mới trở thành tín hữu của Ngài. Mà như vậy thì việc tôi thi hỏng vào trường Quốc học ở Huế là cơ hội cho tôi được cái Hồng Phúc trên mọi ơn phúc là “phúc được biết Chúa Giêsu” là điều kiện, là căn bản của sự sống đời đời! Thi hỏng là cái cơ hội được phúc muôn đời! Viết đến đây... tôi muốn qùy gối im lặng thật lâu để thờ lạy THÁNH Ý NHIỆM MẦU thăm thẳm của THIÊN CHÚA, với lòng cảm tạ vô cùng, kinh ngạc vô cùng.
Suy cho hết lẽ thì hình như đó là khởi dầu MẦU NHIỆM THẬP GIÁ đối với tôi: Một sự cố xem ra bề ngoài là “thất bại” lại là cơ may cho tôi bước vào con đường cứu rỗi muôn đời! Từ việc này, tôi muốn được phép rút ra một kết luận: “Thất bại ở đời này, chưa hẳn là vô phúc!”. Và nếu không phải tội mình gây ra thì chắc chắn là ĐẠI HỒNG PHÚC. Phải chăng vì thế mà đã có câu ca vịnh: “AVE CRUX SPES UNICA”: Chào mừng CÂY THẬP GIÁ, nguồn Cậy trông duy nhất! Cũng xin nói ngay rằng trong những ngày bi đát nhất của đời tôi sau này, chính chân lý ấy là ánh Sáng soi đường cho tôi, khuyến khích nâng đỡ tôi làm cho tôi không bao giờ tuyệt vọng.
Dù có xảy ra biến cố gì, dù cho trời long đất lở cũng vậy thôi! Có thể về tâm lý tự nhiên, tôi chung chia những nỗi lo buồn, sầu não, sợ hãi, băn khoăn, chán nản, mệt nhọc... với anh em nhân loại; nhưng tuyệt vọng thì nhất định không bao giờ! Việc tôi thi hỏng là một cái gì rất đau đớn cho tôi, vì trừ ông anh thứ hai của tôi ra (do đau ốm nên đã có hỏng thi), thì trong gia đình tôi hễ thi là đậu và đậu rất cao, không thủ khoa thì cũng vòng thứ năm là cùng. Tôi là người trong gia đình thi hỏng lần đầu vì dốt môn chính tả! lúc ấy tôi thấy khổ tâm và nhục lắm! Có phải chăng chỉ một việc ấy đã chứa đựng mầm mống cho bài học “thập giá” sau này? Thế nhưng rồi từ đó đến ngày tôi đỗ tú tài I năm 1944, tôi lại tiếp tục là một học trò giỏi, ngoan... Việc tôi học một trường Pháp trong trường tư thục do các Linh mục hội Thừa sai Paris điều khiển, là một sự cố có tính cách quyết định lên cuộc đời tôi: vì căn bản nền học vấn thực sự của tôi, chính là nền học vấn được giảng dạy trong sáu năm trời, từ năm 38 - 44 tại trường Thiên Hựu. Đó là nền học vấn nhân văn Tây Phương được giảng dạy trong một tinh thần Công giáo. Có thể gói ghém vào hai phạm trù cốt tủy: Một nền nhân bản từ văn minh Hy Lạp - La Mã, đã được nhuần nhuyễn với một nền Thiện Căn của Công Giáo, kết tinh là nền văn chương thế kỷ 17 với Bossuet, Descartes, Pascal, Racine. Hạt nhân kiến thức của tôi là văn học thế kỷ 17 mà trọng tâm là Pascal một thiên tài về khoa học văn chương, tư tưởng, một tín hữu Công Giáo có đời sống thần hiệp (mystique) khá cao thâm. Sở dĩ như vậy, vì tuy là con nhà Nho học, nhưng tôi không được học chữ Hán và không học tiếp Nho giáo, mà chỉ chịu một nền giáo dục gia đình theo khuôn khổ Nho giáo cổ truyền. Về Phật giáo, Lão giáo cũng vậy, tôi không bao giờ được thực sự học hai nền triết học ấy cả, chỉ chịu ảnh hưởng qua văn chương phong tục mà thôi. Còn học vấn thực sự của tôi là nền văn học Pháp như tôi đã nói ở trên. Tâm trí tôi đã được nhuần nhuyễn văn hoá ấy từ lúc 13 tuổi đến 20 tuổi là những năm quyết định về mặt tư tưởng của một con người. Ở đó, vị thày chính yếu là Pascal. Về sau, tôi có được biết nhiều tư tưởng gia đông tây kim cổ nhưng tôi vẫn thấy Pascal là bậc thầy tư tưởng của tôi về triết học tự nhiên cũng như về tư tưởng và cảm thức tôn giáo (tôi không dùng chữ Thần Học, vì Pascal không phải là nhà thần học chuyên môn, mà tôi cũng không được học chuyên khoa thần học).
Tôi nói rằng có hỏng thi hạch vào Quốc học Huế, tôi mới vào học Thiên Hựu, và nhờ đó mới được hồng phúc trở nên tín hữu Công giáo, nhưng buổi ấy thì chẳng ai ngờ, ngay cả chính tôi cũng không ngờ nổi! Mãi đến nay đã trên 30 năm là tín hữu Công giáo, mà nhiều lúc hồi tưởng lại tôi vẫn thấy thật không ngờ! ơn tôi được hưởng quả là ơn Thiên Chúa ban cho vượt qua mọi sự có thể ngờ được! Cho nên hiện nay gia đình, họ hàng, bạn bè cũ của tôi vẫn lấy làm ngạc nhiên rằng làm sao như tôi mà thành người tín hữu Công giáo được! Không ngờ được đến nỗi tới nay vẫn có người thắc mắc nghi vấn không biết tôi có thực tâm là tín hữu Công giáo không??! hay là tôi bị khống chế, hay là tôi bị bùa mê thuốc lú gì chăng? Các bạn chỉ quen biết tôi sau khi tôi theo đạo Công giáo thì không biết điều ấy; chứ các bạn cũ của tôi trước ngày tôi thành người Công giáo, thì vẫn cho là kỳ quặc, không sao hiểu nổi! Mà thực ra trong bản chất, việc tôi theo Chúa Giêsu là mầu nhiệm tình yêu lựa chọn của Ngài, làm sao mà hiểu nổi! (Nào ai cắt nghĩa một tình yêu ? tình yêu nhân loại đã thế, huống chi là Tình yêu lựa chọn của Thiên Chúa!). Chính tôi lắm lúc vẫn thưa với Chúa rằng: “ Trong vòng gia đình con, bạn bè con, dân tộc con, bao nhiêu người xứng đáng hơn con, nếu họ được Chúa chọn như con thì chắc họ sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn con, phụng sự Chúa đắc lực hơn con nhiều”. Nhưng quả đúng như lời Ngài dậy: “Ta chọn lựa không phải kẻ xứng đáng, nhưng là kẻ Ta xót thương”.
Ôi lạy Chúa, tình xót thương nhưng-không của Chúa, con cũng như bất kỳ ai, lành sao mà hiểu được! Một chỉ biết cúi đầu thờ lạy mà thôi.
Vâng quả thế, khi tôi được trúng tuyển vào học ở trường Thiên Hựu, bà Chị kế tôi có nói với mẹ tôi rằng:
– Mợ không sợ thằng Dương nó theo đạo sao?
– KHÔNG BAO GIỜ !
Đó là câu trả lời của tôi lúc ấy. Tôi vốn là đứa bé hay cả thẹn, hơi nhút nhát, ít bộc lộ suy nghĩ tình cảm trước mặt người lớn, mà dám trả lời tức khắc một cách dứt khoát, gọn ghẽ như thế, thì đủ rõ: trước khi bước chân vào trường Thiên Hựu, đối với đạo Công giáo, tôi như thế nào rồi.
Mà đương nhiên là vậy. Tôi là người Nghệ Tĩnh, là nơi có truyền khống Văn Thân, lại là con nhà Nho cỡ lớn thì đối với Công giáo, có rất nhiều thành kiến chẳng mấy tốt đẹp. Trước hết tôi cũng như phần lớn dư luận cho rằng Công giáo có phần trách nhiệm trong việc dẫn đường cho Pháp cướp Nước ta. Sau nữa, Công giáo là “tà đạo”, dạy mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc, gây ấn tượng rờn rợn! Chẳng những nó là ngoại lai (do Pháp truyền sang) mà lại như là một thứ người khác hẳn mọi người (vì ngay đối với một số người Pháp “cấp tiến” thuộc phái tự do tư tưởng - libre penseur - thì Công giáo cũng là kỳ quặc, hủ lậu, lạc hậu, mê tín dị đoan, mù quáng); người Công giáo lại cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ - thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi - con nhà khoa bảng, học thức - hơi có vẻ khinh đạo Công giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc. Vì vậy, “cậu ấm” lên 13 lúc ấy đã dứt khoát ngay để mà trả lời “Không bao giờ” là lẽ dĩ nhiên! Những thành kiến của tôi đối với đạo Công giáo, mãi đến năm 1945, tuy có giảm đi nhiều về mặt trí thức, nhưng về mặt cảm tính, thì đã thành quán tính ăn sâu vào hệ quản, huyết thống, nên vẫn còn khá mạnh. Chính cuối năm 44 sang đầu năm 45, có hai bạn cùng lớp ngỏ ý muốn theo đạo Công giáo, thì tôi và một số bạn bè khác hết sức tìm cách ngăn trở và nhất là chế diễu nhạo cười.
Thế nhưng, vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó. Trước hết là các vị linh mục giáo sư. Điều làm tôi lưu ý là sự tận tâm chức nghiệp của các vị ấy. Ai đã có học trường tư thục Công giáo chắc đều nhận chân điều đó. Điều thứ hai là “tình yêu người” được bộc lộ ra qua cách đối xử. Tôi xin phân biệt “yêu” người với “thương” người. Đạo Khổng cũng dạy: thương người như thể thương thân; đạo Phật, cao hơn, còn dạy thương người, thương cả vạn vật chúng sinh; giúp người hoạn nạn, cứu người cùng khổ ... Thì chủ nghĩa nào, tôn giáo nào cũng dạy thế cả; nhưng “yêu” người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được.
Yêu người đây là thái độ tương tự như thái độ với người tình duy nhất: có cái gì trìu mến, yêu thương, đằm thắm, thiết tha, làm cho người ta có cảm tưởng mình được xem như là một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế của một người yêu. Như thánh Âu Tinh đã định nghĩa : “tình yêu là niềm vui của tôi vì sự hiện hữu của Anh”, chứ không vì một lý do nào khác. Vì vậy, người được yêu cảm thấy mình là một giá trị độc nhất vô nhị đối với người yêu mình; và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi! Sở dĩ người ta có lúc quỳ gối trước mặt và hôn chân người yêu là vì thế!
Lẽ dĩ nhiên, chỉ có Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chịu chết vì môn đệ, và một vài vị thánh như Phan-xi-cô Át-xi-di, Vinh Sơn Phao-lô, mới yêu bất cứ người nào cũng như một người tình duy nhất; nhưng tôi thấy rằng chính cách thức cư xử của các linh mục đều có ít nhiều cái gì tương tự! Sau này, khi sống với các bạn Công giáo, tôi cũng đều có cái cảm giác như vậy. Thái độ này không phải là một đức hạnh hiểu theo nghĩa luân lý đạo đức (vertu), mà là một động thái (comportement) bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người. Tôi xin lấy một ví dụ cho rõ: tôi được hân hạnh quen biết một vị sư mà tôi hết sức kính mến, đó là Thượng toạ Thích Mật Thể. Đứng về phương diện đạo đức luân lý, ngài là một bậc chân tu, đạo hạnh rất cao, có lẽ ít linh mục tu sĩ Công giáo nào sánh kịp. Thế nhưng mỗi lần tiếp xúc với ngài, tôi tuy biết rằng ngài có thể liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một “ngã vị”. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mên của Ngài.
Hình như nhà văn Nguyễn Tuân có viết ở đâu đó rằng: “Nụ cười của nhà sư chỉ có vẻ hiền lành mà thôi”. Câu ấy tả đúng tâm trạng của tôi mỗi lần được hân hạnh tiếp xúc với các vị sư và chiêm bái tượng Phật. (Xin các bạn Phật giáo hiểu cho rằng tôi không muốn nói hơn thua, mà chỉ mô tả để phân biệt thôi. Và tôi nghĩ rằng theo cái nhìn Phật giáo, thì chính cái “lửa yêu mến” ấy là một thứ dục mà thôi. Và cái nhân sinh Kitô giáo đề cao ngã vị, đặt nhân vị lên trên các loài chúng sinh vẫn là chấp ngã, chấp trước).
Trái lại, một linh mục, một tu sĩ, một giáo dân Công giáo, dầu về mặt đạo hạnh theo nghĩa luân lý đạo đức, so với Thượng Toạ Mật Thể dù còn thua xa, nhưng trong động thái thì có cái gì ấm áp hơn, có lẽ bắt nguồn từ Ngọn Lửa Yêu Mến mà Chúa Giêsu đã tỏ ra qua Thánh Tâm Ngài đã bị lưỡi đòng đâm thủng. Mà cũng có lẽ vì vậy mà - theo một số bạn bè của tôi nhận xét thì - hình như phái nữ Công giáo “đa tình” hơn. Có phải chăng là do từ tấm bé, chữ “Yêu” đã được nhập tâm và in sâu hình ảnh hai trái tim bị đau đớn vì YÊU: Trái tim Chúa Giêsu và Trái tim Đức Mẹ Maria?
Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse).
Vậy đi vào thế giới Kitô giáo, tôi được nếm mùi vị của tình yêu người, với cái gì ấp ủ, trìu mến, đằm thắm, da diết mà tôi không thấy ở nơi khác. Tôi cũng nhấn mạnh rằng là “tình yêu người”, chứ không phải là “đức thương người”. Mãi về sau, tôi mới biết nguồn gốc của những điều ấy được ghi chép trong các chương từ 13 đến 17 trong Tin Mừng theo thánh Gio-an. Tình yêu ấy là một động thái bộc phát từ tâm lý đã nhuần nhuyễn bởi một cái gì đối với mỗi một tha nhân. Còn đức thương người có thể nói như là kết quả dày công tu tập về luân lý đạo đức và cái nhìn về loài người nói chung.
Rồi và đến lúc tôi phải học môn giáo lý, vì trong chương trình, môn ấy là bắt buộc. Vốn chăm học, nên tôi tuy không là Công giáo hình như bao giờ tôi cũng được điểm cao về giáo lý, nếu không nói là điểm nhất, vì mỗi bài giáo lý tôi đều thuộc làu như bất cứ môn học nào phải học. Qua đó tôi được biết đời sống của Chúa Giêsu. Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn - nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết.
Tóm lại, sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): “sa personne” et “sa vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn. Có nhiều lúc thấy Ngài gần gũi đến nỗi như người cùng hội cùng thuyền; thậm chí, thấy Ngài thậl đáng thương, thật tội nghiệp: Đứa bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, phải chạy trốn lúc còn măng sữa, xin môn đệ cầu nguyện an ủi, nài nẵng xin Thiên Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng; trước lúc chết còn xin Cha tha cho kẻ giết mình, rồi phàn nàn như oán trách trời đất, trối trăn Mẹ mình cho môn đệ. Chúa Giêsu thật là người, “người” quá đỗi! Có giận, có nóng, có thương và hình như có ghét (chỉ không thù ai mà thôi). Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm - như người con càng biết mình làm mẹ buồn khổ thì càng tưởng nhớ đến mẹ mình, nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được! Phê-rô đã khóc sau khi chối bỏ Ngài là như vậy; mà có lẽ Giu-đa tự tử sau khi bán Ngài là vì vậy. Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!!
Hình ảnh đầu tiên của Ngài in vào tâm trí tôi là một bức ảnh nho nhỏ tôi được lãnh thưởng về môn giáo lý: hình dung Thánh Gio-an dựa đầu vào ngực Ngài, còn Ngài thì một ngón tay chỉ vào trái tim bừng tia lửa. Lúc ấy, tôi 14-15 tuổi gì đó. Tự nhiên tôi muốn được như Thánh Gio-an vậy! Tuy lúc đó tôi chưa tin vào Ngài là con Thiên Chúa cứu thế chuộc tội cả và loài người, nhưng tôi thấy mến Ngài một cách kỳ lạ. Rồi từ tâm tình ấy tôi mới để ý đến giáo lý của Ngài và tìm được những điều có ích, có giá trị trong lời Ngài dạy; nhưng như tôi đã ghi trên, về nội dung luân lý và triết học hiểu theo nghĩa tư tưởng loài người, thì chẳng có gì đặc biệt lắm! Cho nên rốt cuộc tôi vẫn xem Ngài như một con người đáng thương, đáng yêu trong lịch sử đã 2000 năm về quá khứ, bùi ngùi thương tiếc, thế thôi!
Thế rồi, mãi cho đến năm học lớp đệ nhị, tôi đã gặp Pascal. Pascal đã gieo vào tâm trí tôi một quan niệm về con người mà tôi cho là hiện thực bậc nhất. Nếu triết học là một nỗ lực thực hiện lời Socrate : “Hãy tìm hiểu chính mình”, thì tôi tưởng rằng, đối với tôi, Pascal là nhà triết học, một triết gia vĩ dại nhất của nhân loại. Triết lý của Pascal không cao siêu như đạo đức kinh, như Dialogue của Platon... nhưng giúp ta hiểu rõ về con người một cách gần như thấu suốt tâm can. Rồi Pascal cũng là người diễn tả đúng nhất con người trong vũ trụ và trước cái Tuyệt đối. Tôi nghĩ rằng về vấn đề nhân sinh, Pascal là nhà tư tưởng khó ai vượt qua nổi. Cả về mặt khoa học văn chương, Pascal cũng vào hàng vĩ nhân. Một thiên tài vĩ đại như thế cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa. Đọc bài của Pascal viết về giờ hấp hối của Giêsu Na-za-rét trong vườn Giêt-sê-ma-ni, tôi như được chứng kiến một cảnh thực diễn ra trước mắt, và hình như tôi được cùng Pascal thấy rõ là giọt máu nào Giêsu dành cho tôi vậy. Và câu “Giêsu hấp hối đến ngày tận thế” làm cho tôi tan nát cõi lòng! Câu này cũng là câu “Đời là bể khổ”, nhưng cụ thể hơn, và có cái gì gần gũi, thiết tha, gắn bó, ràng buộc mời gọi thông dự hơn là thúc dục tìm lối thoát.
Có thể nói năm ấy (1943) tôi chưa tin vào Giêsu là Thiên Chúa; nhưng một cách nào đó Giêsu đã dùng đoạn văn của Pascal là trung gian cho tôi được gặp Ngài trong giây phút bi thảm nhất của đời Ngài: Khi Ngài vất vả, u sầu, quằn quại đến độ đổ mồ hôi máu ra. Và phần nào tôi cũng cùng Pascal cảm nghiệm rằng máu Ngài đã thấm vào hồn tôi và trực cảm rằng tôi được Ngài yêu mến quá bội! Như vậy, cách nào đó tôi đã tìm được một cách cụ thể và hiện thực, vô cùng sâu xa, sống động, tận đáy lòng của tâm hồn cái ý nghĩa đau thương của cuộc đời. Cái nhìn về cuộc sống mà Kiều và Cung oán ... vẫn chi phối tâm hồn tôi, được hướng về Giêsu quằn quại trong vườn Giêtsêmani, và trút hơi thở trên khổ Giá vì một bản án tử hình oan khiên. Cái chết của Nhạc Phi, của Socrate, của Nguyễn Trãi, của bao nhiêu người khác chết vì đại nghĩa cũng như vì lòng nhân ái đối với kẻ hoạn nạn khốn cùng, đều như quy về cái chết của Giêsu trên khổ Giá. Nếu tâm hồn tôi từ tấm bé đã bị câu: “Đời là bể khổ” ám ảnh đè nặng, thì hình ảnh Giêsu quằn quại trong vườn Giêt-si-ma-ni và chết trên khổ Giá đã đem lại liều thuốc (hay nói đúng hơn: Một tiếng trả lời vọng lại, rền vang, in sâu vào tâm khảm) chữa lành trong hiện thực chứ không phải bằng tư duy trừu tượng.
Nhưng năm ấy, tất cả những điều đó chỉ có ở bình diện cảm tính nhân loại; tôi chỉ thấy Giêsu là con người thâu gồm cả kiếp người vốn là đau khổ. “ECCE HOMO”: NÀY LÀ NGƯỜI! Quả đúng vậy, nếu Diogène đã thắp đuốc tìm một con người, thì Pascal chính là người giới thiệu cho tôi con người: GIÊSU LÀ CON NGƯỜI ! và một cách nào đó Pascal đã cho tôi thấy con người của tôi, của mọi người, của mỗi một người đã được thể hiện trọn vẹn nơi CON NGƯỜI GIÊSU. Hình như bắt đầu đã có sự đồng hóa nào đó giữa tôi và mọi người với Giêsu và giữa Giêsu với mỗi người. Có lẽ lúc ấy tôi chưa tin rằng Giêsu là con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhưng về mặt thuần túy nhân loại thì tôi đã là người thuộc về Giêsu rồi, Giêsu là cả kiếp người, ai là người thì đã ở trong Giêsu rồi, và Giêsu ở nơi bất cứ người nào. “ECCE HOMO” “NÀY LÀ NGƯỜI”! Thuở ấy, về mặt nhân sinh, tôi đã cảm nghiệm được điều ấy qua trung gian sự giới thiệu của Pascal. Tuy vậy, cũng như những cảm tình đối với những sự cố trong gia đình, những nhân vật lịch sử hay nhân vật hư cấu trong văn chương mà có tính cách thống thiết bi ai, những tình cảm của tôi đối với Đức Giêsu thời đó có thêm, làm cho tôi dễ có một nhân sinh quan “đời là bể khổ”, là giấc mộng: những cảm tình ấy chỉ là những lớp phù sa cho từng trận lụt đọng lại thành từng lớp, tùy theo thời điểm, rồi lại chìm sâu vào tiềm thức, và bị khỏa lấp bởi sinh hoạt chính, đó là học hành cho thành đạt. Đó là lẽ thường của một cậu học sinh thuộc một gia đình quan lại, khá giả, đời sống nề nếp, khuôn phép hòa thuận, được bà con bằng hữu ít nhiều kính nể và thầy bạn yêu mến, ít nhiều tự mãn về gia đình bề thế (gia thế) của mình cũng như về khả năng học hành và tính hạnh của mình.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |