Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
14. QUÊ NGƯỜI
Sau hơn hai năm ở quân đội, vào khoảng tháng 7/1956 tôi được giải ngũ và trở về tiếp tục học thần học tại dòng Phanxicô như trước. Sau đó, hai tu sĩ cùng lớp với tôi cũng được giải ngũ trở về. Cuối tháng 9/1956, ba chúng tôi và một tu sĩ nữa được nhà dòng gởi sang Pháp, tiếp tục học thần học tại học viện của tỉnh dòng Phanxicô Paris; lý do là vì so với các bạn học cùng lớp không bị động viên, anh em chúng tôi đã bị trễ mất 2 năm, không có lớp cùng lứa tại dòng Phanxicô ở Việt Nam. Chúng tôi sang Pháp bằng đường thủy. Chiếc tàu đưa chúng tôi là chiếc “Vietnam” của công ty hàng hải Pháp “Messageries maritimes”: một chiếc tàu thủy tối tân. Bốn anh em chúng tôi ở chung một cabine, thuộc loại du lịch trung bình. Cuộc hành trình dài 3 tuần. Có ghé Colombo và Djbouti. Ở Colombo, chúng tôi có ghé thăm dòng nữ Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ, có một số nữ tu Việt nam được gởi tu tại đó. Trong cuộc hành trình, điều đập mạnh vào tâm trí tôi nhất, là những buổi hoàng hôn, những đêm trăng, những bình minh: Cảnh trùng dương bát ngát bao la làm nổi bật dấu vết sự Vô biên của Tạo Hóa và sự bé bỏng của con người. Đúng chiều ngày 4/10/56, nhằm lễ Thánh Phanxicô, chúng tôi cập bến tại hải cảng Marseille và trú ngụ tại tu viện Phanxicô ở đó. Tu viện này thuộc tỉnh dòng Phanxicô Lyon.
Hai ngày sau chúng tôi đáp tàu hoả lên Paris, đến ngay Thần học viện ở Orsay, một vùng ngoại ô cách Paris quãng 20 km. Sau một tuần nghỉ ngơi, chúng tôi bắt đầu học thần học năm thứ hai tại đó. Trong khuôn khổ một Thần học viện của một dòng tu, chúng tôi không biết gì về cuộc sống chung quanh cả. Ngay đêm đầu tiên từ Marseille đến Paris, chúng tôi đã được đưa về Orsay, và Paris, kinh đô Ánh sáng của thế giới, chúng tôi cũng đã không được tham quan, du ngoạn. Ngoài việc Tu viện cao rộng hơn mức sống cao hơn ở Việt Nam một ít, bạn đồng tu toàn là người Pháp, ban giáo sư hùng hậu, và cảnh mùa thu đầy lá vàng trong khu vườn rộng bao quanh, cuộc sống của chúng tôi không khác gì với cuộc sống những năm tu học ở Nha Trang. Ở Pháp, ở Việt Nam hay ở đâu đi nữa, đời sống tu vẫn giống nhau trong cơ bản, vì cùng chung một luật dòng, một tinh thần có tính cách siêu việt, vượt khỏi mọi phân chia, cách biệt do Dân tộc và văn hóa mà ra. Từ phương trời nào cũng là anh em một đại gia đình thiêng liêng của vị Thánh lập dòng: Phanxicô nghèo khó, khiêm hạ, vui vẻ ít nhiều tính nghệ sĩ phóng khoáng.
Tuy vậy, dầu sao cũng gọi là được du học tại Pháp! Năm 1945, cái mộng của cậu học sinh lớp triết trường Khải Định là được học tại Đại học Sorbonne! Giờ đây, tuy chỉ là một tu sĩ thần học tại Orsay nhưng tính thẳng theo cánh chim bay, tôi chỉ ở cách Sorbonne chừng trên 10 km, nhưng kể ra cũng là một điều kỳ lạ: mối tình đầu với nàng Triết học gần như là tắt ngúm trong tôi. Tôi không còn đam mê say sưa triết học như trước nữa. Và lòng tôi đã hướng về một địa danh khác: Port Royal! Port Royal này chỉ còn là một di tích của một viện tu hoang phế, nhưng ba thế kỷ trước đó thiên tài khoa học và triết lý văn chương đã lui về đó sống một cuộc đời “thần hiệp”. Dẫu khi bỏ cả một sự nghiệp lẫy lừng về phương diện trí tuệ thế trần Pascal đã rời bỏ thế giới trí tuệ (L’ordre de l’esprit) để đi vào thế giới của Đức ái (L’ordre de la Charité). Phanxicô thành Atxidi, Gioan Thánh giá, Têrêxa thành Lidiơ đã làm mờ nhạt trong tâm hồn tôi - chẳng những Platon, Aristote, Kant, Hégel vv.. mà ngay cả Tôma Aquinô.
Với tất cả sự thẹn thùng và khiêm tốn của một kẻ đã có lúc xuống tận đáy vực sâu tội lỗi, tôi xin ghi lại một kỷ niệm mà trước đây tôi chưa nói tới, đã xảy ra vào năm 1954, trong tháng ngày tôi được biết mình sẽ bị cưỡng bách tòng quân rời xa cuộc đời tu trì để bị ném vào “trại lính”. Trong túc tâm tư đang nặng trĩu vì viễn tượng 2 năm “ắc ê” trong bộ quân phục, súng vác lên vai, chiều hôm ấy, qua cửa sổ của một căn phòng nhỏ hẹp trong Thần học viện Nha Trang nhìn ra cửa biển mà ít nhiều liên tưởng đến mấy câu thơ của Nguyễn Du tả nỗi buồn của Thúy Kiều với câu hỏi: “Hoa trôi man mác biết là về đâu?” (Vì nay mai rời tu viện vào quân trường, tôi cũng sẽ có phần nào như hoa trôi man mác vậy), tôi liền mở cuốn Gioan Thánh giá toàn tập ra đọc; tình cờ (mà có gì là tình cờ trong câu chuyện của một linh hồn, dù là một linh hồn chẳng ra gì!), tôi đọc đế đoạn của Thánh Gioan mô tả sự tỉnh thức của Ngôi Lời trên chiếc giường hợp cẩn là chính linh hồn được đưa vào phòng hoa chúc của “thần hiệp”. Trong một thoáng chốc, tôi như cảm nghiệm được ít nhiều “hương vị” của một cái có thể gọi như là một “dư âm”, “lưu tích”, một “hình bóng” của điều mà thánh Gioan Thánh giá mô tả. Đến nay đã hơn 30 năm, nhưng tôi vẫn thấy như giây phút ấy có một tầm mức vượt qua thời gian, chắc hẳn rằng đó không phải là giây phút tôi đã được Ân sủng Thần hiệp thực sự viếng thăm, đúng hơn tôi chỉ như thể người bạn đứng ngoài phòng cưới, nhưng khi nghe được tiếng Tân Lang (là Ngôi Hai) chào đón Tân Nương - (trong trường hợp này có thể là chính Thánh Gioan Thánh giá trong giây phút ngài được ân phúc ấy, giây phút mà ngài đã mô tả như trên) thì lòng tôi cũng được rộn rã một niềm vui như đã nói đến trong Tin Mừng.
Thế là tâm hồn tôi như luôn hướng về đỉnh cao ấy của núi Cát Minh, nơi mà Thánh Gioan Thánh giá đã được Chúa ban ơn nâng lên. Từ giây phút ấy, cho đến mãi bây giờ, hồn tôi như một con thuyền sóng gió trôi dạt trên biển đời, dù có khi tưởng chừng như sắp bị đánh đắm, thì vẫn luôn luôn hướng về giây phút ấy - như hướng về ngôi sao Bắc Đẩu, hoặc như một người tình nhân hướng về nơi xảy ra cuộc kỳ ngộ với người mình yêu: tôi như luôn nghe văng vẳng một tiếng gọi xa xăm, vừa như trên cao vọng xuống, vừa như nhớ nhung một cái gì xảy ra trong quá khứ, lại vừa như một mời gọi hướng về tương lai. Nói tóm lại như một cái gì phát xuất từ một hạt nhân hữu thể ở ngoài khuôn khổ không gian và thời gian, mang màu sắc, âm thanh, hương vị của Vĩnh cửu và Tuyệt đối. Cho nên, tôi có ý thức rằng có lẽ mình thuộc gia đình thiêng liêng của đỉnh núi Cát Minh (Famille spirituelle), nơi ẩn náu của tiên tri Elia, mà sau này là cái nôi sinh ra dòng Cát Minh với hai Thánh Nam và Nữ mà đại biểu sáng ngời là Thánh Têrêsa thành Avila và Thánh Gioan Thánh giá và gần đây nhất là Thánh Têrêsa Hài Đồng, vị Thánh lúc sinh thời đã nghĩ đến việc (và đã được chỉ định) sang Việt Nam, trong số các nữ tu lập dòng kín Cát Minh tại Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam. Và như tôi đã nói trên đây nếu thuở ấy có dòng nam Cát Minh tại Việt Nam, thì tôi đã xin chuyển sang ngay sao khi hết nhà tập. Ở Pháp, thì việc ấy có thể thực hiện được dễ dàng nếu như tôi muốn. Thế nhưng, tôi vẫn bị ràng buộc bởi tình cảm gắn bó với gia đình Phanxicô Việt Nam, là nơi tôi đã cấm phòng dọn mình chịu bí tích Thánh Tẩy, là người đã đưa tôi từ Vinh vào Nha Trang, đã dành cho tôi bao nhiêu tình nghĩa anh em, cha con trong 5 năm, và cuối cùng lại chọn tôi vào số được gởi sang Pháp du học, tức là hàm ý đặt một kỳ vọng nào đó. Xin ra khỏi dòng Phanxicô, chuyển sang một dòng khác: không khỏi có một cái gì như phụ ân, phụ nghĩa, ngoài ra cũng không phải không có những bất trắc như nhảy từ một con thuyền đã gần đắm sang một con thuyền dầu sao cũng mới lạ! Cho nên tôi cứ chần chừ trong một sự bất ổn tương tự như thời gian 1954 ở Nha Trang trước khi bị động viên nhập ngũ.
Trong tình trạng như vậy, đời sống tâm lý của tôi trở nên lung lay: Tâm chứng mà tôi có đề cập qua trên kia lại xuất hiện, lại thêm sức khỏe của tôi chưa thích ứng với khí hậu xứ lạnh nên không được tốt lắm. Do đó, tôi gần như rơi vào tình trạng của một kẻ bất thường về sức khoẻ thể lý cũng như tâm lý. Đó là nguyên nhân làm cho tôi rơi vào một trạng huống đi đến chỗ phạm phải một việc vừa có tính cách là một “tội lỗi”, vừa có tính cách là một “tai nạn” đối với một người anh em trong cộng đoàn. Sự việc ấy xét cho cùng, chẳng qua chỉ là một hậu quả gần như tất yếu của qui tuật tâm-thể-lý vốn đã bất ổn lại phải chịu những biến cố dồn dập xảy đến cho tôi 10 năm qua: từ cuối 1945 đến đầu 1956. Tuy vậy tôi vẫn là kẻ chịu trách nhiệm về công việc đáng tiếc xảy ra giữa tôi và người anh em ấy. Về sau quan hệ giữa chúng tôi lại được hàn gắn và tốt đẹp như thường. Thế nhưng sự việc ấy là dịp cho các vị có trách nhiệm trong cộng đoàn đi đến kết luận:
Hoặc có thể tôi không có ơn gọi theo đời sống tu trì cộng đoàn;
Hoặc tôi không phù hợp với gia đình thiêng liêng Phanxicô. Dù sao ít nhất tức thời tôi phải tạm ngưng đời sống. Tu hành một thời gian để kiểm chứng xem có thể tìm lại sự quân bình về mọi mặt, đồng thời cũng tìm hiểu thêm liệu có phải một cuộc sống trong một dòng tu chiêm niệm hợp với tâm hồn tôi hơn là dòng Phanxicô chăng?
Thế là sau khi hết thời gian khấn tạm, tôi rời khỏi dòng Phanxicô ra ngoài đời, sống một mình giữa kinh thành Paris ánh sáng phồn hoa đô hội, rực rỡ văn minh, nhưng cũng đầy trăm nghìn cạm bẫy: tình dục, tư tưởng, chính trị, v.v… với hai bàn tay trắng, một sức khoẻ sút kém, một tinh thần bị hoang mang đến cực độ! Và có cả cạm bẫy của chính trị nữa: lúc ấy ở Paris, anh Viện tôi là tổng thư ký hội liên hiệp Việt kiều, tổ chức của các kiều bào có lập trường hướng về miền Bắc; tại toà đại sứ của chính phủ miền Nam (thân phụ tôi vốn đã có thời kỳ làm quan ở Huế cùng lúc với ông Ngô Đình Diệm, và một số bạn quen của tôi lại là tay chân của các ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, lại thêm một số Linh mục muốn tôi trở nên một cán bộ cho chủ nghĩa “nhân vị”! Đó là chưa kể đến các ông Phan Huy Quát, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, hết thảy đều là con cái của những người bạn làm quan đồng liêu với thân phụ tôi, không phải là không lưu ý đến tôi, và đều có nhắn gửi xa gần cả!
Nhưng đối với tôi, tất cả đều vô nghĩa, không có tác dụng gì cả! Ngay đến việc ghi danh học triết học tại Paris (cái giấc mộng lớn nhất của tôi năm tôi học triết tại trường Khải Định) nay ở trong tầm tay, tôi cũng không màng. Giữa thành phố Paris với những lâu đài tráng lệ, với bao cơ sở văn hóa lừng danh, tôi chỉ thấy: “Vanitas vanitatis vanitatum!” Quyết định đầu tiên của tôi là trở về Việt Nam ngay tức khắc. Vì sao vậy? Vì sau khi rửa tội, tôi chỉ có một ước nguyện là Dâng mình cho Tình yêu Thiên Chúa trong một dòng tu. Năm 1950, tôi rời Bắc vào Nam là cũng chỉ là theo ơn kêu gọi, vâng lời Bề trên chuyển tu tập viện ở Vinh sang thần học viện ở Nha Trang thuộc dòng Phanxicô Việt Nam trên toàn lãnh thổ. Đối với một tu sĩ, không vấn đề Bắc Nam, nên không phải là việc trốn vùng Cộng sản sang vùng Quốc gia. (Bởi vì, nếu giả sử bấy giờ tập viện ở Nha Trang mà thần học viện ở Vinh, thì sau thời kỳ tập tu ở Nha Trang có thể chúng tôi chuyển từ Nam ra Bắc để tiếp tục quy trình tu học). Cũng tương tự như vậy, năm 1956 tôi được Bề trên gởi sang Pháp du học để trau dồi học vấn trong tinh thần dòng tu. Nay không còn là tu sĩ dòng Phanxicô nữa, tôi tự nhủ: lúc này ở Pháp mà làm gì? Chẳng có gì hấp dẫn tôi cả! Ban triết học Sorbonne, hay Hội Liên Hiệp Việt Kiều, hoặc Tòa đại sứ miền Nam Việt Nam, đối với tôi đều như không có vậy. Ở Paris, tôi chỉ thấy có 2 nơi đáng lưu ý thôi: Nguyện đường nhà mẹ dòng Nữ tử Bác ái Rue du Bac, nơi Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Catherine Labouré và Vương cung Thánh đường Thánh Tâm ở đồi Monmartre, nơi Mình Thánh Chúa được thiết triều thờ lạy gần hai thế kỷ không lúc nào ngơi. Và nước Pháp cũng chỉ có 2 nơi làm tôi ít nhiều lưu luyến là Lidiơ và Lộ Đức, còn tất cả, có đi xem là xem cho vui vậy thôi. Lúc tôi bày tỏ ý định về Việt Nam, Bề trên có gợi ý tôi ghé ngang qua Rôma hành hương. Tôi cũng chẳng thấy mấy hấp dẫn: Đền đài, ảnh tượng thì xem trong hình cũng đủ rồi, có khi lại đẹp hơn! Không khéo nhìn sự thực lại có điều thất vọng. Tôi vẫn sợ gặp khách du lịch hơn khách hành hương. Chầu Mình Thánh Chúa tại một túp nhà nguyện lợp tranh, tại một xóm nghèo ở miền thôn dã, núi non ở Việt Nam có lẽ ở gần Nadarét hơn, gần Bêtania hơn. Các viện phung hủi ở Qui Hòa, Di linh; núi Sạn Nha Trang – có lẽ gần Golgôtha hơn. Ở trần gian này, đâu có Mình Thánh Chúa Giêsu là có đỉnh Tabor, là có đỉnh núi Sọ; còn ngoài ra thì ở đâu cũng là hình bóng thế gian này rồi sẽ qua đi mà thôi! Lều cỏ hay đền vàng điện ngọc cũng vậy, sống gần anh em mục đồng hay giữa các vị bộ trưởng, các văn nhân bác học cũng vậy, chỉ cần có người đọc một lời “các con hãy làm việc này mà nhớ đến ta” là dủ! Thậm chí, nếu có sự cố xảy ra, thì chỉ cần ở đâu có một vầng trán được in dấu Thánh tẩy cất lời: “Lạy Cha” là đủ! Mà chúng ta biết, khi có sự cố xảy ra, thì một người ngoài Công giáo cũng có thể đổ nước trên đầu ai đó tỏ ý muốn chịu phép Thánh Tẩy. Ôi kỳ diệu dường bao! Một giọt nước chảy trên đầu một người có lòng muốn chịu phép Thánh Tẩy, thì dù do bàn tay một người ngoài Công giáo cũng biến một người thành Đền Thánh - nơi Thiên Chúa ngự xuống ở cùng chúng ta. Đi đâu hay làm gì, ở đâu, với ai mà chẳng được! Tôi hình dung trở về Việt Nam sẽ xin ở lại dòng Phanxicô với tư cách là cư sĩ (oblat) hoặc ở giúp tại nhà xứ của một Linh mục thuộc địa phận Vinh nào đó; miễn sao được ở dưới cùng một mái nhà với Mình Máu Thánh Chúa là lý tưởng, còn thì làm gì cũng được. Như trên kia đã nói: đối với tôi, đời sống âm thầm cầu nguyện lặng lẽ như Têrêxa Hài Đồng vốn là niềm mơ ước trọn vẹn nhất.
Tôi đã lấy vé máy bay trở lại Việt Nam (do nhà dòng đài thọ) và đi chào Đức Mẹ ở Lộ Đức; thế nhưng Linh mục Pacifique Nguyễn Bình An, bấy giờ là Bề trên phụ trách toàn dòng Phanxicô ở Việt Nam (mà đồng thời cũng là người cha, người anh cả, người linh hướng của tôi) viết thư sang khuyên tôi hãy khoan về Việt Nam, ngài sắp sang Paris, hãy đợi ngài gặp, ngài trao đổi cho kỹ lưỡng đã, rồi hãy quyết định. Anh Viện tôi cũng có khuyên tôi ở lại Pháp. Theo lời khuyên của Linh mục An, tôi ở lại Pháp chờ ngài sang trao đổi. Vài tháng sau ngài sang Pháp, ngài thuyết phục tôi nên ở lại Pháp, ghi danh học tại Sorbonne. Ngài bảo rằng Hội Thánh Việt Nam rất cần những người có trình độ văn hóa cao, tôi là người có khả năng, nhà dòng đã tốn kém nhiều công sức gởi sang Pháp là điều rất khó thì tôi có bổn phận phải biết lợi dụng thời cơ thuận tiện mà trau dồi kiến thức; nếu quả có ơn gọi tu kín thì cũng không thừa, vì kiến thức cũng có thể giúp cho đời sống thiêng liêng. Ngài nói: “Anh không thể sống như thầy trợ sĩ ít học, vì dù sao, anh cũng đã lỡ là một người khá không minh, có học thức; đời sống thiêng liêng của anh cũng phải dựa trên kiến thức, chứ anh không thể sống một cách đơn sơ như anh em ít học thức đâu! Người có đầu óc như anh, con nhà như anh mà làm trợ sĩ thì phải có ơn đặc biệt lắm mới được! Anh phải khiêm tốn theo con đường dung thường, đừng liều mình vào con đường đặc biệt trừ khi có dấu chỉ Chúa gọi rõ ràng! Do đó, cứ ở lại theo học Sorbonne, đồng thời cầu nguyện xin Chúa soi sáng thêm, chứ quyết định về Việt Nam trong lúc này một cách vội vàng, thì tôi sợ rằng đó chỉ là phản ứng tự nhiên, thiếu sự kiên nhẫn, và đừng có ngại khó khăn một mình ở Paris, tôi sẽ giúp đỡ anh”.
Trong lời khuyên ấy, tôi thấy có lý nhất là ở chỗ chờ tìm ơn kêu gọi. Về mặt này, ở Pháp sẽ thuận lợi hơn, vì nhiều dòng tu, hướng tu, có nhiều vị giàu kinh nghiệm về linh đạo thuộc đủ mọi xu hướng (kể cả truyền thống về chính thống giáo như tại Chevretogne ở Bỉ, truyền thống tin lành như ở Taizé). Rồi thêm điểm nữa đối với tôi thì ơn “trợ sĩ” (Convers) là quá cao, tôi phải khiêm nhường theo con đường của người có học vấn! “Đối với anh thì học vấn là khiêm nhường, trợ sĩ là liều mình!”. Cái nhìn của Linh mục An cho tôi thấy có cái gì quả là khác thường, có thể nói là siêu nhiên! Vì vậy tôi vâng lời Ngài mà ở lại Pháp, chứ trong thâm tâm tôi chẳng có hăng hái gì là một sinh viên Đại học Sorbonne (cái mộng của tôi năm 1954). Điều làm tôi phấn khởi là triển vọng sẽ tìm thấy một hướng tu với nhiều điều kiện thuận lợi hơn đối với hoàn cảnh văn hóa ở Việt Nam, kể cả cái triển vọng tìm hiểu truyền thống các Thánh Phụ ở Đông Phương mà tôi nghĩ có thể phù hợp với tâm hồn tôi và tâm hồn Á Đông nói chung. Vả chăng từ hồi vào nhà tập cho đến lúc bây giờ, tôi vẫn xem dòng Phanxicô như gia đình của mình, đã nuôi nấng dạy dỗ mình trong thời coi như là thơ ấu về mặt đời sống tín hữu; việc tôi vào Nam và sang Pháp, cũng đều do công của nhà dòng đài thọ, vì thế ý kiến của Linh mục An đối với tôi, dù chỉ là lời khuyên, có tác dụng như một ý muốn của cha mẹ mà tôi nên tuân theo.
Sau hơn hai năm ở quân đội, vào khoảng tháng 7/1956 tôi được giải ngũ và trở về tiếp tục học thần học tại dòng Phanxicô như trước. Sau đó, hai tu sĩ cùng lớp với tôi cũng được giải ngũ trở về. Cuối tháng 9/1956, ba chúng tôi và một tu sĩ nữa được nhà dòng gởi sang Pháp, tiếp tục học thần học tại học viện của tỉnh dòng Phanxicô Paris; lý do là vì so với các bạn học cùng lớp không bị động viên, anh em chúng tôi đã bị trễ mất 2 năm, không có lớp cùng lứa tại dòng Phanxicô ở Việt Nam. Chúng tôi sang Pháp bằng đường thủy. Chiếc tàu đưa chúng tôi là chiếc “Vietnam” của công ty hàng hải Pháp “Messageries maritimes”: một chiếc tàu thủy tối tân. Bốn anh em chúng tôi ở chung một cabine, thuộc loại du lịch trung bình. Cuộc hành trình dài 3 tuần. Có ghé Colombo và Djbouti. Ở Colombo, chúng tôi có ghé thăm dòng nữ Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ, có một số nữ tu Việt nam được gởi tu tại đó. Trong cuộc hành trình, điều đập mạnh vào tâm trí tôi nhất, là những buổi hoàng hôn, những đêm trăng, những bình minh: Cảnh trùng dương bát ngát bao la làm nổi bật dấu vết sự Vô biên của Tạo Hóa và sự bé bỏng của con người. Đúng chiều ngày 4/10/56, nhằm lễ Thánh Phanxicô, chúng tôi cập bến tại hải cảng Marseille và trú ngụ tại tu viện Phanxicô ở đó. Tu viện này thuộc tỉnh dòng Phanxicô Lyon.
Hai ngày sau chúng tôi đáp tàu hoả lên Paris, đến ngay Thần học viện ở Orsay, một vùng ngoại ô cách Paris quãng 20 km. Sau một tuần nghỉ ngơi, chúng tôi bắt đầu học thần học năm thứ hai tại đó. Trong khuôn khổ một Thần học viện của một dòng tu, chúng tôi không biết gì về cuộc sống chung quanh cả. Ngay đêm đầu tiên từ Marseille đến Paris, chúng tôi đã được đưa về Orsay, và Paris, kinh đô Ánh sáng của thế giới, chúng tôi cũng đã không được tham quan, du ngoạn. Ngoài việc Tu viện cao rộng hơn mức sống cao hơn ở Việt Nam một ít, bạn đồng tu toàn là người Pháp, ban giáo sư hùng hậu, và cảnh mùa thu đầy lá vàng trong khu vườn rộng bao quanh, cuộc sống của chúng tôi không khác gì với cuộc sống những năm tu học ở Nha Trang. Ở Pháp, ở Việt Nam hay ở đâu đi nữa, đời sống tu vẫn giống nhau trong cơ bản, vì cùng chung một luật dòng, một tinh thần có tính cách siêu việt, vượt khỏi mọi phân chia, cách biệt do Dân tộc và văn hóa mà ra. Từ phương trời nào cũng là anh em một đại gia đình thiêng liêng của vị Thánh lập dòng: Phanxicô nghèo khó, khiêm hạ, vui vẻ ít nhiều tính nghệ sĩ phóng khoáng.
Tuy vậy, dầu sao cũng gọi là được du học tại Pháp! Năm 1945, cái mộng của cậu học sinh lớp triết trường Khải Định là được học tại Đại học Sorbonne! Giờ đây, tuy chỉ là một tu sĩ thần học tại Orsay nhưng tính thẳng theo cánh chim bay, tôi chỉ ở cách Sorbonne chừng trên 10 km, nhưng kể ra cũng là một điều kỳ lạ: mối tình đầu với nàng Triết học gần như là tắt ngúm trong tôi. Tôi không còn đam mê say sưa triết học như trước nữa. Và lòng tôi đã hướng về một địa danh khác: Port Royal! Port Royal này chỉ còn là một di tích của một viện tu hoang phế, nhưng ba thế kỷ trước đó thiên tài khoa học và triết lý văn chương đã lui về đó sống một cuộc đời “thần hiệp”. Dẫu khi bỏ cả một sự nghiệp lẫy lừng về phương diện trí tuệ thế trần Pascal đã rời bỏ thế giới trí tuệ (L’ordre de l’esprit) để đi vào thế giới của Đức ái (L’ordre de la Charité). Phanxicô thành Atxidi, Gioan Thánh giá, Têrêxa thành Lidiơ đã làm mờ nhạt trong tâm hồn tôi - chẳng những Platon, Aristote, Kant, Hégel vv.. mà ngay cả Tôma Aquinô.
Với tất cả sự thẹn thùng và khiêm tốn của một kẻ đã có lúc xuống tận đáy vực sâu tội lỗi, tôi xin ghi lại một kỷ niệm mà trước đây tôi chưa nói tới, đã xảy ra vào năm 1954, trong tháng ngày tôi được biết mình sẽ bị cưỡng bách tòng quân rời xa cuộc đời tu trì để bị ném vào “trại lính”. Trong túc tâm tư đang nặng trĩu vì viễn tượng 2 năm “ắc ê” trong bộ quân phục, súng vác lên vai, chiều hôm ấy, qua cửa sổ của một căn phòng nhỏ hẹp trong Thần học viện Nha Trang nhìn ra cửa biển mà ít nhiều liên tưởng đến mấy câu thơ của Nguyễn Du tả nỗi buồn của Thúy Kiều với câu hỏi: “Hoa trôi man mác biết là về đâu?” (Vì nay mai rời tu viện vào quân trường, tôi cũng sẽ có phần nào như hoa trôi man mác vậy), tôi liền mở cuốn Gioan Thánh giá toàn tập ra đọc; tình cờ (mà có gì là tình cờ trong câu chuyện của một linh hồn, dù là một linh hồn chẳng ra gì!), tôi đọc đế đoạn của Thánh Gioan mô tả sự tỉnh thức của Ngôi Lời trên chiếc giường hợp cẩn là chính linh hồn được đưa vào phòng hoa chúc của “thần hiệp”. Trong một thoáng chốc, tôi như cảm nghiệm được ít nhiều “hương vị” của một cái có thể gọi như là một “dư âm”, “lưu tích”, một “hình bóng” của điều mà thánh Gioan Thánh giá mô tả. Đến nay đã hơn 30 năm, nhưng tôi vẫn thấy như giây phút ấy có một tầm mức vượt qua thời gian, chắc hẳn rằng đó không phải là giây phút tôi đã được Ân sủng Thần hiệp thực sự viếng thăm, đúng hơn tôi chỉ như thể người bạn đứng ngoài phòng cưới, nhưng khi nghe được tiếng Tân Lang (là Ngôi Hai) chào đón Tân Nương - (trong trường hợp này có thể là chính Thánh Gioan Thánh giá trong giây phút ngài được ân phúc ấy, giây phút mà ngài đã mô tả như trên) thì lòng tôi cũng được rộn rã một niềm vui như đã nói đến trong Tin Mừng.
Thế là tâm hồn tôi như luôn hướng về đỉnh cao ấy của núi Cát Minh, nơi mà Thánh Gioan Thánh giá đã được Chúa ban ơn nâng lên. Từ giây phút ấy, cho đến mãi bây giờ, hồn tôi như một con thuyền sóng gió trôi dạt trên biển đời, dù có khi tưởng chừng như sắp bị đánh đắm, thì vẫn luôn luôn hướng về giây phút ấy - như hướng về ngôi sao Bắc Đẩu, hoặc như một người tình nhân hướng về nơi xảy ra cuộc kỳ ngộ với người mình yêu: tôi như luôn nghe văng vẳng một tiếng gọi xa xăm, vừa như trên cao vọng xuống, vừa như nhớ nhung một cái gì xảy ra trong quá khứ, lại vừa như một mời gọi hướng về tương lai. Nói tóm lại như một cái gì phát xuất từ một hạt nhân hữu thể ở ngoài khuôn khổ không gian và thời gian, mang màu sắc, âm thanh, hương vị của Vĩnh cửu và Tuyệt đối. Cho nên, tôi có ý thức rằng có lẽ mình thuộc gia đình thiêng liêng của đỉnh núi Cát Minh (Famille spirituelle), nơi ẩn náu của tiên tri Elia, mà sau này là cái nôi sinh ra dòng Cát Minh với hai Thánh Nam và Nữ mà đại biểu sáng ngời là Thánh Têrêsa thành Avila và Thánh Gioan Thánh giá và gần đây nhất là Thánh Têrêsa Hài Đồng, vị Thánh lúc sinh thời đã nghĩ đến việc (và đã được chỉ định) sang Việt Nam, trong số các nữ tu lập dòng kín Cát Minh tại Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam. Và như tôi đã nói trên đây nếu thuở ấy có dòng nam Cát Minh tại Việt Nam, thì tôi đã xin chuyển sang ngay sao khi hết nhà tập. Ở Pháp, thì việc ấy có thể thực hiện được dễ dàng nếu như tôi muốn. Thế nhưng, tôi vẫn bị ràng buộc bởi tình cảm gắn bó với gia đình Phanxicô Việt Nam, là nơi tôi đã cấm phòng dọn mình chịu bí tích Thánh Tẩy, là người đã đưa tôi từ Vinh vào Nha Trang, đã dành cho tôi bao nhiêu tình nghĩa anh em, cha con trong 5 năm, và cuối cùng lại chọn tôi vào số được gởi sang Pháp du học, tức là hàm ý đặt một kỳ vọng nào đó. Xin ra khỏi dòng Phanxicô, chuyển sang một dòng khác: không khỏi có một cái gì như phụ ân, phụ nghĩa, ngoài ra cũng không phải không có những bất trắc như nhảy từ một con thuyền đã gần đắm sang một con thuyền dầu sao cũng mới lạ! Cho nên tôi cứ chần chừ trong một sự bất ổn tương tự như thời gian 1954 ở Nha Trang trước khi bị động viên nhập ngũ.
Trong tình trạng như vậy, đời sống tâm lý của tôi trở nên lung lay: Tâm chứng mà tôi có đề cập qua trên kia lại xuất hiện, lại thêm sức khỏe của tôi chưa thích ứng với khí hậu xứ lạnh nên không được tốt lắm. Do đó, tôi gần như rơi vào tình trạng của một kẻ bất thường về sức khoẻ thể lý cũng như tâm lý. Đó là nguyên nhân làm cho tôi rơi vào một trạng huống đi đến chỗ phạm phải một việc vừa có tính cách là một “tội lỗi”, vừa có tính cách là một “tai nạn” đối với một người anh em trong cộng đoàn. Sự việc ấy xét cho cùng, chẳng qua chỉ là một hậu quả gần như tất yếu của qui tuật tâm-thể-lý vốn đã bất ổn lại phải chịu những biến cố dồn dập xảy đến cho tôi 10 năm qua: từ cuối 1945 đến đầu 1956. Tuy vậy tôi vẫn là kẻ chịu trách nhiệm về công việc đáng tiếc xảy ra giữa tôi và người anh em ấy. Về sau quan hệ giữa chúng tôi lại được hàn gắn và tốt đẹp như thường. Thế nhưng sự việc ấy là dịp cho các vị có trách nhiệm trong cộng đoàn đi đến kết luận:
Hoặc có thể tôi không có ơn gọi theo đời sống tu trì cộng đoàn;
Hoặc tôi không phù hợp với gia đình thiêng liêng Phanxicô. Dù sao ít nhất tức thời tôi phải tạm ngưng đời sống. Tu hành một thời gian để kiểm chứng xem có thể tìm lại sự quân bình về mọi mặt, đồng thời cũng tìm hiểu thêm liệu có phải một cuộc sống trong một dòng tu chiêm niệm hợp với tâm hồn tôi hơn là dòng Phanxicô chăng?
Thế là sau khi hết thời gian khấn tạm, tôi rời khỏi dòng Phanxicô ra ngoài đời, sống một mình giữa kinh thành Paris ánh sáng phồn hoa đô hội, rực rỡ văn minh, nhưng cũng đầy trăm nghìn cạm bẫy: tình dục, tư tưởng, chính trị, v.v… với hai bàn tay trắng, một sức khoẻ sút kém, một tinh thần bị hoang mang đến cực độ! Và có cả cạm bẫy của chính trị nữa: lúc ấy ở Paris, anh Viện tôi là tổng thư ký hội liên hiệp Việt kiều, tổ chức của các kiều bào có lập trường hướng về miền Bắc; tại toà đại sứ của chính phủ miền Nam (thân phụ tôi vốn đã có thời kỳ làm quan ở Huế cùng lúc với ông Ngô Đình Diệm, và một số bạn quen của tôi lại là tay chân của các ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, lại thêm một số Linh mục muốn tôi trở nên một cán bộ cho chủ nghĩa “nhân vị”! Đó là chưa kể đến các ông Phan Huy Quát, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, hết thảy đều là con cái của những người bạn làm quan đồng liêu với thân phụ tôi, không phải là không lưu ý đến tôi, và đều có nhắn gửi xa gần cả!
Nhưng đối với tôi, tất cả đều vô nghĩa, không có tác dụng gì cả! Ngay đến việc ghi danh học triết học tại Paris (cái giấc mộng lớn nhất của tôi năm tôi học triết tại trường Khải Định) nay ở trong tầm tay, tôi cũng không màng. Giữa thành phố Paris với những lâu đài tráng lệ, với bao cơ sở văn hóa lừng danh, tôi chỉ thấy: “Vanitas vanitatis vanitatum!” Quyết định đầu tiên của tôi là trở về Việt Nam ngay tức khắc. Vì sao vậy? Vì sau khi rửa tội, tôi chỉ có một ước nguyện là Dâng mình cho Tình yêu Thiên Chúa trong một dòng tu. Năm 1950, tôi rời Bắc vào Nam là cũng chỉ là theo ơn kêu gọi, vâng lời Bề trên chuyển tu tập viện ở Vinh sang thần học viện ở Nha Trang thuộc dòng Phanxicô Việt Nam trên toàn lãnh thổ. Đối với một tu sĩ, không vấn đề Bắc Nam, nên không phải là việc trốn vùng Cộng sản sang vùng Quốc gia. (Bởi vì, nếu giả sử bấy giờ tập viện ở Nha Trang mà thần học viện ở Vinh, thì sau thời kỳ tập tu ở Nha Trang có thể chúng tôi chuyển từ Nam ra Bắc để tiếp tục quy trình tu học). Cũng tương tự như vậy, năm 1956 tôi được Bề trên gởi sang Pháp du học để trau dồi học vấn trong tinh thần dòng tu. Nay không còn là tu sĩ dòng Phanxicô nữa, tôi tự nhủ: lúc này ở Pháp mà làm gì? Chẳng có gì hấp dẫn tôi cả! Ban triết học Sorbonne, hay Hội Liên Hiệp Việt Kiều, hoặc Tòa đại sứ miền Nam Việt Nam, đối với tôi đều như không có vậy. Ở Paris, tôi chỉ thấy có 2 nơi đáng lưu ý thôi: Nguyện đường nhà mẹ dòng Nữ tử Bác ái Rue du Bac, nơi Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Catherine Labouré và Vương cung Thánh đường Thánh Tâm ở đồi Monmartre, nơi Mình Thánh Chúa được thiết triều thờ lạy gần hai thế kỷ không lúc nào ngơi. Và nước Pháp cũng chỉ có 2 nơi làm tôi ít nhiều lưu luyến là Lidiơ và Lộ Đức, còn tất cả, có đi xem là xem cho vui vậy thôi. Lúc tôi bày tỏ ý định về Việt Nam, Bề trên có gợi ý tôi ghé ngang qua Rôma hành hương. Tôi cũng chẳng thấy mấy hấp dẫn: Đền đài, ảnh tượng thì xem trong hình cũng đủ rồi, có khi lại đẹp hơn! Không khéo nhìn sự thực lại có điều thất vọng. Tôi vẫn sợ gặp khách du lịch hơn khách hành hương. Chầu Mình Thánh Chúa tại một túp nhà nguyện lợp tranh, tại một xóm nghèo ở miền thôn dã, núi non ở Việt Nam có lẽ ở gần Nadarét hơn, gần Bêtania hơn. Các viện phung hủi ở Qui Hòa, Di linh; núi Sạn Nha Trang – có lẽ gần Golgôtha hơn. Ở trần gian này, đâu có Mình Thánh Chúa Giêsu là có đỉnh Tabor, là có đỉnh núi Sọ; còn ngoài ra thì ở đâu cũng là hình bóng thế gian này rồi sẽ qua đi mà thôi! Lều cỏ hay đền vàng điện ngọc cũng vậy, sống gần anh em mục đồng hay giữa các vị bộ trưởng, các văn nhân bác học cũng vậy, chỉ cần có người đọc một lời “các con hãy làm việc này mà nhớ đến ta” là dủ! Thậm chí, nếu có sự cố xảy ra, thì chỉ cần ở đâu có một vầng trán được in dấu Thánh tẩy cất lời: “Lạy Cha” là đủ! Mà chúng ta biết, khi có sự cố xảy ra, thì một người ngoài Công giáo cũng có thể đổ nước trên đầu ai đó tỏ ý muốn chịu phép Thánh Tẩy. Ôi kỳ diệu dường bao! Một giọt nước chảy trên đầu một người có lòng muốn chịu phép Thánh Tẩy, thì dù do bàn tay một người ngoài Công giáo cũng biến một người thành Đền Thánh - nơi Thiên Chúa ngự xuống ở cùng chúng ta. Đi đâu hay làm gì, ở đâu, với ai mà chẳng được! Tôi hình dung trở về Việt Nam sẽ xin ở lại dòng Phanxicô với tư cách là cư sĩ (oblat) hoặc ở giúp tại nhà xứ của một Linh mục thuộc địa phận Vinh nào đó; miễn sao được ở dưới cùng một mái nhà với Mình Máu Thánh Chúa là lý tưởng, còn thì làm gì cũng được. Như trên kia đã nói: đối với tôi, đời sống âm thầm cầu nguyện lặng lẽ như Têrêxa Hài Đồng vốn là niềm mơ ước trọn vẹn nhất.
Tôi đã lấy vé máy bay trở lại Việt Nam (do nhà dòng đài thọ) và đi chào Đức Mẹ ở Lộ Đức; thế nhưng Linh mục Pacifique Nguyễn Bình An, bấy giờ là Bề trên phụ trách toàn dòng Phanxicô ở Việt Nam (mà đồng thời cũng là người cha, người anh cả, người linh hướng của tôi) viết thư sang khuyên tôi hãy khoan về Việt Nam, ngài sắp sang Paris, hãy đợi ngài gặp, ngài trao đổi cho kỹ lưỡng đã, rồi hãy quyết định. Anh Viện tôi cũng có khuyên tôi ở lại Pháp. Theo lời khuyên của Linh mục An, tôi ở lại Pháp chờ ngài sang trao đổi. Vài tháng sau ngài sang Pháp, ngài thuyết phục tôi nên ở lại Pháp, ghi danh học tại Sorbonne. Ngài bảo rằng Hội Thánh Việt Nam rất cần những người có trình độ văn hóa cao, tôi là người có khả năng, nhà dòng đã tốn kém nhiều công sức gởi sang Pháp là điều rất khó thì tôi có bổn phận phải biết lợi dụng thời cơ thuận tiện mà trau dồi kiến thức; nếu quả có ơn gọi tu kín thì cũng không thừa, vì kiến thức cũng có thể giúp cho đời sống thiêng liêng. Ngài nói: “Anh không thể sống như thầy trợ sĩ ít học, vì dù sao, anh cũng đã lỡ là một người khá không minh, có học thức; đời sống thiêng liêng của anh cũng phải dựa trên kiến thức, chứ anh không thể sống một cách đơn sơ như anh em ít học thức đâu! Người có đầu óc như anh, con nhà như anh mà làm trợ sĩ thì phải có ơn đặc biệt lắm mới được! Anh phải khiêm tốn theo con đường dung thường, đừng liều mình vào con đường đặc biệt trừ khi có dấu chỉ Chúa gọi rõ ràng! Do đó, cứ ở lại theo học Sorbonne, đồng thời cầu nguyện xin Chúa soi sáng thêm, chứ quyết định về Việt Nam trong lúc này một cách vội vàng, thì tôi sợ rằng đó chỉ là phản ứng tự nhiên, thiếu sự kiên nhẫn, và đừng có ngại khó khăn một mình ở Paris, tôi sẽ giúp đỡ anh”.
Trong lời khuyên ấy, tôi thấy có lý nhất là ở chỗ chờ tìm ơn kêu gọi. Về mặt này, ở Pháp sẽ thuận lợi hơn, vì nhiều dòng tu, hướng tu, có nhiều vị giàu kinh nghiệm về linh đạo thuộc đủ mọi xu hướng (kể cả truyền thống về chính thống giáo như tại Chevretogne ở Bỉ, truyền thống tin lành như ở Taizé). Rồi thêm điểm nữa đối với tôi thì ơn “trợ sĩ” (Convers) là quá cao, tôi phải khiêm nhường theo con đường của người có học vấn! “Đối với anh thì học vấn là khiêm nhường, trợ sĩ là liều mình!”. Cái nhìn của Linh mục An cho tôi thấy có cái gì quả là khác thường, có thể nói là siêu nhiên! Vì vậy tôi vâng lời Ngài mà ở lại Pháp, chứ trong thâm tâm tôi chẳng có hăng hái gì là một sinh viên Đại học Sorbonne (cái mộng của tôi năm 1954). Điều làm tôi phấn khởi là triển vọng sẽ tìm thấy một hướng tu với nhiều điều kiện thuận lợi hơn đối với hoàn cảnh văn hóa ở Việt Nam, kể cả cái triển vọng tìm hiểu truyền thống các Thánh Phụ ở Đông Phương mà tôi nghĩ có thể phù hợp với tâm hồn tôi và tâm hồn Á Đông nói chung. Vả chăng từ hồi vào nhà tập cho đến lúc bây giờ, tôi vẫn xem dòng Phanxicô như gia đình của mình, đã nuôi nấng dạy dỗ mình trong thời coi như là thơ ấu về mặt đời sống tín hữu; việc tôi vào Nam và sang Pháp, cũng đều do công của nhà dòng đài thọ, vì thế ý kiến của Linh mục An đối với tôi, dù chỉ là lời khuyên, có tác dụng như một ý muốn của cha mẹ mà tôi nên tuân theo.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |