Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
12. NỖI NHỚ CÁT MINH
Với sự hăng say của một kẻ tân tòng, với tiếng tăm của gia đình, với khả năng học hành của tôi, tôi được nhà dòng đặt nhiều hy vọng. Thế nhưng trong thời gian ở tập viện đã có một sự kiện ảnh hưởng quyết định trên đời tôi: Đó là việc Linh mục giải tội đưa cho tôi xem cuốn “Câu chuyện một tâm hồn” của Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng. Từ đó tôi thấy rằng lý tưởng của tôi là có được một đời sống như Thánh Nữ: tôi hướng lòng về một cuộc đời tịnh tu chiêm niệm mà nền tảng là nguyện gẫm. Vì Thánh Nữ thuộc dòng Cát Minh (Carmel) nên tâm hồn tôi tuy hướng về đỉnh núi Cát Minh. Rồi tôi tìm đọc thánh Gioan Thánh Giá và Thánh nữ Têrêxa Avila. Tôi trực cảm rằng hình như con đường của tôi là đường thiêng liêng dòng Cát Minh hơn là đường thiêng liêng của vị Thánh nghèo khó thành At-xi-di. Nghĩ vậy thôi, chứ bấy giờ tôi làm gì có khả năng rời khỏi khu 4, cho nên muốn sống đời sống tu thì chỉ có một dòng Phanxicô mà thôi. Vả chăng, giữa cá nhân hai vị Thánh ấy, Phanxicô và Têrêxa Hài Đồng phải là không có những nét tương đồng. Hơn nữa, sinh hoạt của một tập viện chỉ chuyên chú vào việc đào tuyện thiêng liêng thì không khác gì mấy với sinh hoạt của dòng tu kín.
Có một điều đáng lưu ý là trước đó, lúc chưa rửa tội Linh mục Vương Đình Ái đã cho tôi mượn toàn bộ cuốn: “Le Chist, Vie de l’âme” của cha D. Marmion, rồi lúc học ở Thiên Hựu, tôi có dịp học với Linh mục Dom Corenthin, cũng thuộc dòng Biển Đức, nhưng tôi cảm thấy không muốn tu dòng Biển Đức. Lý do là những lần đi cắm trại tại các đồi núi chung quanh Huế, nhìn thấy tu viện Thiên An, tôi đã có cảm tưởng nó quá nặng nề, không phù hợp với tâm hồn tôi vốn đã quá quen nhìn nơi tu hành dưới dáng những ngôi chùa ẩn mình kín đáo nhẹ nhàng ven sườn núi. Mà có lẽ nó cũng không phù hợp với tâm hồn Á Đông nói chung. Đọc Têrêxa Hài Đồng và Thánh Gioan Thánh Giá, tôi thấy một cái gì gần gũi, phù hợp với mối khao khát tận đáy lòng tôi đang hướng về một sự thần hiệp đơn độc với sự đơn độc, trong sự im lặng thầm kín. Trong khi đó, dòng Phanxicô dường như hơi có xu hướng bộc phát ra bên ngoài, thiên về cảm tính nhiều hơn. Ngoài ra, tôi còn thấy trong sự đào tuyện thiêng liêng hình như thiếu một linh đạo rõ rệt, và hình như cái hình thức sống có tuật, có quy chế, có nề nếp của một dòng tu cũng chưa hẳn là hoàn toàn như ý vị Thánh nghèo khó muốn thực hiện. Có lẽ một vài người sống trong cái chòi ven bờ suối, không giờ giấc, không khuôn khổ hơi có vẻ phóng túng lãng tử, sẽ đúng với lý tưởng của Ngài hơn? Hình như trong tôi có cái gì không hợp với những cái khuôn khổ, quy chế, lề tuật, mực thước, gò bó, hệ thống, tổ chức. Ngay về tư tưởng “Pensées” theo kiểu Pascal, chứ các hệ thống Toma Aquino, Kant, Spinoza, Hégel làm tôi thấy ngộp thở. Âu Tinh, Kierkegaard hợp với tôi hơn. Tôi bị dị ứng với chữ “luật” vì nó cứ gợi lên hình ảnh gông cùm ràng buộc. Chữ “lễ buộc” bao giờ cũng làm tôi thấy khó chịu. Và tôi thấy Chúa sống ba năm với các môn đồ cũng có cái gì bôn ba lãng tử. Một câu hỏi tuôn tuôn lởn vởn trong đầu óc tôi: tinh thần duy lý trí Hy Lạp và duy tuật Rôma, cũng như cái hiếu động và duy xã hội tập thể của Tây Phương có phù hợp với con người Đông phương hay không? Sau này, khi đọc về đời các vị ẩn tu tại cận Đông trước thời Pacôme Ba-xi-li-ô lập lối tu cộng đoàn, tôi lờ mờ thấy rằng e có lẽ đó chính là điều tôi ao ước. Bởi vì, từ tấm bé, hai chữ “tu hành” tuôn gợi lên cho tôi hình ảnh những vị thiền sư, đạo sĩ, chỉ có một mình, có đệ tử thì cũng chỉ là môn đệ tâm truyền một thời gian, rồi lại để các đệ tử ấy một mình ra đi theo con đường riêng của họ; cứ như thế mà theo kiểu gieo hạt tung rơi, chứ không thành tuống, thành hàng theo kiểu có dòng có dõi, ép theo một khuôn đúc, mang tên của một vị Thánh lập dòng như mang họ của cha ông phần đời. Nói gọn lại, có lẽ tôi có hướng độc tu tự do theo lối ẩn sĩ, cư sĩ nên bất cứ tu theo lối dòng tu nào cũng thấy bất ổn. Có chăng thì chịu sự hướng dẫn nhất thời của một sư phụ, rồi lại ra đi một mình trên đường tìm gặp Chúa. Trong sự Diện đối Diện với một mình Ngài mà thôi.
Có điều đáng nhấn mạnh, là theo bề ngoài thì từ thuở bé tôi là đứa bé rất ngoan, tuôn tôn trọng kỷ tuật, ít vi phạm các qui tắc, rất vâng lời, ít bướng bỉnh, đúng giờ đúng giấc có thể nói là rất “reglo”, nhưng bên trong lại có khát vọng sống ngoài vòng bất cứ sự cương tỏa hay rập khuôn nào. Đó là huyền nhiệm chỉ có một mình mình với Chúa mà thôi! Bất cứ ai bất cứ gì thì cũng chỉ như Gioan tẩy giả, giới thiệu mọi người với Chúa Giêsu, rồi rút tui để một mình họ đối diện với Ngài. Có truyền thuyết cho rằng khi vâng lời Đức Hồng Y Hugolin viết tuật dòng, Phanxicô Assisi lấy làm khổ tâm lắm. Không rõ thực hư ra sao và có ý nghĩa gì, nhưng dầu sao cũng nói lên cái gì khá gần gũi với tâm hồn tôi. Có phải như thế là lãng tử quá chăng? Phiêu diêu quá chăng? Nhưng trong lịch sử đời tu của Hội Thánh suốt 3, 4 thế kỷ đầu, chỉ có hình thức độc tu ẩn sĩ như vậy mà thôi; các dòng tu với lề tuật, khuôn khổ chỉ là xuất hiện về sau. Nhiều túc tôi bâng khuâng tự hỏi: thế kỷ 20 sắp tàn bước qua thế kỷ 21, liệu chung đời tu lại sẽ trở về dạng thức như trước thế kỷ thứ 4 không? Và có phải vì vậy mà tôi đã mang cái ước mơ đời tu trì lang thang trên mọi nẻo đường: suốt 30 năm lận đận (từ 1956-1986, gấp đôi thân phận nàng Kiều)? Gần đây tôi mới biết giáo tuật mới lại có khoản (điều 603) về dạng độc tu.
Sau khi khấn tạm, bề trên quyết định đưa chúng tôi vào Nha Trang là nơi có viện triết và thần học của dòng Phanxicô. Ngài có làm đơn xin chính quyền hẳn hoi, song chờ đợi quá lâu không được trả lời ngài quyết định cho chúng tôi (15 người) đi lén để đường tu học của chúng tôi không bị dậm chân tại chỗ. Bấy giờ ở Thanh Hóa dòng Phanxicô có một tu viện, trước 1945 là tiểu chủng viện (ở Vinh là tập viện) bề trên gởi chúng tôi ra đó, có xin phép chính quyền địa phương, với lý do là ra sửa sang nhà cửa đã bị hư hỏng nhiều, và có khả năng phân đôi số tu sĩ cho đều nhau giữa hai cơ sở tu viện. Sau khoảng hai tháng ở Thanh Hóa, một đêm nọ chúng tôi xuống một xứ đạo ở Sầm Sơn và đêm khuya xuống thuyền vượt sóng ra Phát Diệm, lên Nam Định, lên Hà Nội rồi vào Nha Trang, vùng do chính phủ Bảo Đại kiểm soát. Cuộc vượt biên của chúng tôi không phải là di cư vào Nam để trốn cộng sản, mà chỉ là tiếp tục theo dõi việc tu học, thực hiện ý nguyện dâng mình phụng sự Thiên Chúa theo lý tưởng dòng tu, chính vì vậy mà cha bề trên đã làm đơn xin đàng hoàng, chỉ có điều chưa được chính quyền chấp thuận đã đi trước. Sang vùng chính quyền Bảo Đại kiểm soát (lúc ấy gọi là quốc gia), 15 người chúng tôi không hề tiếp xúc với bên ngoài. Suốt thời gian chuyển đi, tới đâu chúng tôi cũng sống trong khuôn khổ kín cổng cao tường của một dòng tu, kinh nguyện đúng giờ đúng giấc, chẳng ai đi đâu ra ngoài chỉ trừ vị tu sĩ phụ trách lo các thủ tục di chuyển, lo chỗ ăn chỗ ở mà thôi. Khi tới Phát Diệm, chúng tôi ở tại nhà chung, chỉ được phép lên chào Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, hầu chuyện 15 phút. Một tuần sau chúng tôi lên Nam Định, ở trường Naza một hôm rồi lên Hà Nội ở tại dòng Chúa Cứu Thế khoảng hai tuần, rồi xin máy bay vào Nha Trang. Tại Hà Nội chúng tôi chỉ được phép đến tòa Giám mục hầu chuyện Đức Cha Trịnh Như Khuê khoảng 15 phút; riêng tôi được đi thăm người cô của Linh mục Vũ Khởi Phụng để thăm “cháu Phụng” và hai em ở đó (theo yêu cầu của song thân linh mục Phụng là ông bà Vũ Thế Hùng bị kẹt ở khu 4); ông Phan Biểu Tam là bạn thân của anh Viện tôi để hỏi tin tức anh Viện ở Pháp, và gia đình ông Phan Huy Quát, chị em con chú bác với anh rể tôi là Đặng Văn Ấn, để cho bà Quát biết tin hai cụ song thân là cụ Đặng Văn Hương ở Điễn Châu Nghệ An, ngoài ra mãi cho đến ngày tôi bị động viên cưỡng bách đi học ở quân trường Thủ Đức, tôi không biết gì về những việc xảy ra ở ngoài đời. Phần tôi, rời khỏi khí quyển nhà tập, vào khuôn khổ của học viện tôi thấy có một sự thay đổi: trước năm 45 tôi là một người rất ham học, có thể nói là mê học, nhất là học triết lý để tìm đạo sống. Nay tự nhiên tôi không còn ham mê học nữa, vì tôi đã gặp chính Đấng Chân lý tự thân là Đức Giêsu-Kitô. Câu sách gương phúc: “các nhà thông thái hãy im tiếng để cho lời Ngài soi sáng” đối với tôi thật là chí lý! Tôi thèm muốn cuộc đời của cô Maria: suốt đời ngồi dưới chân Chúa mà nhìn ngắm, lắng nghe; mọi suy luận trí óc nhân loại của tôi đều khô khan, nhạt nhẽo, không thực, chỉ là xây dựng phạm trù trừu tượng như một trò chơi ô chữ. Có năng khiếu và là người học giỏi nhất lớp triết, nhưng tôi cảm thấy chán, chỉ muốn cuộc sống của các thầy trợ sĩ: cầu nguyện, âm thầm trong sự kết hợp với Chúa, chứ cuộc đời học viện quá nặng tính cách ký túc xá đại học.
Thế là câu hỏi phải chăng tôi có ơn gọi chuyển sang một dòng tu chiêm niệm trở nên một thao thức khôn nguôi như trên tôi đã nói, tôi nghĩ đến dòng Cát Minh. Song ở Việt Nam không có dòng Cát Minh ngành Nam. Suốt 3 năm ở Nha Trang tôi đã làm phiền cha phụ trách học viện và các cha linh hướng về vấn đề ấy. Và mặc dầu bề trên dành cho một sự tin cậy và có phần ưu đãi, tôi vẫn thấy mình không ở đúng chỗ. Do sự căng thẳng đó, sức khoẻ tôi có phần giảm sút, chứng đau dạ dày tái phát, nhà dòng phải dành cho tôi một tiêu chuẩn riêng trong ăn uống ngủ nghỉ. Do đó, tôi không được thực sự hòa mình vào cộng đoàn và có phần nào như hơi “biệt lệ”. Đằng khác, cái gốc gác con quan, ngoại giáo, nhà nho, với sự hăng say quá mức hơi có ít nhiều chút ít kiêu ngạo, cũng phần nào làm cho tôi không mấy thực sự như các anh em cùng lớp, cứ vẫn có cái gì khang khác. Suy lại, tôi thấy lúc ấy mình có nhiều tác phong thiếu khiêm nhường và yêu thương, bề ngoài thì không vi phạm kỷ luật, nhưng bề trong thì thiếu một tinh thần cộng đoàn thực sự, những sự va chạm nho nhỏ bắt đầu, tuy bề ngoài thì hoà thuận, chung sống chung học, chung mọi việc, nhưng dần dần tôi thấy như hơi lạc lõng. Có lúc cha phụ trách nhóm triết chúng tôi đặt vấn đề vận động cho tôi được xuất ngoại, chuyển sang tu dòng Cát Minh ở Pháp hoặc ở Ấn Độ. Nhưng rồi phần thì sợ đó chỉ là cám dỗ, phần thì quá gắn bó tình thân với gia đình Phanxicô, tôi không dám quả quyết. Tuy nhiên trong tâm hồn không mấy an bình; việc tu đức cũng có phần kém sút, một số tật hư thói xấu cứ bắt đầu tái xuất hiện; có một sự mệt mỏi nào đó xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi không hề có ý nghĩ trở lại cuộc đời thế gian, mà chỉ chú tâm đến một dòng chuyên về chiêm niệm hơn. Ngặt một nỗi là tôi không hề nghĩ đến dòng Xitô hay dòng Biển Đức có ở Việt Nam, mà chỉ nghĩ đến dòng Cát Minh mà thôi. Giả sử ở Việt Nam túc ấy có dòng Cát Minh thì tôi nhất quyết chuyển sang rồi! Muốn chuyển thì phải xuất ngoại, mà đối với những người ở vào lứa tuổi như tôi, đang bị luật động viên quân sự chi phối, thì việc xuất ngoại không phải là đơn giản. Ngoài ra, cái viễn tượng một thân một mình ra ngoại quốc cũng làm cho tôi rất ngại! Bao nhiêu dịp cấm phòng, bao nhiêu lần kinh lược cấp tỉnh dòng hay cấp tổng dòng, tôi đều xoay quanh vấn đề ấy: thật là một sự lãng phí thời gian và tiêu hao năng lực thể chất cũng như tinh thần. Đời sống thiêng liêng của tôi do đó cứ giảm sút dần, càng ngày càng thấy nguội lạnh khô khan, có sự bất ổn ngấm ngầm, mặc dầu tương quan về tình người đối với các cha, các thầy vẫn tốt; tôi vẫn được nuông chiều, nâng đỡ, có thể nói là khá biệt đãi so với anh em. Cũng vì vậy, ý định bỏ dòng Phanxicô sang lòng khác càng trở nên khó khăn, vì nó như là một sự tệ bạc trước tình ưu ái rất lớn mà các cha, các thầy đã dành cho tôi trong gần 5 năm trời. Tôi cứ chần chừ như vậy cho đến năm thứ I thần học.
Với sự hăng say của một kẻ tân tòng, với tiếng tăm của gia đình, với khả năng học hành của tôi, tôi được nhà dòng đặt nhiều hy vọng. Thế nhưng trong thời gian ở tập viện đã có một sự kiện ảnh hưởng quyết định trên đời tôi: Đó là việc Linh mục giải tội đưa cho tôi xem cuốn “Câu chuyện một tâm hồn” của Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng. Từ đó tôi thấy rằng lý tưởng của tôi là có được một đời sống như Thánh Nữ: tôi hướng lòng về một cuộc đời tịnh tu chiêm niệm mà nền tảng là nguyện gẫm. Vì Thánh Nữ thuộc dòng Cát Minh (Carmel) nên tâm hồn tôi tuy hướng về đỉnh núi Cát Minh. Rồi tôi tìm đọc thánh Gioan Thánh Giá và Thánh nữ Têrêxa Avila. Tôi trực cảm rằng hình như con đường của tôi là đường thiêng liêng dòng Cát Minh hơn là đường thiêng liêng của vị Thánh nghèo khó thành At-xi-di. Nghĩ vậy thôi, chứ bấy giờ tôi làm gì có khả năng rời khỏi khu 4, cho nên muốn sống đời sống tu thì chỉ có một dòng Phanxicô mà thôi. Vả chăng, giữa cá nhân hai vị Thánh ấy, Phanxicô và Têrêxa Hài Đồng phải là không có những nét tương đồng. Hơn nữa, sinh hoạt của một tập viện chỉ chuyên chú vào việc đào tuyện thiêng liêng thì không khác gì mấy với sinh hoạt của dòng tu kín.
Có một điều đáng lưu ý là trước đó, lúc chưa rửa tội Linh mục Vương Đình Ái đã cho tôi mượn toàn bộ cuốn: “Le Chist, Vie de l’âme” của cha D. Marmion, rồi lúc học ở Thiên Hựu, tôi có dịp học với Linh mục Dom Corenthin, cũng thuộc dòng Biển Đức, nhưng tôi cảm thấy không muốn tu dòng Biển Đức. Lý do là những lần đi cắm trại tại các đồi núi chung quanh Huế, nhìn thấy tu viện Thiên An, tôi đã có cảm tưởng nó quá nặng nề, không phù hợp với tâm hồn tôi vốn đã quá quen nhìn nơi tu hành dưới dáng những ngôi chùa ẩn mình kín đáo nhẹ nhàng ven sườn núi. Mà có lẽ nó cũng không phù hợp với tâm hồn Á Đông nói chung. Đọc Têrêxa Hài Đồng và Thánh Gioan Thánh Giá, tôi thấy một cái gì gần gũi, phù hợp với mối khao khát tận đáy lòng tôi đang hướng về một sự thần hiệp đơn độc với sự đơn độc, trong sự im lặng thầm kín. Trong khi đó, dòng Phanxicô dường như hơi có xu hướng bộc phát ra bên ngoài, thiên về cảm tính nhiều hơn. Ngoài ra, tôi còn thấy trong sự đào tuyện thiêng liêng hình như thiếu một linh đạo rõ rệt, và hình như cái hình thức sống có tuật, có quy chế, có nề nếp của một dòng tu cũng chưa hẳn là hoàn toàn như ý vị Thánh nghèo khó muốn thực hiện. Có lẽ một vài người sống trong cái chòi ven bờ suối, không giờ giấc, không khuôn khổ hơi có vẻ phóng túng lãng tử, sẽ đúng với lý tưởng của Ngài hơn? Hình như trong tôi có cái gì không hợp với những cái khuôn khổ, quy chế, lề tuật, mực thước, gò bó, hệ thống, tổ chức. Ngay về tư tưởng “Pensées” theo kiểu Pascal, chứ các hệ thống Toma Aquino, Kant, Spinoza, Hégel làm tôi thấy ngộp thở. Âu Tinh, Kierkegaard hợp với tôi hơn. Tôi bị dị ứng với chữ “luật” vì nó cứ gợi lên hình ảnh gông cùm ràng buộc. Chữ “lễ buộc” bao giờ cũng làm tôi thấy khó chịu. Và tôi thấy Chúa sống ba năm với các môn đồ cũng có cái gì bôn ba lãng tử. Một câu hỏi tuôn tuôn lởn vởn trong đầu óc tôi: tinh thần duy lý trí Hy Lạp và duy tuật Rôma, cũng như cái hiếu động và duy xã hội tập thể của Tây Phương có phù hợp với con người Đông phương hay không? Sau này, khi đọc về đời các vị ẩn tu tại cận Đông trước thời Pacôme Ba-xi-li-ô lập lối tu cộng đoàn, tôi lờ mờ thấy rằng e có lẽ đó chính là điều tôi ao ước. Bởi vì, từ tấm bé, hai chữ “tu hành” tuôn gợi lên cho tôi hình ảnh những vị thiền sư, đạo sĩ, chỉ có một mình, có đệ tử thì cũng chỉ là môn đệ tâm truyền một thời gian, rồi lại để các đệ tử ấy một mình ra đi theo con đường riêng của họ; cứ như thế mà theo kiểu gieo hạt tung rơi, chứ không thành tuống, thành hàng theo kiểu có dòng có dõi, ép theo một khuôn đúc, mang tên của một vị Thánh lập dòng như mang họ của cha ông phần đời. Nói gọn lại, có lẽ tôi có hướng độc tu tự do theo lối ẩn sĩ, cư sĩ nên bất cứ tu theo lối dòng tu nào cũng thấy bất ổn. Có chăng thì chịu sự hướng dẫn nhất thời của một sư phụ, rồi lại ra đi một mình trên đường tìm gặp Chúa. Trong sự Diện đối Diện với một mình Ngài mà thôi.
Có điều đáng nhấn mạnh, là theo bề ngoài thì từ thuở bé tôi là đứa bé rất ngoan, tuôn tôn trọng kỷ tuật, ít vi phạm các qui tắc, rất vâng lời, ít bướng bỉnh, đúng giờ đúng giấc có thể nói là rất “reglo”, nhưng bên trong lại có khát vọng sống ngoài vòng bất cứ sự cương tỏa hay rập khuôn nào. Đó là huyền nhiệm chỉ có một mình mình với Chúa mà thôi! Bất cứ ai bất cứ gì thì cũng chỉ như Gioan tẩy giả, giới thiệu mọi người với Chúa Giêsu, rồi rút tui để một mình họ đối diện với Ngài. Có truyền thuyết cho rằng khi vâng lời Đức Hồng Y Hugolin viết tuật dòng, Phanxicô Assisi lấy làm khổ tâm lắm. Không rõ thực hư ra sao và có ý nghĩa gì, nhưng dầu sao cũng nói lên cái gì khá gần gũi với tâm hồn tôi. Có phải như thế là lãng tử quá chăng? Phiêu diêu quá chăng? Nhưng trong lịch sử đời tu của Hội Thánh suốt 3, 4 thế kỷ đầu, chỉ có hình thức độc tu ẩn sĩ như vậy mà thôi; các dòng tu với lề tuật, khuôn khổ chỉ là xuất hiện về sau. Nhiều túc tôi bâng khuâng tự hỏi: thế kỷ 20 sắp tàn bước qua thế kỷ 21, liệu chung đời tu lại sẽ trở về dạng thức như trước thế kỷ thứ 4 không? Và có phải vì vậy mà tôi đã mang cái ước mơ đời tu trì lang thang trên mọi nẻo đường: suốt 30 năm lận đận (từ 1956-1986, gấp đôi thân phận nàng Kiều)? Gần đây tôi mới biết giáo tuật mới lại có khoản (điều 603) về dạng độc tu.
Sau khi khấn tạm, bề trên quyết định đưa chúng tôi vào Nha Trang là nơi có viện triết và thần học của dòng Phanxicô. Ngài có làm đơn xin chính quyền hẳn hoi, song chờ đợi quá lâu không được trả lời ngài quyết định cho chúng tôi (15 người) đi lén để đường tu học của chúng tôi không bị dậm chân tại chỗ. Bấy giờ ở Thanh Hóa dòng Phanxicô có một tu viện, trước 1945 là tiểu chủng viện (ở Vinh là tập viện) bề trên gởi chúng tôi ra đó, có xin phép chính quyền địa phương, với lý do là ra sửa sang nhà cửa đã bị hư hỏng nhiều, và có khả năng phân đôi số tu sĩ cho đều nhau giữa hai cơ sở tu viện. Sau khoảng hai tháng ở Thanh Hóa, một đêm nọ chúng tôi xuống một xứ đạo ở Sầm Sơn và đêm khuya xuống thuyền vượt sóng ra Phát Diệm, lên Nam Định, lên Hà Nội rồi vào Nha Trang, vùng do chính phủ Bảo Đại kiểm soát. Cuộc vượt biên của chúng tôi không phải là di cư vào Nam để trốn cộng sản, mà chỉ là tiếp tục theo dõi việc tu học, thực hiện ý nguyện dâng mình phụng sự Thiên Chúa theo lý tưởng dòng tu, chính vì vậy mà cha bề trên đã làm đơn xin đàng hoàng, chỉ có điều chưa được chính quyền chấp thuận đã đi trước. Sang vùng chính quyền Bảo Đại kiểm soát (lúc ấy gọi là quốc gia), 15 người chúng tôi không hề tiếp xúc với bên ngoài. Suốt thời gian chuyển đi, tới đâu chúng tôi cũng sống trong khuôn khổ kín cổng cao tường của một dòng tu, kinh nguyện đúng giờ đúng giấc, chẳng ai đi đâu ra ngoài chỉ trừ vị tu sĩ phụ trách lo các thủ tục di chuyển, lo chỗ ăn chỗ ở mà thôi. Khi tới Phát Diệm, chúng tôi ở tại nhà chung, chỉ được phép lên chào Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, hầu chuyện 15 phút. Một tuần sau chúng tôi lên Nam Định, ở trường Naza một hôm rồi lên Hà Nội ở tại dòng Chúa Cứu Thế khoảng hai tuần, rồi xin máy bay vào Nha Trang. Tại Hà Nội chúng tôi chỉ được phép đến tòa Giám mục hầu chuyện Đức Cha Trịnh Như Khuê khoảng 15 phút; riêng tôi được đi thăm người cô của Linh mục Vũ Khởi Phụng để thăm “cháu Phụng” và hai em ở đó (theo yêu cầu của song thân linh mục Phụng là ông bà Vũ Thế Hùng bị kẹt ở khu 4); ông Phan Biểu Tam là bạn thân của anh Viện tôi để hỏi tin tức anh Viện ở Pháp, và gia đình ông Phan Huy Quát, chị em con chú bác với anh rể tôi là Đặng Văn Ấn, để cho bà Quát biết tin hai cụ song thân là cụ Đặng Văn Hương ở Điễn Châu Nghệ An, ngoài ra mãi cho đến ngày tôi bị động viên cưỡng bách đi học ở quân trường Thủ Đức, tôi không biết gì về những việc xảy ra ở ngoài đời. Phần tôi, rời khỏi khí quyển nhà tập, vào khuôn khổ của học viện tôi thấy có một sự thay đổi: trước năm 45 tôi là một người rất ham học, có thể nói là mê học, nhất là học triết lý để tìm đạo sống. Nay tự nhiên tôi không còn ham mê học nữa, vì tôi đã gặp chính Đấng Chân lý tự thân là Đức Giêsu-Kitô. Câu sách gương phúc: “các nhà thông thái hãy im tiếng để cho lời Ngài soi sáng” đối với tôi thật là chí lý! Tôi thèm muốn cuộc đời của cô Maria: suốt đời ngồi dưới chân Chúa mà nhìn ngắm, lắng nghe; mọi suy luận trí óc nhân loại của tôi đều khô khan, nhạt nhẽo, không thực, chỉ là xây dựng phạm trù trừu tượng như một trò chơi ô chữ. Có năng khiếu và là người học giỏi nhất lớp triết, nhưng tôi cảm thấy chán, chỉ muốn cuộc sống của các thầy trợ sĩ: cầu nguyện, âm thầm trong sự kết hợp với Chúa, chứ cuộc đời học viện quá nặng tính cách ký túc xá đại học.
Thế là câu hỏi phải chăng tôi có ơn gọi chuyển sang một dòng tu chiêm niệm trở nên một thao thức khôn nguôi như trên tôi đã nói, tôi nghĩ đến dòng Cát Minh. Song ở Việt Nam không có dòng Cát Minh ngành Nam. Suốt 3 năm ở Nha Trang tôi đã làm phiền cha phụ trách học viện và các cha linh hướng về vấn đề ấy. Và mặc dầu bề trên dành cho một sự tin cậy và có phần ưu đãi, tôi vẫn thấy mình không ở đúng chỗ. Do sự căng thẳng đó, sức khoẻ tôi có phần giảm sút, chứng đau dạ dày tái phát, nhà dòng phải dành cho tôi một tiêu chuẩn riêng trong ăn uống ngủ nghỉ. Do đó, tôi không được thực sự hòa mình vào cộng đoàn và có phần nào như hơi “biệt lệ”. Đằng khác, cái gốc gác con quan, ngoại giáo, nhà nho, với sự hăng say quá mức hơi có ít nhiều chút ít kiêu ngạo, cũng phần nào làm cho tôi không mấy thực sự như các anh em cùng lớp, cứ vẫn có cái gì khang khác. Suy lại, tôi thấy lúc ấy mình có nhiều tác phong thiếu khiêm nhường và yêu thương, bề ngoài thì không vi phạm kỷ luật, nhưng bề trong thì thiếu một tinh thần cộng đoàn thực sự, những sự va chạm nho nhỏ bắt đầu, tuy bề ngoài thì hoà thuận, chung sống chung học, chung mọi việc, nhưng dần dần tôi thấy như hơi lạc lõng. Có lúc cha phụ trách nhóm triết chúng tôi đặt vấn đề vận động cho tôi được xuất ngoại, chuyển sang tu dòng Cát Minh ở Pháp hoặc ở Ấn Độ. Nhưng rồi phần thì sợ đó chỉ là cám dỗ, phần thì quá gắn bó tình thân với gia đình Phanxicô, tôi không dám quả quyết. Tuy nhiên trong tâm hồn không mấy an bình; việc tu đức cũng có phần kém sút, một số tật hư thói xấu cứ bắt đầu tái xuất hiện; có một sự mệt mỏi nào đó xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi không hề có ý nghĩ trở lại cuộc đời thế gian, mà chỉ chú tâm đến một dòng chuyên về chiêm niệm hơn. Ngặt một nỗi là tôi không hề nghĩ đến dòng Xitô hay dòng Biển Đức có ở Việt Nam, mà chỉ nghĩ đến dòng Cát Minh mà thôi. Giả sử ở Việt Nam túc ấy có dòng Cát Minh thì tôi nhất quyết chuyển sang rồi! Muốn chuyển thì phải xuất ngoại, mà đối với những người ở vào lứa tuổi như tôi, đang bị luật động viên quân sự chi phối, thì việc xuất ngoại không phải là đơn giản. Ngoài ra, cái viễn tượng một thân một mình ra ngoại quốc cũng làm cho tôi rất ngại! Bao nhiêu dịp cấm phòng, bao nhiêu lần kinh lược cấp tỉnh dòng hay cấp tổng dòng, tôi đều xoay quanh vấn đề ấy: thật là một sự lãng phí thời gian và tiêu hao năng lực thể chất cũng như tinh thần. Đời sống thiêng liêng của tôi do đó cứ giảm sút dần, càng ngày càng thấy nguội lạnh khô khan, có sự bất ổn ngấm ngầm, mặc dầu tương quan về tình người đối với các cha, các thầy vẫn tốt; tôi vẫn được nuông chiều, nâng đỡ, có thể nói là khá biệt đãi so với anh em. Cũng vì vậy, ý định bỏ dòng Phanxicô sang lòng khác càng trở nên khó khăn, vì nó như là một sự tệ bạc trước tình ưu ái rất lớn mà các cha, các thầy đã dành cho tôi trong gần 5 năm trời. Tôi cứ chần chừ như vậy cho đến năm thứ I thần học.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
6. Tương giao liên ngã vị 7. Thiên Chúa tước đoạt 8. Đức Giêsu trong Hội Thánh 9. Cuộc vượt qua 10. Lễ Rửa tội 11. Xuất gia 12. Nỗi nhớ Cát Minh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |