Hồi Ký
GS Nguyễn Khắc Dương
PHẦN TỰ THUẬT
1. THỬA ĐẤT NHO GIÁO
Tôi sinh năm 1925 (Ất Sửu). Giấy khai sinh chính thức ghi là sinh vào ngày 24 tháng 9 Dương Lịch, tại nguyên quán là làng Thịnh Xá, nhưng thực sự là tại bệnh viện thành phố Vinh, là nơi thân phụ tôi giữ chức Án Sát tỉnh Nghệ An. Nguyên quán tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình tôi sang cư ngụ tại làng Gôi Mỹ, sát cạnh làng Thịnh Xá, nhưng theo tục lệ xưa thì họ NGUYỄN KHẮC của tôi vẫn thuộc danh bộ làng Thịnh Xá, và vẫn bị xem như là dân cư ngụ tại làng Gôi Mỹ. Công việc sưu thuế, cúng tế đều thuộc về nguyên quán; còn tại làng Gôi Mỹ thì chỉ đóng góp với tinh thần ngoại qui. Cả hai làng nguyên và trú quán đều thuộc về tổng An Ấp, nằm về tả ngạn sông Phố, là phụ lưu của sông Lam, từ Trường Sơn đổ xuống. Sông Phố chảy hết địa phận huyện Hương Sơn sẽ kết hợp với một phụ lưu khác là song Sâu chảy giữa hai huyện Hương Khê và Đức Thọ, tại ngã ba sông gọi là Tam Soa (3 cành) có đồn Linh Cảm. Hai dòng Phố và Sâu chảy vào khúc sông ngắn gọi là sông La chảy qua huyện (bấy giờ gọi là phủ) Đức Thọ. Rồi sông La chảy vào sông Lam tại ngã ba Phủ. Ngọn núi được xem như tiêu biểu cho quê tôi gọi là Rú Chuối (tên chữ non Tiêu), non Tiêu ngàn Phố chỉ là vùng tổng An Ấp, cũng như Hồng Lam chỉ là vùng Nghệ Tĩnh. Danh nhân thì có Hải Thượng Lãn Ông đã chọn Hương Sơn làm nơi ở ẩn, có Cao Thắng, Lý Chính Thắng, cụ Nguyễn Đình Kiên và Hồ Hảo (đánh chiếm đồn phố Châu thời Nhật thuộc).
Dù là thuộc về một gia đình quan lại Nam triều dưới thời Pháp thuộc, tôi và anh chị em trong gia đình, như bất cứ người dân Nghệ Tĩnh nào cũng có chút tự hào về truyền thống cách mạng và văn hóa địa phương mình. Từ thuở bé, tôi đã luôn nghe nói đến Nguyễn Biểu, Mai Hắc Đế, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Lê Văn Huân, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Ái Quốc, Cao Thắng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, cụ Thám làng Ngang, cụ Nghè và… rồi Xuân Diệu, Huy Cận,v.v… dân Nghệ Tĩnh có tiếng là can trường, khảng khái, trung kiên, chân chất, cần kiệm, đôi khi quá kham khổ (như trong sự tích cá gỗ!); so với nhân dân đất Kinh Bắc thời xưa thì có phần thiếu thanh lịch, vụng doanh thương. Đời Lý, Trần, đất Nghệ có thể như địa đầu cực Nam, nơi quan ải xa xôi, đât đai không được phì nhiêu, luôn lụt lội bão tố. Học trò Nghệ có tiếng là học giỏi, đỗ đạt nhiều, thời Hán Học cũng như thời Tây học. Dòng họ Nguyễn Khắc của tôi thời Lê Trung Hưng mới từ Sơn Tây (Nguyễn Khắc Hiếu) vào đất Nghệ, trước ở huyện Nam Đàn, sau nhánh thứ mới sang Hương Sơn, đến tôi chỉ độ năm sáu đời. Vị tổ đầu tiên vào đất Nghệ là Nguyễn Khắc Văn (giữ chức phó Đô Ngự Sử đời Lê Vĩnh Tộ); tuy không thấy ai ghi chép rõ, nhưng tôi phỏng đoán lý do cũng tương tự như cụ Hải Thượng: bất mãn chế độ họ Trịnh nên rút lui vào đất Nghệ. Các đời sau không thấy mấy ai đỗ đạt hay làm quan cho đến đời thân phụ tôi so với họ Đinh (thứ trưởng Đinh Nho Liêm) ở làng Gôi Mỹ, thì có phần kém sút mà chỉ thuộc về thành phần phú hào trung lưu. Chỉ có người cậu ruột của ông nội là một nhà nho đỗ đạt làm quan và nổi tiếng về đông y: đó là cụ Lê Kinh Hạp. Ông nội tôi có được sách đèn, nhưng không đỗ đạt gì. Thân phụ tôi có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều của ông cậu họ Lê ấy nên đã sớm ham học và may mắn có thiên tư nên đỗ đạt rất sớm: năm 19 tuổi đậu hoàng giáp (khoa thi Đình đời vua Thành Thái). Việc thân phụ tôi đậu đại khoa lúc 19 tuổi là một vinh dự cho gia đình và giòng họ, cho cả làng xóm, cả đến hàng huyện hàng tổng. Và trong cái nhìn của những người bình dân thì cho rằng ông bà tôi có phúc đức, bởi vì theo Nho học, thì không chỉ có văn chương, mà chủ yếu là lễ nghĩa theo đạo thánh hiền với lý tưởng: tu tề trị bình! Nên ông bà có phúc đức thì con cháu mới được như thế. Thậm chí có kẻ còn cho rằng đó là một thần đồng hóa thân, nên lắm người có con cái hay đau yếu đã đem bán khoán cho thân phụ tôi như bán cho các vị thần ở đình miếu, có khi còn xin mảnh vải từ y phục của người để làm bùa cho con cái đeo để trừ tà!
Con nhà có học thì không phải chỉ có học giỏi, mà phải có lễ nghĩa, đức hạnh, nết na, kế tục truyền thống gia phong không phài chỉ có lo trau giồi chữ nghĩa, mà phải tu tâm dưỡng tính theo các bậc thánh hiền, ít nhất cũng phải là con người có lương thiện, đừng làm điều gì mà thất đức, điếm nhục đến cha ông, và gây tội với Trời, di hại cho con cháu. Do đó việc giáo dục gia đình tôi tương đối nghiêm khắc: từ lời ăn tiếng nói đến cách đi dứng đều được rèn luyện kỹ lưỡng, và tất nhiên phải là chăm lo học hành. Từ thuở bé, tôi đã được gia đình truyền thụ cả một nền đạo đức Khổng giáo và một truyền thống văn học khá sâu đậm. Cái truyền thống ấy tôi tạm phân tích ra ba yếu tố sau đây:
1. Yếu tố xã hội: Nhằm có một vị trí trong tầng lớp xã hội vào hạng thượng lưu mà biểu tượng là làm quan (chứ không phải là làm giàu, và vẫn lấy các vị quan cao có đời sống thanh bạch làm lý tưởng). Cái mộng làm quan ấy có hai phần:
2. Yếu tố trí thức: Nhằm cách vật trí tri, tuy có bị sa lấy vào tệ tứ chương cử nghiệp, nhưng cũng không sao nhãng chuyện trau giồi trí tuệ cho thông minh và có kiến thức, hiếu học (trọng văn, hơi khinh võ): chữ văn hiểu theo nghĩa rất rộng là kiến thức bách khoa.
3. Yếu tố đạo đức: Nhằm sống theo nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; tránh tàn ác tham lam, xảo trá dâm dật, xa xỉ phóng túng; hơi có bề khắc khổ và hơi gò bó, ít nhiều nặng về hình thức, sợ dư luận khen chê, có ít nhiều sợ lẽ Công bình trời đất. Khá mơ hồ: ngầm sợ một cuộc lai sinh có thưởng phạt nhưng rõ ràng nhất là sơ gây oan nghiệt cho con cháu, có lẽ chính yếu là nhằm: ‘để đức cho con’. Trong nền đạo đức này, nhân nghĩa là căn bản: Nhân - được hiểu như là lòng thương người, nhất là dưới hình thức giúp đỡ người hoạn nạn cơ bần; Nghĩa - được hiểu như là lòng trung tín thủy chung, không phản bội lừa lọc, tham lam. Tiếp đó là nhấn mạnh đến việc tu thân tự trọng, tự giữ gìn nhân phẩm, đôi khi hơi thiên về khía cạnh sĩ diện danh thơm (không là hư danh nhưng là mong giữ tiếng tốt lưu truyền hậu thế) trong cái khí tiết có phần tự trọng nhưng cũng có phần tự cao (đôi khi bao hàm sự khinh chê kẻ tiểu nhân), mặc dầu bề ngoài khiêm tốn (tự xưng mình là tiện đệ ngu huynh…) ngay đến bậc quyền thế cũng tự xưng là ‘cô, quả’. Cái khiêm tốn chú trọng về cái lễ trong tương quan xã hội, tuy không cao thượng lắm, nhưng cũng là một cách ổ định hài hòa, trang nhã hóa tương quan xã hội, làm cái đệm tránh những va chạm, tranh chấp kèn cựa, giải quyết được những xung khắc đối kháng trong cuộc sống hằng ngày, khỏi tổn thương hòa khí và trật tự. Sự khiêm tốn có thể tiến lên bậc khiêm cung, thành thật tôn kính những giá trị chân chính vượt hơn mình, như đối với bậc tôn trưởng, tài đức …nhưng không phải đã tới chỗ khiêm hạ trong lòng thật sự, tự xem mình là hư hèn tội lỗi trước sự Chí Thiện Chí Thánh của ĐẤNG TốI CAO (như trường hợp của Phanxicô thành Át-si-di…)
Vì vậy riêng tôi, cũng như các anh chị em tôi, đều có phần nào cảm thấy vinh dự được thuộc về một gia đình nề nếp, vừa có địa vị về danh lợi (con quan, con địa chủ), vừa có học, vừa có tư cách. Có phẩm giá, có ít nhiều đạo đức (thanh liêm, trung trực, nghiêm túc, không xa hoa lăng loàn, biết trên kính dưới nhường, đi đứng ăn nói lễ độ, từ tốn theo khuôn khổ Thánh hiền đã vạch ra), lòng tự hào này phần nào cũng là một sư nâng đỡ trong cuộc sống, giúp chúng tôi khỏi sa ngã vào những điều xấu xa, ít nhất là về mặt thanh danh đối với mọi người. Vì thế, gia đình tôi thường được kính nể và ít nhiều được thiện cảm của mọi giới đồng bào. Măc dù sau này thân phụ tôi làm quan khá cao, nhưng người vẫn giữ được dáng dấp một nhà nho dung dị, đơn sơ, thuần phác, nghiêm ngặt, hiền hậu và vẫn được một số nhân sĩ gọi bằng ‘Thầy’. Xét cho cùng, thân phụ tôi bản chất là một nhà nho lẽ ra làm thày dạy học thì đúng hơn là làm Quan. Mà quả vậy sau khi đỗ đạt xong, thân phụ tôi làm nghề dạy học, tư nghiệp (gần như là phó Viện Trưởng Quốc Tử Giám); mãi đến khi Nho học bãi, thân phụ tôi chuyển sang ngành hành chánh làm Tri phủ Anh Sơn, rồi từ đo dần đến hàm Thượng Thư, rồi về hưu năm 1943. Thân phụ tôi vẫn thường tâm sự rằng khi Nho học bãi, phải chuyển qua ngành hành chánh là điều trái với ý nguyện của người - là chỉ muốn ở trong ngành dạy học. Vì vậy, anh em tôi, tuy làm con Quan, nhưng không ai có ý muốn làm Quan cả! Chỉ có ý muốn nối nghiệp học giỏi, đậu cao, làm các ngành văn hóa, nhất là dạy học.
Hồi tưởng lại tôi thấy thân phụ tôi là một nhà Nho thời mạt vận! 19 tuổi đậu đại khoa thì kể ra là khá thông minh, hiểu được chỗ uyên thâm của Nho giáo, nhưng có lẽ sau khi Nho học bãi phải miễn cưỡng chuyển sang ngành hành chính, ngưòi cảm thấy hết niềm tin vào Nho học về mặt xã hội, mà chỉ còn rút lui vào làm quan để nuôi sống gia đình, và ít nhiều ngụy tín là dầu sao thì vẫn là làm Quan với triều Nguyễn là chính thống, Pháp chỉ là bảo hộ mà thôi! Cố gắng đừng làm điều ác, cố gắng sống thanh liêm, công chính trong nhiệm vụ một ông Quan tốt theo nghĩa trung bình và chăm lo giáo dục con cái nên người có học và lương thiện, chứ không tưởng gì đến vấn đề độc lập dân tộc hay thay đổi xã hội lớn lao! Có lẽ người thấy bất lực trước sự tấn công của nền văn hóa Tây phương và thế lực của nước Pháp, nên gác hẳn ra mọi việc quốc gia đại sự! Vì vậy tôi nhớ lại người có một cái gì không được hoàn toàn triển nở (épanoui): Hình ảnh người bắt chân chữ ngũ, tay phe phẩy chiếc quạt nằm dài trên tấm phản ngựa kê trước thềm nhà dinh Tham Tri Bộ Hình ở Huế, tay gác lên trán ngâm thơ với giọng hơi trầm dưới ánh hoàng hôn, có một cái gì buồn nản, tuy nhẹ nhàng không bi đát lắm nhưng thật thấm thía. Vì vậy có thể nói: thân phụ tôi không có lập trường chính trị nào, chỉ xem việc làm quan như một nghề sinh sống nên không vinh vang gì về cái quan chức hẩm hàm ấy, mà chỉ tự hào về học vấn và tư cách của con người mình trong đời sống riêng tư.Nhờ vậy, nói chung anh em tôi đều không ham phú quí vinh hoa, cái bả danh lợi trên chúng tôi! Tôi chỉ biết mỗi lần nhắc nhở đến tên tuổi các cụ Phan Bội Châu, Võ Bá Hạp, Huỳnh Thúc Kháng, than phụ tôi đều có thái độ cung kính. Thỉnh thoảng, cụ Huỳnh, cụ Võ cũng có lui tới nhà tôi đàm dạo chuyện trò, nhưng chắc rằng chỉ trên bính diện văn chương thi phú giữa các nhà khoa bảng. Dầu sao than phụ tôi cũng được cụ huỳnh , cụ Võ dành cho một phần thiện cảm và thong cảm một phần nào đó về việc làm quan, vì thấy rằng tuy làm quan nhưng than phụ tôi cũng không đến nỗi náo cho nên mấy cụ mới lui tới!
Trong đời làm quan, than phụ tôi đi dâu cũng được dân chúng có cảm tình; lại có tiếng thanh liêm cương trực, nên đường hoạn lộ cũng chậm. Một số đông quan lại triều đình Huế là học trò của người ở Quốc Tử Giám sau này đều vượt nhanh trên việc thăng quan tiến chức hơn người. Tôi nghĩ rằng về mặt chính trị thì thân phụ tôi ít quan tâm, và có lẽ do ảnh hưởng của ông câu là cụ Tham Lê ở Xuân Trì nên người chấp nhận triều nguyễn là chính thống. Làm quan là làm quan với triều Nguyễn, nên với ít nhiều ngụy tín, người cảm thấy tạm ổn lương tâm, nhưng cũng c1 ít nhiều chỗ uẩn khúc: vì dầu sao, người cũng bết rõ tư cách của Khải Định, Bảo Đại, ting trạng của triều đình Huế, quan lãi và bảo hộ Pháp thời đó.
Quả vậy mãi đến năm 1945, người mới tâm sự với tôi rằng: ‘Là người có ăn học, lúc thiếu thời thày cũng không phải không biết đền cái đau nhục ‘mất nước’; và các cụ Cách Mạng chí sĩ có ý khuyến dụ thày, nhưng một mặt thì thày thấy không thể thàng công, mặt khác thì biết mình là người thiếu đảm lược gan dạ, sợ không dám dây mình vào ‘đại sự’, chằng những không ích lợi gì mà còn có thể hại đến đại sự của các cụ, nên thày định từ chối. Còn ra làm quan có chăng cũng là cái nghề sinh nhai, miễn là đừng gây nên tội ác gì chỉ mong sống bình an lương thiện, nuôi vợ con. Dạy dỗ con cái cho nên người tốt là đủ’ Sau này có một người học trò cũ của thân phụ tôi cho tôi biết rằng cụ Lê Văn Huân là bạn đồng khoa hương với thân phụ tôi, và tình bạn giữa hai người khá sâu đậm, trong câu đối mừng cụ Lê đễ giải nguyên, tôi cũng không nhớ nguyên văn, nhưng dịch ra có đoạn rằng: “Biết tài anh, biết đức anh, nhưng chí anh vượt quá tầm của tôi”
Tôi nghĩ rằng qua mấy chữ ấy, thân phụ tôi đã tự nhận mình khiêm tốn không đủ can trường để đáp lại lời mời gọi của cụ Lê, và gửi lời cáo tạ, với tất cả sự kính trọng đối với một người mà mình tôn kính là hơn mình về mọi măt. Không rõ khi cụ Lê tuẫn tiết trong lao Hà Tĩnh, thân phụ tôi đã cảm nghĩ như thế nào, nhưng chắc là không khỏi đau lòng và không khỏi có vấn đề! Vì vậy năm 45, đôi khi trong các câu chuyện với những bạn hữu của người, người tự ví với Thúy Kiều. Có lẽ người đã không nhận chức gì trong chính phủ Trần Trọng Kim cũng như năm 54, người cũng không nhận lời mời tham gia ban chấp hành Liên Việt Trung Ương, vì cảm thấy mình, như chính lời người nói với một ông cụ bạn: ‘Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, dám đem trần cấu dự vào bố kinh”.
Thật ra khi biết rõ thân phận ông quan Nam triều thời Bảo Đại, tôi cũng như các anh chị em tôi tuy có tự hào về mặt mình thuộc về một gia đình khoa bảng nho phong, nhưng không mấy ưa thích việc thân phụ tôi ra làm quan dưới thời Pháp thuộc. Mãi sau năm 1945, qua lời thân phụ tôi, tôi mới thấy rằng, chính thân phụ tôi cũng ít nhiều khổ tâm về việc ấy. Đến những năm về hưu, người có nghiêng về Phật giáo, nhưng chỉ nghiêng về mặt luân lý khuyến thiện tránh ác, trai giới, bớt sát sinh, hơn là về mặt siêu hình của Phật giáo. Nhưng cũng nhờ ảnh hưởng của Phật giáo mà người đã chấp nhận những gì thiệt thòi cho người và cho gia đình vào cuối đời. Người có tâm sự với tôi rằng: “Tuy suốt đời làm quan đã gắng liêm khiết, nhưng làm sao tránh được những sai lầm oan trái, nhất là trong vai trò làm quan xử án.” Cho nên người chấp nhận những gì là đau khổ xảy đến như là một đền tạ oan khiên mà mấy chục năm làm quan không thể nào tránh nổi. Trong thâm tâm, tôi vẫn tin rằng, tuy không có được phúc trực tiếp biết Đấng Cứu Thế, nhưng cũng trong mầu nhiệm Cứu Độ phổ quát của Thiên Chúa đầy lòng thương xót, thì tâm tình nửa Nho nửa Phật ấy của thân phụ tôi (lẽ tất nhiên ông tin là có Trời rồi) cũng là con đường Thiên Chúa dung để cho linh hồn người không đến nỗi phải hư mất đời đời. Và nếu người có tâm tình sám hối ấy trong những ngày cuối đời vô cùng đau khổ của người tại trại học tập năm 1953, chính là Hồng Ân Thiên Chúa ban cho, để thân phụ của tôi được những Hồng Ân Cứu Độ của Ngài.
Tóm lại, hình ảnh thân phụ tôi có nhiều nét khả ái, nhưng cũng gợi lên một cái gì đó bất túc, không hoàn hảo. Có lẽ chính cái giới hạn đó đã khiến tôi lớn lên, có hướng tìm một cái gì khác và hơn cái lý tưởng Nho giáo thời mạt vận, mang ít nét phong kiến cộng với nếp sống quan lại, địa chủ vùng quê trước Cách Mạng năm 1945. Có lẽ tôi có hoài vọng một thời Nho giáo Nghiêu Thuấn đã qua đi và không bao giờ có được nữa ở trần gian này! Có lẽ cũng vì vậy, không bao giờ tôi tin rằng cái vương đạo có thể thực hiện được trong lãnh vực chính trị trần thế. Cũng vì vậy mà sau khi đã chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu về mặt độc lập dân tộc, ảnh hưởng thơ Tố Hữu về mặt công bằng xã hội và mãi sau này tư tưởng của Emmanuel Mounier, tư tưởng của các thông điệp về Giáo Hội của các vị Giáo Hoàng, tuy tôi có ít nhiều khao khát về độc lập, vế măt công bằng xã hội, nhưng tôi không bao giờ có nhiệt tình cách mạng, vì không bao giờ có lòng tin vào bất cứ một thuyết nào cả! Phải nhìn nhận rằng về mặt này tôi rất bi quan! Tôi chỉ có lòng kính mến những kẻ thất bại vì đấu tranh: Nhạc Phi, Nguyễn Trãi … và tôi cứ tự mình hỏi nếu họ thành công và có quyền lực thì họ có còn giữ được sự cao đẹp của lý tưởng ban đầu không? Và hình như tôi có xu hướng cho rằng mọi quyền bính đều làm hư con người. Kẻ cầm quyền khó mà tốt được! Tôi hoàn toàn đồng ý với câu: ‘Le pouvoir corrompt par essence’ (bản chất của quyền lực là làm hư con người). Như cụ Nguyễn Du có nói: Lạ gì cái thói quan nha! Quan bao giờ cũng vẫn là quan! Sau này tôi rất khâm phục và tán thành, và hiểu vì sao, Chúa Giêsu đã nhiều lần từ chối lời yêu cầu của dân chúng và môn đệ muốn Ngài lên làm vua! Sử sách có được mấy anh quân lương thần? Vì thế, từ thuở bé, tôi đã hướng về mặt văn hóa giáo dục hơn là về mặt sinh hoạt chính trị. Tôi tin và kính mến các nhà chính trị khi họ chưa thành công. Còn khi đã thành công rồi thì?… cho nên trong cái vốn liếng Nho học nơi tâm hồn tôi có lẽ hình ảnh Nhan Hồi là hấp dẫn đối với tôi, vả chăng chính cụ Khổng cũng chỉ là một ông thầy chứ đâu có phải là một ông quan! Như thế, nền tảng đầu tiên trong tâm hồn tôi là một khao khát đạo đức luân lý được gieo vào qua trung gian một vị danh nho thời mạt vận của Nho giáo, của một triều đại, một chính thể quân chủ, của một nền văn hoá cổ truyền, dưới sự thống trị của thực dân Pháp hùng cường nên còn lấp lửng với một nền văn hóa ngoại lai, cũng vừa là nền văn hóa hiện đại. Nền giáo dục ấy không phải là không có nhiều giá trị cao đẹp, nhưng nó vừa có những bất túc do bản chất, vừa có những khiếm khuyết suy thoái của thời mạt vận. Nếu ví tâm hồn con người như gồm nhiều lớp địa chất, thì lớp đầu tiên trong tâm hồn tôi là cái tàn tích của một nền văn hóa và một chính thể suy đồi. Vì vậy trong tôi vẫn có một cái u hoài, hoài cổ, ít hướng về tương lai của thời gian trần thế! Các học thuyết về sự tiến bộ ít hấp dẫn đối với tôi; Có lẽ vì từ tấm bé tôi đã sống trong bầu khí của một thế giới đang trên chặng cuối của sự diệt vong: Nho giáo, Triều Nguyễn, và chế độ quân chủ.
Còn mẹ tôi? Người là vợ kế của thân phụ tôi, sau khi bà đích mẫu qua đời. Bà đích mẫu có sáu người con: 3 trai, 3 gái. Bà cũng thuộc dòng dõi Nho giáo, thân phụ người cũng đậu cử nhân, làm học quan, anh ruột người cũng đậu tiến sĩ, và một người em trai của người cũng đậu cử nhân. Nghe kể lại thì người hiền lành, nhưng cũng có lẽ vì sức khỏe kém, nên công việc tề gia, người phần nào không phải là tay đảm đang, người mất sớm, lúc người chị cả tôi 16 tuổi và chị con út của người lên 4 tuổi. Mẹ tôi cũng thuộc một gia đình Nho học, khá giả về kinh tế ở làng Đức Nhuận huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Ông ngoại ruột của tôi đậu cử nhân, nhưng có lẽ nhờ gia đình khá giả nên không ra làm quan. Người mất sớm, lúc mẹ tôi lên 4 tuổi. Mẹ tôi có một người anh trai đậu tú tài Hán học, cũng không làm quan, quê mẹ tôi là vùng quê xanh tươi trên bờ sông Giang, một phụ lưu của sông Lam, đặc biệt là sản xuất trầu. Những vườn trầu trồng với kỹ thuật cao. Trồng từng luống, cây trầu leo lên những giàn nứa lớp lang, rất gọn gàng đẹp mắt. Bà ngoại tôi góa chồng lúc mới 30 tuổi, ở vậy nuôi con, là một người đàn bà rất dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ, đi đứng khoan thai, đúng hình dạng một bà ngoại trong các tiểu thuyết viết về quê mẹ. Thường vào dịp nghỉ hè tôi về chơi quê ngoại vài tuần, một tháng, được bà ngoại, các cậu, các dì chiều chuộng, vui đùa với các anh chị em bên ngoại trong cảnh vườn êm ả bên giòng sông Giang trong mát, kỷ niệm toàn là êm đềm.
Mẹ tôi đương nhiên là một người đàn bà được giáo dục theo đúng mẫu mực Nho giáo thời xưa: Khuôn phép, cần kiệm, đoan trang, hết lòng vì chồng vì con, giúp chồng gầy dựng tài sản, dạy con rất khuôn phép để chúng tối nên người theo lý tưởng: họ giỏi, lương thiện và có địa vị trong làng ngoài xã hội. Mẹ tôi rất đảm đang, rất cần kiệm, làm gì cũng tính toán chu đáo về mọi mặt. Tuy không phải là kinh doanh to lớn nhưng cũng nhờ vào cần kiệm, dần dần người đã giúp thân phụ tôi gây dựng một tài sản tương đối khá so với vùng quê Nghệ Tĩnh. Ba ngôi nhà ngói tương đối lớn, vài sào vườn, khoảng 40 mẫu ta ruộng. Mẹ thuộc về một hình dạng đàn bà đoan trang mẫu mực cái gì cũng chín chắn, ít để tình cảm chế ngự, khá thông minh, và rất quân bình, ít khi tôi thấy người nóng giận, bi lụy ồn ào, ít khi la mắng, cũng ít khi khóc lóc kể lể! Người hy sinh vì con vì chồng, song ít biểu lộ tình cảm. Không nuông chiều con, nhưng cũng ít khi la mắng con lớn tiếng, hiền hoà nhưng chừng mực, hơi thiếu phần dịu dàng mà nặng phần đoan trang. Mẹ tôi là con người của bổn phận làm vợ, làm mẹ, có lẽ theo đúng hình ảnh Mạnh mẫu hơn là của người bình dân Việt Nam. Muốn mô tả mẹ tôi thì có lẽ hai tiếng Mẫu nghi đúng hơn Hiền mẫu. Vì thế, tương quan với con cái cũng như với bà con làng xóm rất ôn hòa nghiêm túc (có lẽ khó mà chê trách mẹ điều gì). Nhưng thiếu phần nào sự ấm áp dịu dàng, nặng bổn phận hơn là thân tình. Tôi cũng không hiểu vì đâu lại vậy, chứ các cậu các dì tôi thì có vẻ hào hoa phóng túng hơn, nhất là ông cậu cả của tôi, đúng là một tay hào hoa, thường nhắm rượu, hát ả đào, ít khi tưởng đến việc nhà. Tôi có phần nào giống các cậu và các dì hơn là giống mẹ, nhiều tình cảm, ít tính toán, hơi thiếu ý chí, phóng khoáng nếu không nói là phóng túng! Cuối cùng tôi nghĩ danh hiệu xứng với mẹ tôi nhất, có lẽ là “người đàn bà của bổn phận” đúng lý tưởng Nho giáo xưa.
Thế là đứng về mặt gia đình, bề ngoài mà xét tôi thuộc về một “danh gia, vọng tộc” trong cái xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân tư sản, ở vùng quê xứ Nghệ trước cách mạng 45. Có thể nơi tương đối là tôi có phúc theo quan niệm Nho giáo trung bình: địa vị cao, danh tiếng tốt, có gia giáo, được kính nể, phần nào được sự yêu vì của mọi tầng lớp xã hội. Đời sống gia đình rất nề nếp trật tự, thuận hòa phép tắc. Dư luận hồi đó cho như vậy là có phúc! Và chúng tôi cũng được dạy dỗ rằng sở dĩ như vậy là nhờ ông bà ăn ở có phúc đức, và nếu chúng tôi cũng muốn cho con cháu mai sau cũng được như mình, thì chúng tôi cũng phải vun quén “cội phúc” bằng một cuộc đời “ăn ở cho có đức”. Suy cho cùng, căn bản đạo đức quy vào gia đình: thừa hưởng phúc ông bà, gia phong nề nếp, có địa vị có học thức có đức độ, thì phải cố gắng duy trì cho con cháu đời đời. Vì thế việc thờ phụng ông bà và lo nối dõi để hương khói mai sau, là việc tối quan trọng. Hàng năm, các kỳ lễ giỗ là dịp để bà con đoàn tụ, để một mặt tưởng nhớ công đức tổ tiên, một mặt giáo dục cho thấm nhuần đạo hiếu.
Lẽ dĩ nhiên trên phúc tổ có dạy đến ơn trời: nhưng ơn trời được biểu hiện qua trung gian phúc tổ. Ngoài xã hội thì qua trung gian ơn vua và trung gian các vị linh thần, hiển thánh mà vị gần gũi nhất là vị Thần Hoàng thờ tại đình làng. Tại nguyên quán tôi cũng như tại cư quán, vị Thành Hoàng đều là công thần của triều Lê được nhà vua phong thần. Ngay cả vị tổ của chi họ NGUYỄN KHẮC của chúng tôi ở đất Nghệ cũng được phong thần, vì là một hiền thần của triều đình nhà Lê.
Về tâm tình tôn giáo, thì chung chung có ý niệm về một ông trời giàu đức hiếu sinh, nhưng được hình dung như một Thượng Đế uy quyền ban bố ơn lành cho muôn loài, đền ơn trả oán tùy theo đời sống đạo đức theo khuôn mẫu Nho giáo, tâm tình đó được tài bồi và thể hiện qua việc để đức cho con cháu sau khi đã được thừa hưởng đức ông bà. Theo lý tưởng Nho giáo thì có hai mặt: Hiếu và Trung, nhưng có lẽ vì ở vào thời Triều Nguyễn, triều đình chỉ là hư vị bù nhìn, nên việc giáo dục gia đình tôi hình như chỉ rút gọn vào “đạo hiếu”, và một thứ phúc đức “ăn ở tốt lành” qua trung gian việc thừa kế gia phong, lưu truyền ơn đức hơn là một đức bác ái thuần túy vô cầu. Nền đạo đức ấy không có gì là cao siêu, nhưng khá vững chắc để giúp chúng tôi biết cách xử thế theo một sự lương thiện: Phúc đức vừa phải, đôn hậu quân bình, không có những hy sinh tuyệt vời nhưng để giữ vững lương tâm tránh xa điều bạc ác; và cũng biết mở rộng chút ít cõi lòng đối với những kẻ thua thiệt hơn mình, làm ơn làm phúc một cách vừa phải!
Tuy làm quan, trên nguyên tắc là phải hết lòng thờ vua, dạy con cháu đạo trung quân; nhưng thân phụ tôi không bao giờ dạy chúng tôi về mặt ấy, và cũng không bao giờ nói đến chữ “ái quốc”. Có lẽ hai chữ “hiếu trung”, người đành để chữ “trung” vào vòng ngoặc mà chỉ chăm chú vào chữ “hiếu”. Người làm việc quan với tinh thần một công chức có lương tâm, chứ không phải với tâm hồn kẻ trung thần. Cũng chính vì thế mà lúc anh cả tôi đậu tú tài xong, mẹ tôi có ý cho anh học luật để nối nghiệp làm quan, nhưng chính thân phụ tôi lại không có ý kiến khi anh xin học vào nghành y khoa. Cũng chính vì vậy mà năm 45, người đã nhẹ nhàng thanh thản và chân thành tham gia tích cực mọi hoạt động của Liên Việt, như người có nói: “Chính Đức Hoàng Thượng xuống chiếu thoái vị trao quyền cho chính phủ cách mạng, chứ không xuống chiếu cần Vương”.
Nói chung, thuở thiếu thời của tôi sung sướng. Tôi lại được may mắn có ít nhiều thông minh, tính tình được xem là ngoan ngoãn hiền lành, ở nhà được cha mẹ, anh chị, chú bác, cô dì, cậu mợ thương mến, ở tại trường thì học giỏi được thầy mến bạn yêu, xóm làng cũng dành cho một sự kính nể mến yêu nào đó. Thật vậy, gia đình tôi tuy có địa vị, nhưng được xem như là một “nhà nho” hơn là một “nhà quan”, nên không bị xem như là hách dịch, quan liêu, mà được xem là “nề nếp gia phong”. Bạn học của tôi phần lớn là con em của những gia đình bình dân, và riêng tôi hình như có xu hướng thân thiện với các bạn con nhà bình dân hơn là những con nhà quyền quý (trừ con của các bạn khoa bảng với thân phụ tôi). Tuy trong nhà có kẻ hầu người hạ khá đông; vừa lính lệ của nhà nước vừa người làm mướn làm thuê; nhưng thân phụ tôi dạy chúng tôi phải biết kính trọng họ; nếu lỡ ra chúng tôi có lời nói hay cử chỉ hỗn láo đối với họ, thì người quở mắng rất nghiêm. Riêng tôi cũng như các anh chị tôi đều chịu ảnh hưởng bài thơ của Tố Hữu về anh Phước đi ở bị đối xử tàn tệ, nên chúng tôi cư xử với kẻ giúp việc trong nhà tương đối tốt và cũng được họ yêu mến; sau này khi gặp lại nhau, ai nấy đều tay bắt mặt mừng nhắc lại kỷ niệm cũ rất vui vẻ! Thậm chí có người vẫn xem gia đình tôi như là ân nhân của họ.
Tôi sinh năm 1925 (Ất Sửu). Giấy khai sinh chính thức ghi là sinh vào ngày 24 tháng 9 Dương Lịch, tại nguyên quán là làng Thịnh Xá, nhưng thực sự là tại bệnh viện thành phố Vinh, là nơi thân phụ tôi giữ chức Án Sát tỉnh Nghệ An. Nguyên quán tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình tôi sang cư ngụ tại làng Gôi Mỹ, sát cạnh làng Thịnh Xá, nhưng theo tục lệ xưa thì họ NGUYỄN KHẮC của tôi vẫn thuộc danh bộ làng Thịnh Xá, và vẫn bị xem như là dân cư ngụ tại làng Gôi Mỹ. Công việc sưu thuế, cúng tế đều thuộc về nguyên quán; còn tại làng Gôi Mỹ thì chỉ đóng góp với tinh thần ngoại qui. Cả hai làng nguyên và trú quán đều thuộc về tổng An Ấp, nằm về tả ngạn sông Phố, là phụ lưu của sông Lam, từ Trường Sơn đổ xuống. Sông Phố chảy hết địa phận huyện Hương Sơn sẽ kết hợp với một phụ lưu khác là song Sâu chảy giữa hai huyện Hương Khê và Đức Thọ, tại ngã ba sông gọi là Tam Soa (3 cành) có đồn Linh Cảm. Hai dòng Phố và Sâu chảy vào khúc sông ngắn gọi là sông La chảy qua huyện (bấy giờ gọi là phủ) Đức Thọ. Rồi sông La chảy vào sông Lam tại ngã ba Phủ. Ngọn núi được xem như tiêu biểu cho quê tôi gọi là Rú Chuối (tên chữ non Tiêu), non Tiêu ngàn Phố chỉ là vùng tổng An Ấp, cũng như Hồng Lam chỉ là vùng Nghệ Tĩnh. Danh nhân thì có Hải Thượng Lãn Ông đã chọn Hương Sơn làm nơi ở ẩn, có Cao Thắng, Lý Chính Thắng, cụ Nguyễn Đình Kiên và Hồ Hảo (đánh chiếm đồn phố Châu thời Nhật thuộc).
Dù là thuộc về một gia đình quan lại Nam triều dưới thời Pháp thuộc, tôi và anh chị em trong gia đình, như bất cứ người dân Nghệ Tĩnh nào cũng có chút tự hào về truyền thống cách mạng và văn hóa địa phương mình. Từ thuở bé, tôi đã luôn nghe nói đến Nguyễn Biểu, Mai Hắc Đế, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Lê Văn Huân, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Ái Quốc, Cao Thắng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, cụ Thám làng Ngang, cụ Nghè và… rồi Xuân Diệu, Huy Cận,v.v… dân Nghệ Tĩnh có tiếng là can trường, khảng khái, trung kiên, chân chất, cần kiệm, đôi khi quá kham khổ (như trong sự tích cá gỗ!); so với nhân dân đất Kinh Bắc thời xưa thì có phần thiếu thanh lịch, vụng doanh thương. Đời Lý, Trần, đất Nghệ có thể như địa đầu cực Nam, nơi quan ải xa xôi, đât đai không được phì nhiêu, luôn lụt lội bão tố. Học trò Nghệ có tiếng là học giỏi, đỗ đạt nhiều, thời Hán Học cũng như thời Tây học. Dòng họ Nguyễn Khắc của tôi thời Lê Trung Hưng mới từ Sơn Tây (Nguyễn Khắc Hiếu) vào đất Nghệ, trước ở huyện Nam Đàn, sau nhánh thứ mới sang Hương Sơn, đến tôi chỉ độ năm sáu đời. Vị tổ đầu tiên vào đất Nghệ là Nguyễn Khắc Văn (giữ chức phó Đô Ngự Sử đời Lê Vĩnh Tộ); tuy không thấy ai ghi chép rõ, nhưng tôi phỏng đoán lý do cũng tương tự như cụ Hải Thượng: bất mãn chế độ họ Trịnh nên rút lui vào đất Nghệ. Các đời sau không thấy mấy ai đỗ đạt hay làm quan cho đến đời thân phụ tôi so với họ Đinh (thứ trưởng Đinh Nho Liêm) ở làng Gôi Mỹ, thì có phần kém sút mà chỉ thuộc về thành phần phú hào trung lưu. Chỉ có người cậu ruột của ông nội là một nhà nho đỗ đạt làm quan và nổi tiếng về đông y: đó là cụ Lê Kinh Hạp. Ông nội tôi có được sách đèn, nhưng không đỗ đạt gì. Thân phụ tôi có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều của ông cậu họ Lê ấy nên đã sớm ham học và may mắn có thiên tư nên đỗ đạt rất sớm: năm 19 tuổi đậu hoàng giáp (khoa thi Đình đời vua Thành Thái). Việc thân phụ tôi đậu đại khoa lúc 19 tuổi là một vinh dự cho gia đình và giòng họ, cho cả làng xóm, cả đến hàng huyện hàng tổng. Và trong cái nhìn của những người bình dân thì cho rằng ông bà tôi có phúc đức, bởi vì theo Nho học, thì không chỉ có văn chương, mà chủ yếu là lễ nghĩa theo đạo thánh hiền với lý tưởng: tu tề trị bình! Nên ông bà có phúc đức thì con cháu mới được như thế. Thậm chí có kẻ còn cho rằng đó là một thần đồng hóa thân, nên lắm người có con cái hay đau yếu đã đem bán khoán cho thân phụ tôi như bán cho các vị thần ở đình miếu, có khi còn xin mảnh vải từ y phục của người để làm bùa cho con cái đeo để trừ tà!
Con nhà có học thì không phải chỉ có học giỏi, mà phải có lễ nghĩa, đức hạnh, nết na, kế tục truyền thống gia phong không phài chỉ có lo trau giồi chữ nghĩa, mà phải tu tâm dưỡng tính theo các bậc thánh hiền, ít nhất cũng phải là con người có lương thiện, đừng làm điều gì mà thất đức, điếm nhục đến cha ông, và gây tội với Trời, di hại cho con cháu. Do đó việc giáo dục gia đình tôi tương đối nghiêm khắc: từ lời ăn tiếng nói đến cách đi dứng đều được rèn luyện kỹ lưỡng, và tất nhiên phải là chăm lo học hành. Từ thuở bé, tôi đã được gia đình truyền thụ cả một nền đạo đức Khổng giáo và một truyền thống văn học khá sâu đậm. Cái truyền thống ấy tôi tạm phân tích ra ba yếu tố sau đây:
1. Yếu tố xã hội: Nhằm có một vị trí trong tầng lớp xã hội vào hạng thượng lưu mà biểu tượng là làm quan (chứ không phải là làm giàu, và vẫn lấy các vị quan cao có đời sống thanh bạch làm lý tưởng). Cái mộng làm quan ấy có hai phần:
- Một là vị kỷ: Nhằm có địa vị, năng về danh thơm hơn lợi lộc, nặng về tôn trọng kính nể hơn là oai quyền hống hách.
- Một phần vị tha: giúp Vua trị nước (theo nghĩa giúp dân sống no ấm, an ổn và có đạo đức) theo kiểu ‘dân chi phụ mẫu’.
2. Yếu tố trí thức: Nhằm cách vật trí tri, tuy có bị sa lấy vào tệ tứ chương cử nghiệp, nhưng cũng không sao nhãng chuyện trau giồi trí tuệ cho thông minh và có kiến thức, hiếu học (trọng văn, hơi khinh võ): chữ văn hiểu theo nghĩa rất rộng là kiến thức bách khoa.
3. Yếu tố đạo đức: Nhằm sống theo nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; tránh tàn ác tham lam, xảo trá dâm dật, xa xỉ phóng túng; hơi có bề khắc khổ và hơi gò bó, ít nhiều nặng về hình thức, sợ dư luận khen chê, có ít nhiều sợ lẽ Công bình trời đất. Khá mơ hồ: ngầm sợ một cuộc lai sinh có thưởng phạt nhưng rõ ràng nhất là sơ gây oan nghiệt cho con cháu, có lẽ chính yếu là nhằm: ‘để đức cho con’. Trong nền đạo đức này, nhân nghĩa là căn bản: Nhân - được hiểu như là lòng thương người, nhất là dưới hình thức giúp đỡ người hoạn nạn cơ bần; Nghĩa - được hiểu như là lòng trung tín thủy chung, không phản bội lừa lọc, tham lam. Tiếp đó là nhấn mạnh đến việc tu thân tự trọng, tự giữ gìn nhân phẩm, đôi khi hơi thiên về khía cạnh sĩ diện danh thơm (không là hư danh nhưng là mong giữ tiếng tốt lưu truyền hậu thế) trong cái khí tiết có phần tự trọng nhưng cũng có phần tự cao (đôi khi bao hàm sự khinh chê kẻ tiểu nhân), mặc dầu bề ngoài khiêm tốn (tự xưng mình là tiện đệ ngu huynh…) ngay đến bậc quyền thế cũng tự xưng là ‘cô, quả’. Cái khiêm tốn chú trọng về cái lễ trong tương quan xã hội, tuy không cao thượng lắm, nhưng cũng là một cách ổ định hài hòa, trang nhã hóa tương quan xã hội, làm cái đệm tránh những va chạm, tranh chấp kèn cựa, giải quyết được những xung khắc đối kháng trong cuộc sống hằng ngày, khỏi tổn thương hòa khí và trật tự. Sự khiêm tốn có thể tiến lên bậc khiêm cung, thành thật tôn kính những giá trị chân chính vượt hơn mình, như đối với bậc tôn trưởng, tài đức …nhưng không phải đã tới chỗ khiêm hạ trong lòng thật sự, tự xem mình là hư hèn tội lỗi trước sự Chí Thiện Chí Thánh của ĐẤNG TốI CAO (như trường hợp của Phanxicô thành Át-si-di…)
Vì vậy riêng tôi, cũng như các anh chị em tôi, đều có phần nào cảm thấy vinh dự được thuộc về một gia đình nề nếp, vừa có địa vị về danh lợi (con quan, con địa chủ), vừa có học, vừa có tư cách. Có phẩm giá, có ít nhiều đạo đức (thanh liêm, trung trực, nghiêm túc, không xa hoa lăng loàn, biết trên kính dưới nhường, đi đứng ăn nói lễ độ, từ tốn theo khuôn khổ Thánh hiền đã vạch ra), lòng tự hào này phần nào cũng là một sư nâng đỡ trong cuộc sống, giúp chúng tôi khỏi sa ngã vào những điều xấu xa, ít nhất là về mặt thanh danh đối với mọi người. Vì thế, gia đình tôi thường được kính nể và ít nhiều được thiện cảm của mọi giới đồng bào. Măc dù sau này thân phụ tôi làm quan khá cao, nhưng người vẫn giữ được dáng dấp một nhà nho dung dị, đơn sơ, thuần phác, nghiêm ngặt, hiền hậu và vẫn được một số nhân sĩ gọi bằng ‘Thầy’. Xét cho cùng, thân phụ tôi bản chất là một nhà nho lẽ ra làm thày dạy học thì đúng hơn là làm Quan. Mà quả vậy sau khi đỗ đạt xong, thân phụ tôi làm nghề dạy học, tư nghiệp (gần như là phó Viện Trưởng Quốc Tử Giám); mãi đến khi Nho học bãi, thân phụ tôi chuyển sang ngành hành chánh làm Tri phủ Anh Sơn, rồi từ đo dần đến hàm Thượng Thư, rồi về hưu năm 1943. Thân phụ tôi vẫn thường tâm sự rằng khi Nho học bãi, phải chuyển qua ngành hành chánh là điều trái với ý nguyện của người - là chỉ muốn ở trong ngành dạy học. Vì vậy, anh em tôi, tuy làm con Quan, nhưng không ai có ý muốn làm Quan cả! Chỉ có ý muốn nối nghiệp học giỏi, đậu cao, làm các ngành văn hóa, nhất là dạy học.
Hồi tưởng lại tôi thấy thân phụ tôi là một nhà Nho thời mạt vận! 19 tuổi đậu đại khoa thì kể ra là khá thông minh, hiểu được chỗ uyên thâm của Nho giáo, nhưng có lẽ sau khi Nho học bãi phải miễn cưỡng chuyển sang ngành hành chính, ngưòi cảm thấy hết niềm tin vào Nho học về mặt xã hội, mà chỉ còn rút lui vào làm quan để nuôi sống gia đình, và ít nhiều ngụy tín là dầu sao thì vẫn là làm Quan với triều Nguyễn là chính thống, Pháp chỉ là bảo hộ mà thôi! Cố gắng đừng làm điều ác, cố gắng sống thanh liêm, công chính trong nhiệm vụ một ông Quan tốt theo nghĩa trung bình và chăm lo giáo dục con cái nên người có học và lương thiện, chứ không tưởng gì đến vấn đề độc lập dân tộc hay thay đổi xã hội lớn lao! Có lẽ người thấy bất lực trước sự tấn công của nền văn hóa Tây phương và thế lực của nước Pháp, nên gác hẳn ra mọi việc quốc gia đại sự! Vì vậy tôi nhớ lại người có một cái gì không được hoàn toàn triển nở (épanoui): Hình ảnh người bắt chân chữ ngũ, tay phe phẩy chiếc quạt nằm dài trên tấm phản ngựa kê trước thềm nhà dinh Tham Tri Bộ Hình ở Huế, tay gác lên trán ngâm thơ với giọng hơi trầm dưới ánh hoàng hôn, có một cái gì buồn nản, tuy nhẹ nhàng không bi đát lắm nhưng thật thấm thía. Vì vậy có thể nói: thân phụ tôi không có lập trường chính trị nào, chỉ xem việc làm quan như một nghề sinh sống nên không vinh vang gì về cái quan chức hẩm hàm ấy, mà chỉ tự hào về học vấn và tư cách của con người mình trong đời sống riêng tư.Nhờ vậy, nói chung anh em tôi đều không ham phú quí vinh hoa, cái bả danh lợi trên chúng tôi! Tôi chỉ biết mỗi lần nhắc nhở đến tên tuổi các cụ Phan Bội Châu, Võ Bá Hạp, Huỳnh Thúc Kháng, than phụ tôi đều có thái độ cung kính. Thỉnh thoảng, cụ Huỳnh, cụ Võ cũng có lui tới nhà tôi đàm dạo chuyện trò, nhưng chắc rằng chỉ trên bính diện văn chương thi phú giữa các nhà khoa bảng. Dầu sao than phụ tôi cũng được cụ huỳnh , cụ Võ dành cho một phần thiện cảm và thong cảm một phần nào đó về việc làm quan, vì thấy rằng tuy làm quan nhưng than phụ tôi cũng không đến nỗi náo cho nên mấy cụ mới lui tới!
Trong đời làm quan, than phụ tôi đi dâu cũng được dân chúng có cảm tình; lại có tiếng thanh liêm cương trực, nên đường hoạn lộ cũng chậm. Một số đông quan lại triều đình Huế là học trò của người ở Quốc Tử Giám sau này đều vượt nhanh trên việc thăng quan tiến chức hơn người. Tôi nghĩ rằng về mặt chính trị thì thân phụ tôi ít quan tâm, và có lẽ do ảnh hưởng của ông câu là cụ Tham Lê ở Xuân Trì nên người chấp nhận triều nguyễn là chính thống. Làm quan là làm quan với triều Nguyễn, nên với ít nhiều ngụy tín, người cảm thấy tạm ổn lương tâm, nhưng cũng c1 ít nhiều chỗ uẩn khúc: vì dầu sao, người cũng bết rõ tư cách của Khải Định, Bảo Đại, ting trạng của triều đình Huế, quan lãi và bảo hộ Pháp thời đó.
Quả vậy mãi đến năm 1945, người mới tâm sự với tôi rằng: ‘Là người có ăn học, lúc thiếu thời thày cũng không phải không biết đền cái đau nhục ‘mất nước’; và các cụ Cách Mạng chí sĩ có ý khuyến dụ thày, nhưng một mặt thì thày thấy không thể thàng công, mặt khác thì biết mình là người thiếu đảm lược gan dạ, sợ không dám dây mình vào ‘đại sự’, chằng những không ích lợi gì mà còn có thể hại đến đại sự của các cụ, nên thày định từ chối. Còn ra làm quan có chăng cũng là cái nghề sinh nhai, miễn là đừng gây nên tội ác gì chỉ mong sống bình an lương thiện, nuôi vợ con. Dạy dỗ con cái cho nên người tốt là đủ’ Sau này có một người học trò cũ của thân phụ tôi cho tôi biết rằng cụ Lê Văn Huân là bạn đồng khoa hương với thân phụ tôi, và tình bạn giữa hai người khá sâu đậm, trong câu đối mừng cụ Lê đễ giải nguyên, tôi cũng không nhớ nguyên văn, nhưng dịch ra có đoạn rằng: “Biết tài anh, biết đức anh, nhưng chí anh vượt quá tầm của tôi”
Tôi nghĩ rằng qua mấy chữ ấy, thân phụ tôi đã tự nhận mình khiêm tốn không đủ can trường để đáp lại lời mời gọi của cụ Lê, và gửi lời cáo tạ, với tất cả sự kính trọng đối với một người mà mình tôn kính là hơn mình về mọi măt. Không rõ khi cụ Lê tuẫn tiết trong lao Hà Tĩnh, thân phụ tôi đã cảm nghĩ như thế nào, nhưng chắc là không khỏi đau lòng và không khỏi có vấn đề! Vì vậy năm 45, đôi khi trong các câu chuyện với những bạn hữu của người, người tự ví với Thúy Kiều. Có lẽ người đã không nhận chức gì trong chính phủ Trần Trọng Kim cũng như năm 54, người cũng không nhận lời mời tham gia ban chấp hành Liên Việt Trung Ương, vì cảm thấy mình, như chính lời người nói với một ông cụ bạn: ‘Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, dám đem trần cấu dự vào bố kinh”.
Thật ra khi biết rõ thân phận ông quan Nam triều thời Bảo Đại, tôi cũng như các anh chị em tôi tuy có tự hào về mặt mình thuộc về một gia đình khoa bảng nho phong, nhưng không mấy ưa thích việc thân phụ tôi ra làm quan dưới thời Pháp thuộc. Mãi sau năm 1945, qua lời thân phụ tôi, tôi mới thấy rằng, chính thân phụ tôi cũng ít nhiều khổ tâm về việc ấy. Đến những năm về hưu, người có nghiêng về Phật giáo, nhưng chỉ nghiêng về mặt luân lý khuyến thiện tránh ác, trai giới, bớt sát sinh, hơn là về mặt siêu hình của Phật giáo. Nhưng cũng nhờ ảnh hưởng của Phật giáo mà người đã chấp nhận những gì thiệt thòi cho người và cho gia đình vào cuối đời. Người có tâm sự với tôi rằng: “Tuy suốt đời làm quan đã gắng liêm khiết, nhưng làm sao tránh được những sai lầm oan trái, nhất là trong vai trò làm quan xử án.” Cho nên người chấp nhận những gì là đau khổ xảy đến như là một đền tạ oan khiên mà mấy chục năm làm quan không thể nào tránh nổi. Trong thâm tâm, tôi vẫn tin rằng, tuy không có được phúc trực tiếp biết Đấng Cứu Thế, nhưng cũng trong mầu nhiệm Cứu Độ phổ quát của Thiên Chúa đầy lòng thương xót, thì tâm tình nửa Nho nửa Phật ấy của thân phụ tôi (lẽ tất nhiên ông tin là có Trời rồi) cũng là con đường Thiên Chúa dung để cho linh hồn người không đến nỗi phải hư mất đời đời. Và nếu người có tâm tình sám hối ấy trong những ngày cuối đời vô cùng đau khổ của người tại trại học tập năm 1953, chính là Hồng Ân Thiên Chúa ban cho, để thân phụ của tôi được những Hồng Ân Cứu Độ của Ngài.
Tóm lại, hình ảnh thân phụ tôi có nhiều nét khả ái, nhưng cũng gợi lên một cái gì đó bất túc, không hoàn hảo. Có lẽ chính cái giới hạn đó đã khiến tôi lớn lên, có hướng tìm một cái gì khác và hơn cái lý tưởng Nho giáo thời mạt vận, mang ít nét phong kiến cộng với nếp sống quan lại, địa chủ vùng quê trước Cách Mạng năm 1945. Có lẽ tôi có hoài vọng một thời Nho giáo Nghiêu Thuấn đã qua đi và không bao giờ có được nữa ở trần gian này! Có lẽ cũng vì vậy, không bao giờ tôi tin rằng cái vương đạo có thể thực hiện được trong lãnh vực chính trị trần thế. Cũng vì vậy mà sau khi đã chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu về mặt độc lập dân tộc, ảnh hưởng thơ Tố Hữu về mặt công bằng xã hội và mãi sau này tư tưởng của Emmanuel Mounier, tư tưởng của các thông điệp về Giáo Hội của các vị Giáo Hoàng, tuy tôi có ít nhiều khao khát về độc lập, vế măt công bằng xã hội, nhưng tôi không bao giờ có nhiệt tình cách mạng, vì không bao giờ có lòng tin vào bất cứ một thuyết nào cả! Phải nhìn nhận rằng về mặt này tôi rất bi quan! Tôi chỉ có lòng kính mến những kẻ thất bại vì đấu tranh: Nhạc Phi, Nguyễn Trãi … và tôi cứ tự mình hỏi nếu họ thành công và có quyền lực thì họ có còn giữ được sự cao đẹp của lý tưởng ban đầu không? Và hình như tôi có xu hướng cho rằng mọi quyền bính đều làm hư con người. Kẻ cầm quyền khó mà tốt được! Tôi hoàn toàn đồng ý với câu: ‘Le pouvoir corrompt par essence’ (bản chất của quyền lực là làm hư con người). Như cụ Nguyễn Du có nói: Lạ gì cái thói quan nha! Quan bao giờ cũng vẫn là quan! Sau này tôi rất khâm phục và tán thành, và hiểu vì sao, Chúa Giêsu đã nhiều lần từ chối lời yêu cầu của dân chúng và môn đệ muốn Ngài lên làm vua! Sử sách có được mấy anh quân lương thần? Vì thế, từ thuở bé, tôi đã hướng về mặt văn hóa giáo dục hơn là về mặt sinh hoạt chính trị. Tôi tin và kính mến các nhà chính trị khi họ chưa thành công. Còn khi đã thành công rồi thì?… cho nên trong cái vốn liếng Nho học nơi tâm hồn tôi có lẽ hình ảnh Nhan Hồi là hấp dẫn đối với tôi, vả chăng chính cụ Khổng cũng chỉ là một ông thầy chứ đâu có phải là một ông quan! Như thế, nền tảng đầu tiên trong tâm hồn tôi là một khao khát đạo đức luân lý được gieo vào qua trung gian một vị danh nho thời mạt vận của Nho giáo, của một triều đại, một chính thể quân chủ, của một nền văn hoá cổ truyền, dưới sự thống trị của thực dân Pháp hùng cường nên còn lấp lửng với một nền văn hóa ngoại lai, cũng vừa là nền văn hóa hiện đại. Nền giáo dục ấy không phải là không có nhiều giá trị cao đẹp, nhưng nó vừa có những bất túc do bản chất, vừa có những khiếm khuyết suy thoái của thời mạt vận. Nếu ví tâm hồn con người như gồm nhiều lớp địa chất, thì lớp đầu tiên trong tâm hồn tôi là cái tàn tích của một nền văn hóa và một chính thể suy đồi. Vì vậy trong tôi vẫn có một cái u hoài, hoài cổ, ít hướng về tương lai của thời gian trần thế! Các học thuyết về sự tiến bộ ít hấp dẫn đối với tôi; Có lẽ vì từ tấm bé tôi đã sống trong bầu khí của một thế giới đang trên chặng cuối của sự diệt vong: Nho giáo, Triều Nguyễn, và chế độ quân chủ.
Còn mẹ tôi? Người là vợ kế của thân phụ tôi, sau khi bà đích mẫu qua đời. Bà đích mẫu có sáu người con: 3 trai, 3 gái. Bà cũng thuộc dòng dõi Nho giáo, thân phụ người cũng đậu cử nhân, làm học quan, anh ruột người cũng đậu tiến sĩ, và một người em trai của người cũng đậu cử nhân. Nghe kể lại thì người hiền lành, nhưng cũng có lẽ vì sức khỏe kém, nên công việc tề gia, người phần nào không phải là tay đảm đang, người mất sớm, lúc người chị cả tôi 16 tuổi và chị con út của người lên 4 tuổi. Mẹ tôi cũng thuộc một gia đình Nho học, khá giả về kinh tế ở làng Đức Nhuận huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Ông ngoại ruột của tôi đậu cử nhân, nhưng có lẽ nhờ gia đình khá giả nên không ra làm quan. Người mất sớm, lúc mẹ tôi lên 4 tuổi. Mẹ tôi có một người anh trai đậu tú tài Hán học, cũng không làm quan, quê mẹ tôi là vùng quê xanh tươi trên bờ sông Giang, một phụ lưu của sông Lam, đặc biệt là sản xuất trầu. Những vườn trầu trồng với kỹ thuật cao. Trồng từng luống, cây trầu leo lên những giàn nứa lớp lang, rất gọn gàng đẹp mắt. Bà ngoại tôi góa chồng lúc mới 30 tuổi, ở vậy nuôi con, là một người đàn bà rất dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ, đi đứng khoan thai, đúng hình dạng một bà ngoại trong các tiểu thuyết viết về quê mẹ. Thường vào dịp nghỉ hè tôi về chơi quê ngoại vài tuần, một tháng, được bà ngoại, các cậu, các dì chiều chuộng, vui đùa với các anh chị em bên ngoại trong cảnh vườn êm ả bên giòng sông Giang trong mát, kỷ niệm toàn là êm đềm.
Mẹ tôi đương nhiên là một người đàn bà được giáo dục theo đúng mẫu mực Nho giáo thời xưa: Khuôn phép, cần kiệm, đoan trang, hết lòng vì chồng vì con, giúp chồng gầy dựng tài sản, dạy con rất khuôn phép để chúng tối nên người theo lý tưởng: họ giỏi, lương thiện và có địa vị trong làng ngoài xã hội. Mẹ tôi rất đảm đang, rất cần kiệm, làm gì cũng tính toán chu đáo về mọi mặt. Tuy không phải là kinh doanh to lớn nhưng cũng nhờ vào cần kiệm, dần dần người đã giúp thân phụ tôi gây dựng một tài sản tương đối khá so với vùng quê Nghệ Tĩnh. Ba ngôi nhà ngói tương đối lớn, vài sào vườn, khoảng 40 mẫu ta ruộng. Mẹ thuộc về một hình dạng đàn bà đoan trang mẫu mực cái gì cũng chín chắn, ít để tình cảm chế ngự, khá thông minh, và rất quân bình, ít khi tôi thấy người nóng giận, bi lụy ồn ào, ít khi la mắng, cũng ít khi khóc lóc kể lể! Người hy sinh vì con vì chồng, song ít biểu lộ tình cảm. Không nuông chiều con, nhưng cũng ít khi la mắng con lớn tiếng, hiền hoà nhưng chừng mực, hơi thiếu phần dịu dàng mà nặng phần đoan trang. Mẹ tôi là con người của bổn phận làm vợ, làm mẹ, có lẽ theo đúng hình ảnh Mạnh mẫu hơn là của người bình dân Việt Nam. Muốn mô tả mẹ tôi thì có lẽ hai tiếng Mẫu nghi đúng hơn Hiền mẫu. Vì thế, tương quan với con cái cũng như với bà con làng xóm rất ôn hòa nghiêm túc (có lẽ khó mà chê trách mẹ điều gì). Nhưng thiếu phần nào sự ấm áp dịu dàng, nặng bổn phận hơn là thân tình. Tôi cũng không hiểu vì đâu lại vậy, chứ các cậu các dì tôi thì có vẻ hào hoa phóng túng hơn, nhất là ông cậu cả của tôi, đúng là một tay hào hoa, thường nhắm rượu, hát ả đào, ít khi tưởng đến việc nhà. Tôi có phần nào giống các cậu và các dì hơn là giống mẹ, nhiều tình cảm, ít tính toán, hơi thiếu ý chí, phóng khoáng nếu không nói là phóng túng! Cuối cùng tôi nghĩ danh hiệu xứng với mẹ tôi nhất, có lẽ là “người đàn bà của bổn phận” đúng lý tưởng Nho giáo xưa.
Thế là đứng về mặt gia đình, bề ngoài mà xét tôi thuộc về một “danh gia, vọng tộc” trong cái xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân tư sản, ở vùng quê xứ Nghệ trước cách mạng 45. Có thể nơi tương đối là tôi có phúc theo quan niệm Nho giáo trung bình: địa vị cao, danh tiếng tốt, có gia giáo, được kính nể, phần nào được sự yêu vì của mọi tầng lớp xã hội. Đời sống gia đình rất nề nếp trật tự, thuận hòa phép tắc. Dư luận hồi đó cho như vậy là có phúc! Và chúng tôi cũng được dạy dỗ rằng sở dĩ như vậy là nhờ ông bà ăn ở có phúc đức, và nếu chúng tôi cũng muốn cho con cháu mai sau cũng được như mình, thì chúng tôi cũng phải vun quén “cội phúc” bằng một cuộc đời “ăn ở cho có đức”. Suy cho cùng, căn bản đạo đức quy vào gia đình: thừa hưởng phúc ông bà, gia phong nề nếp, có địa vị có học thức có đức độ, thì phải cố gắng duy trì cho con cháu đời đời. Vì thế việc thờ phụng ông bà và lo nối dõi để hương khói mai sau, là việc tối quan trọng. Hàng năm, các kỳ lễ giỗ là dịp để bà con đoàn tụ, để một mặt tưởng nhớ công đức tổ tiên, một mặt giáo dục cho thấm nhuần đạo hiếu.
Lẽ dĩ nhiên trên phúc tổ có dạy đến ơn trời: nhưng ơn trời được biểu hiện qua trung gian phúc tổ. Ngoài xã hội thì qua trung gian ơn vua và trung gian các vị linh thần, hiển thánh mà vị gần gũi nhất là vị Thần Hoàng thờ tại đình làng. Tại nguyên quán tôi cũng như tại cư quán, vị Thành Hoàng đều là công thần của triều Lê được nhà vua phong thần. Ngay cả vị tổ của chi họ NGUYỄN KHẮC của chúng tôi ở đất Nghệ cũng được phong thần, vì là một hiền thần của triều đình nhà Lê.
Về tâm tình tôn giáo, thì chung chung có ý niệm về một ông trời giàu đức hiếu sinh, nhưng được hình dung như một Thượng Đế uy quyền ban bố ơn lành cho muôn loài, đền ơn trả oán tùy theo đời sống đạo đức theo khuôn mẫu Nho giáo, tâm tình đó được tài bồi và thể hiện qua việc để đức cho con cháu sau khi đã được thừa hưởng đức ông bà. Theo lý tưởng Nho giáo thì có hai mặt: Hiếu và Trung, nhưng có lẽ vì ở vào thời Triều Nguyễn, triều đình chỉ là hư vị bù nhìn, nên việc giáo dục gia đình tôi hình như chỉ rút gọn vào “đạo hiếu”, và một thứ phúc đức “ăn ở tốt lành” qua trung gian việc thừa kế gia phong, lưu truyền ơn đức hơn là một đức bác ái thuần túy vô cầu. Nền đạo đức ấy không có gì là cao siêu, nhưng khá vững chắc để giúp chúng tôi biết cách xử thế theo một sự lương thiện: Phúc đức vừa phải, đôn hậu quân bình, không có những hy sinh tuyệt vời nhưng để giữ vững lương tâm tránh xa điều bạc ác; và cũng biết mở rộng chút ít cõi lòng đối với những kẻ thua thiệt hơn mình, làm ơn làm phúc một cách vừa phải!
Tuy làm quan, trên nguyên tắc là phải hết lòng thờ vua, dạy con cháu đạo trung quân; nhưng thân phụ tôi không bao giờ dạy chúng tôi về mặt ấy, và cũng không bao giờ nói đến chữ “ái quốc”. Có lẽ hai chữ “hiếu trung”, người đành để chữ “trung” vào vòng ngoặc mà chỉ chăm chú vào chữ “hiếu”. Người làm việc quan với tinh thần một công chức có lương tâm, chứ không phải với tâm hồn kẻ trung thần. Cũng chính vì thế mà lúc anh cả tôi đậu tú tài xong, mẹ tôi có ý cho anh học luật để nối nghiệp làm quan, nhưng chính thân phụ tôi lại không có ý kiến khi anh xin học vào nghành y khoa. Cũng chính vì vậy mà năm 45, người đã nhẹ nhàng thanh thản và chân thành tham gia tích cực mọi hoạt động của Liên Việt, như người có nói: “Chính Đức Hoàng Thượng xuống chiếu thoái vị trao quyền cho chính phủ cách mạng, chứ không xuống chiếu cần Vương”.
Nói chung, thuở thiếu thời của tôi sung sướng. Tôi lại được may mắn có ít nhiều thông minh, tính tình được xem là ngoan ngoãn hiền lành, ở nhà được cha mẹ, anh chị, chú bác, cô dì, cậu mợ thương mến, ở tại trường thì học giỏi được thầy mến bạn yêu, xóm làng cũng dành cho một sự kính nể mến yêu nào đó. Thật vậy, gia đình tôi tuy có địa vị, nhưng được xem như là một “nhà nho” hơn là một “nhà quan”, nên không bị xem như là hách dịch, quan liêu, mà được xem là “nề nếp gia phong”. Bạn học của tôi phần lớn là con em của những gia đình bình dân, và riêng tôi hình như có xu hướng thân thiện với các bạn con nhà bình dân hơn là những con nhà quyền quý (trừ con của các bạn khoa bảng với thân phụ tôi). Tuy trong nhà có kẻ hầu người hạ khá đông; vừa lính lệ của nhà nước vừa người làm mướn làm thuê; nhưng thân phụ tôi dạy chúng tôi phải biết kính trọng họ; nếu lỡ ra chúng tôi có lời nói hay cử chỉ hỗn láo đối với họ, thì người quở mắng rất nghiêm. Riêng tôi cũng như các anh chị tôi đều chịu ảnh hưởng bài thơ của Tố Hữu về anh Phước đi ở bị đối xử tàn tệ, nên chúng tôi cư xử với kẻ giúp việc trong nhà tương đối tốt và cũng được họ yêu mến; sau này khi gặp lại nhau, ai nấy đều tay bắt mặt mừng nhắc lại kỷ niệm cũ rất vui vẻ! Thậm chí có người vẫn xem gia đình tôi như là ân nhân của họ.
Lời nói đầu
PHẦN TỰ THUẬT 1 Thửa đất Nho giáo 2. Câu hỏi về giải thoát 3. Hạt giống Tin Mừng 4. Tu và Yêu 5. Bức tường Hội Thánh |
13. Trong bộ đồ lính 14. Quê người 15. Đi tìm một nếp tu 16. Ông thày tài tử 17. Lá rụng về cội 18. Xem lại một khúc phim 19. Tỉnh một cơn mê |