13 năm trước, tôi viết bài ‘‘CTKD 1: 4
năm trường học, 30 năm trường đời’’, đăng trong ‘‘Đặc san Kỷ niệm 30 năm khóa
1 CTKD’’ của Nguyễn Tường Cẩm. Trong thư viết tay ngày 24-9-1998, cha Viện
trưởng Nguyễn Văn Lập viết: “Mới được chiều hôm qua tài liệu anh viết về CTKD
khóa 1. Đã đọc cả đêm và hết sức vui.’’ Trong bài này, tôi viết về thầy Trần
Chánh Thành như sau: ‘‘Giáo sư Trần Chánh Thành (1917-1975) quyên sinh ngày
22 tháng 3 năm Ất Mão (1 giờ 20 sáng)tại
nhà riêng, đường Duy Tân Saigon. (…) Thầy Thành bận âu phục sậm mầu chỉnh tề,
chung quanh linh sàng là ảnh phu nhân và các con của thầy, đều đã xuất ngoại.’’
13 năm sau, tôi tình cờ gặp chị Trần Thị Châu là con thầy. Tôi xin chị viết lại
kỷ niệm năm xưa về Thầy. Ngày 13-3-2011, chị Châu gửi bài, cho biết đã ‘‘viết
trong nước mắt’’. Chị lấy tựa đề là: ‘‘Công cha như núi Thái sơn’’. Là học
trò, tôi mượn ý cổ nhân, viết về thầy như sau:‘‘Sinh vi giáo, tử vi thần’’ (生 爲 敎 死 爲 神):‘‘Ôi anh
hùng tử khí hùng nào tử, Nêu gương trong sách sử để muôn đời’’. Lê Đình Thông ________________________________________________________________________________________________________________
Tôi vẫn nhớ hoài khoảnh khắc của một chiều tháng tư âm u năm ấy ! Hình ảnh một người đàn ông đơn độc đứng vịn hàng rào phi trường Tân Sơn Nhất, dõi mắt nhìn gia đình đang rời xa ông và rời xa Sàigòn thân yêu này ! Đó chính là người Cha đáng kính của tôi ! Nước mắt của tôi lăn dài, đồng thời mường tượng những giọt nước mắt đang chảy dài trên gò má của Cha nên tôi ngập ngừng không nỡ bước đi. Như hiểu ý, ông vẫy tay thúc giục tôi nhanh chân lên đường. Không ngờ đó là hình ảnh cuối cùng của Cha trong tâm trí tôi.
Paris tháng tám năm 75, sau bao nhiêu tháng mong chờ, một điện tín từ Việt Nam với giòng chữ “…a succombé stop crise cardiaque stop Trần Trung Dung….”, tôi bàng hoàng không tin…. Một người Cha suốt đời tranh đấu cho lý tưởng, cho chính nghĩa và là người luôn bảo bọc, nuôi nấng, dạy dỗ chúng tôi phải nể trọng nhau và yêu thương đất nước, đã âm thầm ra đi.
Đối với tôi, Cha tôi vừa là cha, vừa là mẹ, ông chăm sóc từng giấc ngủ, lo lắng từng bữa ăn, ông luôn để mắt hướng dẫn tôi trong chuyện tương lai, chỉ bảo tôi trong chuyện tình cảm. Cha tôi rất khắt khe trong vấn đề giao tiếp của tôi nhưng không vì vậy mà cấm đoán tôi. Cha tôi quan niệm tôi là đầu tàu phải làm gương cho các em, như Cha tôi đã làm.
Dù rất bận rộn, Cha tôi luôn dành những ngày cuối tuần cho gia đình. Cha tôi là một người thể thao và có tâm hồn nghệ sĩ, tôi thường theo Cha đến Cercle Sportif Saigonnais chơi tennis. Nơi đây, ông gặp những người bạn tri kỷ cùng bàn luận về thơ và nhạc. Cha tôi ăn nói hoạt bát, lại vui tính nên rất được lòng phụ nữ, đã gây nhiều hiểu lầm giữa chúng tôi và Cha tôi giải thích : “…đất nước và niềm vui bên các con là quan trọng nhất…” Lúc nào ông cũng có những câu chuyện vui để đánh tan bầu không khí hục hặc giữa chị em tôi.
Tuy Cha tôi là người có quyền thế, giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng ông không bao giờ lợi dụng quyền hành để gây áp lực cho ai, ông tôn trọng ý nghĩ của mọi người, ngay cả đối với chúng tôi. Tôi nhớ một lần đã dám trả lời về thái độ khinh thường nước Việt Nam của một giáo sư dạy Sử Địa người Pháp trước mặt các bạn cùng lớp. Sau khi hiểu rõ về hành động của tôi, Cha tôi đã không trách mắng còn can thiệp, bênh vực tôi nên tôi chỉ bị đuổi học ba ngày, và không bị đưa ra hội đồng kỷ luật ! “…con không làm điều gì sai cả nên con không xin lỗi vị giáo sư này…” với sự đồng ý của Cha.
Những ngày cuối tuần, tôi cùng một nhóm bạn hay đi viếng thăm các cô nhi viện ở ngoại ô Sàigòn. Cha tôi tỏ ý vui vẻ, hoan nghênh và cổ động tôi thường xuyên chăm sóc và vui chơi với các em cô nhi. Cha tôi tâm sự “…Ba không đạt được nguyện vọng trở thành bác sĩ để giúp đỡ người nghèo…, vì hoàn cảnh gia đình túng thiếu nên Ba đã chọn ngành Luật…”. Cha tôi không bao giờ hành nghề luật sư.
Cha tôi thường nói “… người con gái như một đóa hoa có sắc nhưng không có hương nếu không trau dồi công dung ngôn hạnh và mở mang kiến thức…”. Cho nên, ngoài giờ học, Cha tôi khuyến khích tôi học thêm về gia chánh, làm những món ăn miền trung và bánh trái. Rất hiếu khách, Cha tôi thường rủ bạn về nhà, đó là dịp để tôi “trổ tài” và để Cha tôi phê bình nhưng qua ánh mắt, tôi hiểu ông rất hãnh diện về tôi.
Cũng như đa số các bạn, sau khi đậu tú tài, tôi xin đi du học, nhưng Cha tôi khuyên “… học xong đại học, ba sẽ cho con đi Pháp tu nghiệp vì lúc đó con có thể tự lo liệu …”. Cha tôi là môt người thanh liêm, làm sao có tiền cho tôi đi du hoc ? Ngày đó, tôi không hiểu lời nói này. Vậy mà vô tình, lúc nào tôi cũng muốn rời xa Cha tôi. Nay muốn trở lại những ngày tháng bên Cha nhưng đã quá muộn!
Tôi không theo đuổi lý tưởng của Cha khi tôi quyết định ghi danh Đại học Chánh trị Kinh doanh của Viện Đại học Đà lạt, nơi Cha tôi thường lên giảng dạy “…con thích học Y, tại sao bỏ Đại học Y khoa Minh Đức ?... Bất luận ngành con đã chọn lựa, con phải làm cho tốt …” Những buổi chiều tan học, đi ngang giảng đường Thượng Hiền thấy Cha đang thao thao giảng bài, nhìn tôi với nụ cười hiền hậu. Tối đến, hai cha con cùng đi ăn món thịt bò “bít tết” : thịt bò chiên với quả trứng gà mà sao tôi thấy thật ngon và hạnh phúc vô cùng vì đây là dịp được tâm sự cùng Cha như một người bạn.
Cuối tháng ba năm 75, trong tình thế thật rối loạn, các bạn của tôi lần lượt từ giã Đà lạt. Tôi yên tâm chờ đợi tin của Cha, tiếp tục ôn bài để kịp thi ra trường với ước nguyện được đi du học. Và tôi đã rời xa Đà lạt trong chuyến xe đò cuối cùng, mang theo môt tâm trạng buồn phiền, giận dỗi. Bước chân vào nhà, thấy Cha đang ngồi trên ghế đá trước sân, chơi đàn guitare “…ba khó khăn lắm mới liên lạc được với văn phòng trường, nhưng họ nói không còn ai trong đại học xá, ba rất lo cho con …”, rồi ông xin lỗi vì đã chậm trễ kêu tôi. Nghe Cha nói, những tủi hờn phút chốc tiêu tan, nước mắt lưng tròng. Tôi biết dù ở trong hoàn cảnh nào, Cha tôi không bao giờ bỏ rơi tôi.
Nhưng tháng năm năm đó, Cha tôi đã bỏ cuộc ra đi, xin chúng tôi tha thứ và thông cảm cho hành động của ông.
Tôi tôn trọng quyết định của Cha tôi và tôi rất hãnh diên cùng tự hào về người Cha đáng kính ! Dù đã 36 năm qua, tôi không bao giờ quên bản Dư âm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý mà Cha tôi thường chơi mỗi khi buồn phiền và cũng để che dấu một nỗi niềm riêng tư mà ngày nay, chỉ có tôi mới hiểu.
Một kỷ niệm là một giọt nước mắt khơi bao niềm thương tiếc…. Cha tôi đã thật sự xa tôi rồi !